24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

  •  
    Chi Tran

     

    CHÚA QUÁ THƯƠNG XÓT THÌ CON NGƯỜI CÒN PHẢI LO GÌ NỮA ?

      Hỏi : xin cha giải thích thắc mắc sau đây:

    Chúa Giêsu từng nói : Ta đến để tìm người tội lỗi chứ không tìm người công chính. Vậy người có tội đâu còn phải lo lắng gì nữa phải không, vì Chúa đến để tìm họ mà ?

    Trả lời:

    Tôi đã nhiều lần giải thích rõ là Thiên Chúa quá yêu con người.Và chính vì tình thương vô vị lợi này mà Thiên Chúa đã tạo dựng và cứu chuộc con người nhờ Chúa Giê-su Kitô, Đấng cũng vì yêu thương nhân loại tội lỗi nên đã vui lòng đến trần gian làm Con Người để hy sinh mạng sống mình “ làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20: 28)

    Như thế, nếu không cậy nhờ lòng thương xót bao la của Chúa Cha, và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Con, thì không ai có thể tự sức mình làm được điều gì đáng được cứu rỗi để vào Nước Trời hưởng phúc vĩnh cửu, sau khi phải chết đi trong thân xác có ngày phải chết đi này.

    Nhưng không phải vì Chúa  Cha quá yêu thương và công nghiệp cứu chuộc  quả đủ của Chúa Cứu Thế Giêsu mà con người khỏi phải làm gì nữa và đương nhiên được cứu rỗi để  vào Thiên Đàng mai sau.Hay nói khác đi, Chúa Kitô đến để tìm  và chết cho  người có tội, nhưng không phải vì thế mà con người cứ  tự do sống trong tội, cứ làm sự dữ rồi vẫn  được cứu độ, vì đã có Chúa Kitô chết thay cho mình rồi , nên không ai phải lo sợ gì nữa để cứ an tâm sống  và làm những gì mình thích ?

    Trái lại,  vì con người còn có ý muốn tự do ( free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người xử dụng,  để hoặc chọn sống theo đường lối  của Chúa và bước đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là sự Thật và là sự Sống.” ( Ga 14: 6). Hay ngược lại, chọn sống theo ý muốn riêng của mình, chạy theo thế gian và đầu hàng ma quỉ để làm những sự dữ như oán thù, nghen  nghét, thâm độc, giết người ,giết thai nhi, bạo động, khủng bố,  trộm cướp, bất công và bóc lột người khác, thay chồng đổi vợ, bắt cóc hãm hiếp,  buôn bán phụ nữ và trẻ gái để bán cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn, như thực trạng sống của biết bao con người ở khắp mọi nơi trên thề gian tục hóa, vô luân vô đạo hiện nay.

    Nếu con người xử dụng tự do để làm những sự dữ nói trên mà không ý thức được ác tính của các sự dữ mình làm, để sám hối ăn năn chừa bỏ, thì Thiên Chúa không thể cứu ai được,  dù Người là tình thương bao la và dù công nghiệp cứu  chuộc của Chúa Kitô là quá đủ cho con người được cứu rỗi.

    Nói rõ hơn, lòng thương xót của Thiên Chúa và công nghiệp của Chúa Kitô không bao giờ là bình phong lá chắn cho ai lợi dụng để cứ làm sự dữ, sự tội rồi lại nại đến lòng thương xót thứ tha của Chúa mà  không ăn năn, chừa bỏ để  sống theo đường lối của Chúa  hầu được cứu độ để vào Nước Trời mai sau.

    Đó là lý do tại sao Chúa Giê su đã nói với  môn đệ xưa như sau :

      không phải bất cứ ai thưa với Thầy :Lậy Chúa! lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi. ( Mt 7: 21)

    Thi hành  ý muốn của Cha trên trời có nghĩa cụ thể là phải  thực thi những gì Chúa

    Giêsu đã dạy về mến Chúa yêu người, thực  thi công bằng, bác ái để  không bất công và bóc lột ai, nhất là thương giúp người nghèo khó để không dửng dưng trước sự đau khổ và bất hạnh của họ. Chúa Kitô thực sự đang hiện diện nơi những người nghèo khó, bệnh tật, bị áp bức  tù đầy  và thách đố chúng ta  thi hành bác ai đối với họ. Và Chúa coi đây như thi hành bác ái  đối với chính Chúa, như Người đã dạy trong dụ ngôn về ngày phán xét sau hết trong Tin mừng Thánh Matthêu, chương 25.

    Mặt khác , thi hành ý muốn của Cha trên trời cũng đòi hỏi chúng ta phải xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội mới làm ngăn cách chúng ta với Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành. Chúa yêu thương con người chứ không yêu thương tội lỗi của con người. Chinh vì tội lỗi của nhân loại mà Chúa Kitô đã phải trả giá rất đắt là khổ hình thập giá kết thúc với cái chết thê thảm của Người trên thập giá năm xưa.

    Vì thế, muốn hưởng công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa, thì nhất thiết đòi hỏi mọi người tín hữu chúng ta phải thực tâm xa tránh mọi tội lỗi để không làm hư công  nghiệp cực trọng của Chúa. Đó cũng là lý do tại sao, sau khi tha tội cho một phụ nữ phạm tội ngoại tình và bị bọn biệt phái dẫn đến xin Chúa cho ném đá, Chúa đã nói với chị kia như sau :

       “ Tôi cũng vậy, Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ  về đi , và từ nay đừng phạm tội nữa.” ( Ga 8: 11)

    Tại sao Chúa không nói : Ta là tình thương  và hay tha thứ, nên các ngươi  cứ an tâm  làm gì tùy ý. Nếu có phạm tội thì cứ đến Ta tha thứ cho. Trái lại, Chúa nói rõ : Đừng phạm tội nữa.

    Nơi khác, Chúa còn nhấn mạnh thêm như sau : “… Tôi nói cho các ông ( bọn Biệt phái) biếtnếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.”( Lc 13: 3)

    Chúa nói những lời  trên để trả lời mấy người biệt phải để hỏi Chúa xem có phải mấy người bị Tổng Trấn Phi-la-Tô giết , cùng với 18 người khác  bị thác Si-lô-a đổ xuống  đè chết có phải là những người tội lỗi hơn người khác hay không ,

    Như thế đủ cho thấy là Chúa thương xót và tha thứ cho  kẻ có tội, nhưng không  dung dưởng   tội của con người. Do đó, chúng ta không được lầm tưởng tình thương  tha thứ của Chúa  với sự dung  dưỡng làm ngơ  cho con người cứ sống trong tội, cứ lợi dụng lòng thương xót của Chúa để không quyết tâm chừa bỏ tội lỗi.

    Bản chất con người là yêu đuối, dễ sa ngã trước những quyến rũ của thế gian, nhất là những cám dỗ tinh quái của ma quỷ. Nhưng nếu ta nương nhờ ơn Chúa nâng đờ thì vẫn có thể đứng vững và tiến trên đường hoàn thiện, để không phạm tội mất lòng Chúa  và nguy hại cho hy vọng được cứu rỗi.

    Nói khác đi, ca tụng lòng thương xót của Chúa là điều chính đáng, phải đạo, vì thật sự  Chúa rất yêu thương con người và “ muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biêt chân lý” ( 1Tm 2:4). Nhưng con người phải tỏ thiện chí muốn sống theo đường lối của Chúa để không làm những sự dữ, sự tội, là những điều Chúa gớm ghét vì nó xúc phạm nặng nề đến bản chất yêu thương, công bình và thánh thiện của Người.

    Phạm  đến bản chất yêu thương của Chúa khi chứa chấp trong lòng những oán thù, nghen ghét dẫn đưa đến trả thù, giết hại người khác về tinh thần cũng như thể lý,  khủng bố , bắt cóc, hãm hiếp,  thủ tiêu, và chiến tranh giết hại người dân vô tội, nhất là giết thai nhi và trẻ nữ như  thực trạng đã và đang diễn ra ở Trung cộng và Ấn Độ  Riêng ở Mỹ, nạn phá thai đã giết hàng triệu thai nhi mỗi năm, và bọn làm nghề này ( tổ chức Planned  parenthood)  còn đem bán các bộ phận cơ thể của thai nhi như  những món hàng thương mại mà có người đã quay được  phim (Video) đem chiếu cho quần chúng xem để tố cáo tội ác của bọn bất lương, đang dựa vào luật cho phá thai để làm sự dữ nói trên.

    Thứ đến, tội phạm đến đức công bình của Chúa  như gian  tham, trộm cắp, khai gian, chứng gian để lãnh trợ cấp xã hội và bồi thường tại nạn  lao động  và xe cô, bóc lột người làm công cho mình, làm hàng giả để kiếm lời to.v.v

    Sau hết là tội phạm đến sự thánh thiện của Chúa như  dâm ô, ( mua và bán dâm)

    ngoai tình, ấu dâm ( child prostitution) rất khốn nại của thời đại vô luân hôm nay

    khiến cho biết bao trẻ nữ đã bị phá hoại cả tinh thần lẫn thể xác vì bọn bất lương, vô luân vô đạo đã đi tìm thú vui rất khốn nạn này nơi các trẻ em còn ngây thơ trong sạch. Nhưng chẳng may bị sa vào lưới ác độc  của bọn buôn người vô lương tâm ,vô luân đã bắt cóc hay mua bán chúng để cung cấp cho bọn mặt người, dạ thú  hành nghề mãi dâm và ấu dâm  để kiếm tiền mua lò hỏa thiêu chúng đời đời  mai sau  trong hỏa ngục.

    Tóm lại, tất cả mọi sự dữ ,sự tội đều  là điều Thiên Chúa chê ghét và không muốn cho con người vấp phạm. Không muốn cho ai làm những sự dữ đó không phải vì lợi ích nào của Chúa  mà vì lợi ích của chính con người mà thôi.

    Nói rõ hơn, không có cha mẹ nào yêu thương con cái mà lại làm ngơ hay cho phép con cái làm những việc sai trái như bỏ học, đi theo bọn lưu manh, băng đảng , hút sách, trộm cắp, bài bạc .v.v.Trái lại, cha mẹ nào cũng mong muốn cho con cái ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành, tránh xa bọn du đãng ,băng đảng lưu manh đồi trụy.

    Thiên Chúa còn yêu thương con người hơn bất cứ cha mẹ nào yêu thương con mình.Vì thế, Chúa cũng không muốn cho ai đi vào con đường dẫn đưa đến hư mất đời đời. Phải tin chắc điều này để đừng ai nghĩ Thiên Chúa có lợi gì khi ngăn cấm con người không được làm điều này, tránh việc kia. Vì thế, tất cả lề luật của Chúa chỉ nhằm dẫn đưa con người vào cõi sống hạnh phúc vinh cửu với Chúa trên Nước Trời , sau khi con người kết thúc hành trình sống tạm trên trần gian này.

    Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ và dân chúng xưa là :

     “ hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh  em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” ( Lc 13: 24)

    Cửa hẹp là khép mình vào trật tự và kỷ luật của luân lý, để đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường , là sự Thật và là sự Sống.” ( Ga 14:6), trái với của hẹp là cửa rộng đi vào con đường  rộng rãi thênh thang, dẫn đến các sòng bạc, nhà tắm hơi, ổ điếm , chỗ ăn chơi nhẩy nhót cuồng loạn và các thẩm mỹ viện sửa thân hình cho thon gọn sexy..trẻ mãi không già…Nhưng liệu có trẻ mãi để hưởng những thú vui vô luân vô đạo,chóng qua ở đời này mãi hay không ?

    Ai khờ khạo muốn bám vào những thực thể lôi cuốn của trần gian như tiền bạc, của cải, danh vọng , giầu sang …  thì hãy nghe lời canh cáo sau đây của Chúa Giêsu:

    “ Đồ ngốc,! nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai? . Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng sẽ như thế đó,”   ( Lc 12: 20-21)

    Hoặc nói rõ hơn nữa :

     anh  em phải  đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa,  lo lắng sự đời kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh  em, vì ngày  ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất…” ( Lc 21: 34-35) . Ngày ấy là ngày mà mọi người – xấu cũng như tốt-  phải ra trước mặt Chúa để trả lời về cuộc đời và mọi việc mình làm trên trần thế này. Chúa nói : “ ai có tai nghe, thì nghe.” ( Mt  13: 43; Mc 7:16; Lc 8:8)

    Tóm lại, Thiên Chúa là Cha đầy lòng sót thương con người và mong muốn cho mọi người được hạnh phúc với Người trên Nước Trời mai sau. Nhưng đó chỉ là hy vọng  thôi,  chứ chưa xảy ra   ngay bây giờ, vì con người còn phải sống tạm trên trần gian này một thời gian dài ngắn, tuy theo  số phận của mỗi người. Trong khi chờ đời Ngày hạnh phúc trên Nước Trời mai sau, mọi người tín hứu chứng ta được mong đợi sống theo đường lối của Chúa qua quyết tâm xa tránh tội lỗi để cuối cùng được cứu độ mà vào Nước Trời hưởng phúc vĩnh cứu với Chúa là Cha nhân từ đang chờ đón để  ôm lấy mọi con cái tứ phương qui tụ lại,  như người cha nhân hậu chờ đón và ôm lấy đứa con đi hoang trở về.

    Ước mong những giải thích trên thỏa mãn câu hỏi đặt  ra.

    Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

ĐỨC KHIÊM NHU VÀ KHÓ NGHÈO

ĐỨC  KHIÊM NHU VÀ KHÓ NGHÈO NỘI TÂM QUAN TRỌNG VÀ CẦN THIẾT RA SAO ĐỂ MỞ MANG NƯỚC CHÚA VÀ MỜI GỌI THÊM  NHIỀU NGƯỜI NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SỐNG  NHÂN CHỨNG CỦA MÌNH ?

 Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho  người đời , vì  xét theo khôn ngoan của con người ,  thì  đa số  chỉ  biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên người ta  khinh thường mọi giá tri tinh thần và đạo đức trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm.

 Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời,  thì khó nghèo lại là một nhân đức cần  phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra  trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.

Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam  mê  về tiền bạc và của cải vật chất,tôn thờ khoái lạc ( hedonism) khiến dửng dưng – hay   lãnh cảm ( numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội, đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa  và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng  nhân đạo..

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ , đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng  “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng  dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu và Á Châu.

Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo  đói, sống vất vưởng trên  hè phố ở các đô thị  lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà để ở và hàng ngày phải  đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú , tỉ phú không hề quan tâm đến họ.  Chính quyền liên bang cũng như  tiểu bang , cho đến nay,  vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý  là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria...vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, chứ không phải vì thương giúp gì dân nghèo , nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội ở các quốc gia đó;  nhưng đáng buồn hơn nữa   là  dân các nước nói trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! ( Irak và Afghanistan)!

Trước thực trạng  trên của Thế giới,  Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng,  đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải  làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa  nơi những người xấu số  này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.( x Mt 25)

Đức Thánh Cha đã nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi,  và  nhất là tình thần và đời sống  khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh  em  để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8:9)

Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô  muốn thực hành   phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi  noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để  nên  nhân chứng dích thực  cho Chúa , “Đấng đã  đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để  phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20: 28).

Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y  ngày  13 tháng 1năm 2014 , Đức Thánh Cha Phanxicô  đã nhấn mạnh như sau :

   “  cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion)  một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó  xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới  này với lòng khiêm cung,  giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cứ cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.

                           Tai sao phải sống khiêm nhu và khó nghèo  ?

Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo  ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người trong gia đình  có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như  nhà ở, cơm ăn  áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ ,vì  ở Mỹ không ai có thể đi bộ hay xe đạp để đi làm hay đi học được..Nghĩa là không nên  “lý tưởng  thiếu  thực tế” để chỉ  chú trọng  đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.

Nhưng  điều quan trọng nhất  là phải có  nhân đức khiêm  nhường  và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô   đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn)  nghèo khó vì Nước Trời là của họ. ( Mt 5:3; Lc 6 : 20)

Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới  về phần xác như  đã nói ở trên   mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm  chóng qua ở đời này    đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến  không còn chú tâm  vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ  và  săn sóc về mặt thiêng liêng.

Người tông đồ mà không có nhân đức khiêm nhu và  khó nghèo, để  khinh chê tiền bạc , của cải  vật chất và danh vọng hào  nhoáng ở đời ,  thì không thể rao giảng sự khó  nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có  và không  sống khiêm nhu và khó nghèo thực sự , mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo   và khiêm tốn  thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.

Mặt khác,  sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những  giáo đường,  nhà  xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để  khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu  để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương  bề ngoài với  số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố,  trong khi rất nhiều người ( giáo sĩ, tu sĩ)  vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.

Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ - nam cũng như nữ-  mà ham mê tiền bạc ,  thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được  tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có  chỗ tựa đầu.” ( Mt 8: 20)

Thử hỏi Chúa có đóng kich “ khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không ?  

Ai dám nói là không ?  Nếu vậy, thì Chúa quả  thực  đã  sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế  để nêu gương  nghèo khó trong tâm hồn  và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là  các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành  lời Chúa để đi tìm và  “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” ( Mt  6: 20)

 Nếu người tông đồ  mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì  xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng,  thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm  sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai  tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe..

 Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và  xa tránh hay chống lại  những cám dỗ về  tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi.Và  nhiên hậu, cũng sẽ  không hơn gì bọn Biệt phái  và luật sĩ  xưa kia, là   những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón  tay vào.”( Mt 23: 4).

Nói rõ hơn, giảng  tinh thần khiêm nhu và  khó nghèo của Chúa cho người khác,  mà chính mình  lại sống phản chứng  bằng cách chạy theo tiền của,  dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại  xe đắt tiền như  Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo,vì có bổng lễ thấp, mà  chỉ nhận  lễ có bổng lễ cao, nhất là bày chuyện “lễ đời đời”, một hình thức buôn thần bán thánh (simonia), để lấy nhiều tiền  của giáo dân không am hiểu về giá trị  thiêng liêng của việc xin lễ..

  Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi  linh mục, giám mục  nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ, thì  cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể  nói chung vì “ con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam  đã dạy.

Như vậy, Giáo Hội của Chúa phải thực sự khiêm nhu và nghèo khó  theo gương  Mẹ Maria , Thánh Giuse và nhất là Chúa Giêsu, Người đã thực  sự sống và chết cách khiêm nhu nghèo khó để dạy mọi người chúng ta  coi khinh , coi thường sự sang giầu, danh vọng  phù phiếm ở đời này, để đi tìm sự giầu sang, vinh quang  đích thực là chính Thiên Chúa,  cội nguồn  của mọi vinh phúc giầu sang  vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải và  hư  danh  ở đời này không thể mua hay đổi chác được.

Chỉ có nghèo khó, và khiêm nhu  thực sự trong tâm hồn,  thì Giáo Hội mới có thể  lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền,  của cải vật chất,danh vọng trần thế,  để không  làm tay sai cho thế quyền mà  trục lợi cá nhân. Lại nữa, nếu quá yêu chuộng tiền bạc và  hào nhoáng bề ngoài,  để nay tổ chức mừng 10 năm,mai  15 năm, ngày khác  20 năm thụ phong.., để kiếm tiền mừng của giáo dân. Mà Kiếm để làm gì mới được chứ ? Cách riêng linh mục làm việc ở Mỹ,được ưu đãi về lương bổng  nhiều hơn các linh mục làm việc ở Á ,Âu Châu, nhất là ở ViệtNam, nên không cần thiết phải kiếm thêm tiền bằng cách chỉ nhận làm lễ với  bổng lễ cao, nhất là tổ chức mừng sinh nhật, mừng kỷ niệm thụ phong 5 năm, 10 năm, 15 năm nhiều lần như vậy để kiếm tiền mừng của giáo dân, nhưng lại  là một trở ngại  cho linh mục sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô-và mặt khác-làm phiền cho giáo dân cứ phải mừng cha xứ, cha phó trong những dịp như vậy  !

Tóm lại, muốn   thi hành có hiệu quả  sứ  mệnh thiêng liêng của mình là  rao giảng Tin Mừng  Cứu Độ  của Chúa Kitô, thì người Tông đồ lớn nhỏ  phải là mẫu gương sáng chói về  sự chê nghét của cải và  hư danh trần thế ,  để cứ dấu này  “ người ta sẽ nhận biết anh  em là môn đệ của Thầy,( Ga 13: 35) như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ xưa.

Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này,  không hề phục vụ cho  nhu cầu  tìm kiếm tiền bạc , danh vọng  trần thế  và của cải vật chất hư hèn,   mà  chỉ cho mục đích hướng dẫn con người đi   tìm kiếm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi.  Lại nữa, không có  giáo sĩ và tu sĩ nào  có lời khấn sang giầu vật chất  mà chỉ có lời khấn khó nghèo, vì Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa  là chính nguồn vui, và vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu .  Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có  kia  là  “ hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo , anh sẽ được một kho tàng trên trời , rồi hãy đến mà theo tôi.” ( Mc  10:  21)

Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng  soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ-  bước đi qua  bóng tối đen dầy đặc  của   tiền bạc,  của cải vật chất,và danh vọng trần thế hư hão,  là những quyến rũ  đã và  đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê  đi tìm kiếm và  tôn thờ,  thay vì  tìm kiếm và tôn thờ  một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi  phú quý  giầu sang và vinh quang đích thực mà thôi.Amen.

Chúa nói: “ ai có tai nghe thì nghe” ( Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)

Ước mong những giải đáp trên đây thỏa mãn câu hỏi đặt ra

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, MDiv, MA. DMin. (Doctor of Ministry=Tiến Sĩ Sứ Vụ)

--------------------------------------

                                

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - 10 ĐIỀU RẤT CẦN BIẾT

  •  
    Chi Tran chuyển

     
     

    10 điều rất cần biết của người công giáo

     Cá phải bơi. Chim phải bay. Người Công giáo phải đi lễ Chúa Nhật. Rạch ròi và minh nhiên. Là người Công giáo nghĩa là phải biết và làm một số điều – chẳng hạn là tham dự Thánh lễ.

    Nửa thế kỷ sau Công đồng Vatican II, người ta vẫn hiểu sai về cách dạy đức tin tại các giáo xứ, trường học và gia đình. Kết quả là rất nhiều người Công giáo vẫn không biết rằng họ có nhiệm vụ là tin hoặc thực hiện. Hơn 20 năm qua, với cuốn Giáp lý Công giáo, Hướng dẫn Tổng quát về Giáo lý và Hướng dẫn Quốc gia về Giáo lý, xu hướng đó đã đảo nghịch. Tuy nhiên, hệ quả của sự hỗn độn hậu Công đồng vẫn còn ở một số nơi.

    Mới đây, tổ chức Our Sunday Visitor (Vị Khách Chúa Nhật) đã nghiên cứu các nhà giáo dục tôn giáo về vấn đề này, yêu cầu giúp đỡ soạn thảo một danh sách gồm các các điều cơ bản về giáo lý mà mỗi người Công giáo cần biết, nhưng nhiều người không hề biết. Đây là những gì chúng ta cần biết:

     1.  Chúng ta phải nên thánh

     

     Nên thánh không là lĩnh vực đặc biệt của một số người được chọn, không dành riêng cho giáo sĩ, tu sĩ hoặc chỉ một số người được đặc cách. Thiên Chúa kêu gọi tất cả mọi người nên thánh. Nhưng chúng ta phải chọn cách đáp lại lời mời gọi đó. Chúng ta phải biết nói “vâng” đối với ân sủng Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta, và “vâng” đối với Thánh Ý hoàn hảo của Ngài mọi nơi và mọi lúc.

    Ở mức độ thực hành, điều đó nghĩa là đón nhận ân sủng qua các bí tích, đặc biệt là rước lễ và xưng tội. Điều này cũng có nghĩa là biết nguồn ân sủng và qua mối liên hệ đó mà nên giống Chúa hơn trong đời sống hằng ngày, biết yêu thương hơn, chân chính hơn và thương xót hơn giống như khi chúng ta gặp chính Ngài, qua Lời Chúa và Giáo hội. Điều đó cũng có nghĩa là sống theo luật Chúa, không phải luật thế gian. Nghĩa là yêu thương người khác như chính mình, phục vụ Chúa bằng cách phục vụ tha nhân, nhất là những người nhỏ bé nhất.

    Dĩ nhiên, việc tiếp tục nói “xin vâng” không hề dễ dàng, nhất là khi là lời “xin vâng” để kết hiệp với Chúa Giêsu trên Thánh giá. Nhưng phần thưởng cuối cùng cho lời “xin vâng” của chúng ta là sự bình an và niềm vui vĩnh cửu. Đó là mục đích mà chúng ta được tạo dựng. Không có kết thúc nào tốt hơn như vậy.

    Xin xem Mt 5:48; GLCG số 826, 897-913, 941, 1426, 2015.

     2.  Chúng ta đều là tội nhân

     

     Ngoại trừ Chúa Giêsu và Đức Maria, mọi người đều “di truyền” tội nguyên tổ từ cha mẹ đầu tiên của chúng ta. Nghĩa là chúng ta sinh ra mà không có ơn thánh hóa cần thiết để chống lại cơn cám dỗ.

    Nhờ bí tích Thánh tẩy, chúng ta lãnh nhận ơn thánh hóa, được tha thứ cả những tội mình đã phạm. Nhưng hệ lụy tội nguyên tổ vẫn còn. Vì khi chúng ta sống, mỗi chúng ta vẫn có nhiều khả năng quay lưng lại với Thiên Chúa. Với nhiều mức độ, chúng ta thể hiện “khả năng phạm tội” hằng ngày.

    Một số người phạm tội tày trời – giết người, bạo lực, tham ô, ngoại tình,... Một số người phạm tội nhỏ, nhưng vẫn là tội lớn. Chúng ta nói dối và che giấu lầm lỗi của mình. Chúng ta nói hành, nói xấu người khác. Chúng ta xem ti-vi thay vì phải học hỏi hoặc làm điều cần hơn. Chúng ta nóng giận và không biết xin lỗi. Chúng ta không quan tâm nâng đỡ người nghèo. Chúng ta không thờ phượng Chúa. Chúng ta ghen tỵ, đố kỵ. Chúng ta tham lam. Chúng ta xét đoán. Mọi tội lỗi đó có hậu quả tạm thời là “bị tù lương tâm”, nghĩa là mất niềm tin ở người khác, tất nhiên cũng có hậu quả tâm linh.

    Một số tội làm mất ơn thánh hóa. Một số tội làm giảm khả năng yêu thương. Tất cả đều khiến chúng ta dễ phạm tội hơn. Cũng vậy, chúng chống lại Thiên Chúa. Đó là lý do chúng ta cần được Ngài tha thứ, được Ngài thương xót, được Ngài cứu độ.

    Xin xem Rm 3:23; GLCG số 404, 1263, 1849-1869.

     3.  Tôn thờ Chúa Giêsu

     

    Người Công giáo không tin vào bất kỳ thần linh nào khác. Chúng ta chỉ tin vào MỘT Thiên Chúa Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, đồng bản thể. Chúng ta biết điều đó vì Chúa Con đã làm người và mặc khải chân lý. Chúa Giêsu Ngôi Hai cũng mặc khải đường tới Thiên Chúa là chính Ngài: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6).

    Như vậy, việc tôn thờ Chúa Giêsu không là cách chọn lựa riêng của người Công giáo trong đời sống đức tin, nhưng đó là một yêu cầu, một đòi hỏi. Nếu chúng ta muốn sống thánh thiện, hạnh phúc và vào Nước Trời, chúng ta phải biết Chúa Giêsu là ai, Ngài dạy gì và muốn gì ở chúng ta. Chúng ta cũng phải yêu thương và phụng sự Ngài với cả con người của chúng ta.

    Muốn làm vậy, chúng ta cần tìm hiểu Chúa Giêsu qua lời của Ngài và những lời viết về Ngài. Chúng ta cần lãnh nhận Chúa Giêsu qua bí tích Thánh Thể. Chúng ta cần tâm sự với Ngài về mọi thứ – về những gì chúng ta yêu và ghét, sợ và muốn, nghĩ và cảm nhận. Mọi quyết định, mọi sự chiến đấu đều cần được chuyển tới Ngài. Cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha và Kinh Mai Côi rất cần và rất tốt, thậm chí là yêu cầu bắt buộc. Đó là chỉ thị: Cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc. Chúa Giêsu muốn chúng ta mời gọi người khác cùng làm.

    Ngài truyền lệnh cho các tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20). Đó cũng là lệnh truyền cho những ai mệnh danh là Kitô hữu.

    Nhờ bí tích Thánh tẩy và Thêm sức trong Đức Kitô, tất cả chúng ta có trách nhiệm chia sẻ đức tin và mời gọi người khác cùng nhận biết Chúa Giêsu. Ccta cũng có trách nhiệm làm chứng về Đức Kitô theo văn hóa của chúng ta – mở rộng lòng thương xót, bảo vệ sự thật, bảo vệ sự sống, phục vụ người nghèo và tạo niềm hy vọng cho thế giới. Tóm lại, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm tác nhân của công cuộc tân Phúc Âm hóa, để người khác cũng nhận ra diện mạo của Đức Kitô. Hãy yêu thương, yêu thương thật lòng, yêu thương vì Chúa và vì tha nhân, chỉ thế thôi: “Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (1 Ga 5:3).

    Xin xem Mt 11:27, 28:16-20; Ga 14:6; Ep 6:18; Pl 3:8; GLCG số 422-429, 456-478, 2558-2564.

     4.  Đọc Kinh Thánh

     

    Phần lớn trong việc tôn thờ Chúa Giêsu là đọc lời của Ngài. Chúng ta gặp Ngài trong Kinh Thánh. Qua đó, chúng ta cũng gặp chính mình, gặp những chuyện đời của chính mình – câu chuyện lịch sử ơn cứu độ. Từ Adam và Eva tới Yến Tiệc Con Chiên, Kinh Thánh kể chuyện về kế hoạch của Thiên Chúa đối với thế gian. Kinh Thánh cho biết tình yêu của Ngài và số phận của nhân loại, với nhiều tình tiết đầy kịch tính. Kinh Thánh cho chúng ta biết về gia phả tâm linh của chúng ta, trở lại nguồn gốc từ dân Ít-ra-en, và còn hơn thế nữa. Thánh Giê-rô-ni-mô đã xác định: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô” (Ignorance of Scripture is ignorance of Christ), mà không biết Đức Kitô là không biết Thiên Chúa.

     Xin xem Dt 6:1-9; Jos 1:8; 2 Tm 3: 16-17; GLCG số 80-81, 101-133.

     

     5.  Giáo hội không là sự chọn lựa hợp lệ trong nhiều cách chọn lựa

     

     Giáo hội là Vương quốc trên thế gian do chính Chúa Giêsu thiết lập. Thánh Phêrô là người đầu tiên được trao chìa khóa Nước Trời, và là giáo hoàng tiên khởi của Giáo hội. Xuyên suốt lịch sử, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hướng dẫn các giáo hoàng, bảo đảm rằng giáo quyền (Magisterium) dạy sự thật và không dạy gì khác ngoài sự thật. Chân lý đó bất biến, nhưng luật có thể thay đổi. Giáo lý cũng không thay đổi. Chúng phát triển, nghĩa là cách hiểu mới đã đạt được và cách hiểu cũ được đào sâu, nhưng cách hiểu mới không thể trái ngược với cách hiểu cũ. Chân lý không thể tự mâu thuẫn.

    Cũng vậy, Giáo hội thực sự có cách nhìn về chân lý. Đối với Giáo hội, Thiên Chúa mặc khải mọi chân lý cần thiết để chúng ta được cứu độ. Như vậy không có nghĩa là các tôn giáo khác không có những bộ phận tồn tại trong Giáo hội viên mãn. Cũng không có nghĩa là mọi người Công giáo đều được cứu độ, còn những ai không là Kitô hữu đều bị án phạt đời đời. Tuy nhiên, khi du hành, chúng ta phải chọn con tàu có độ an toàn cần thiết. Giống như con tàu, Giáo hội không là một chế độ dân chủ. Người khôn ngoan hơn chúng ta đã chọn một thuyền trưởng và cho người đó quyền hướng dẫn. Chúng ta có thể tin tưởng mệnh lệnh của thuyền trưởng đó.

    Xin xem Mt 16:18; Cv 15; GLCG số 74-100, 811-870.

     6.  Thực sự có Hỏa ngục

     

     Thiên Chúa là tình yêu, giàu lòng thương xót, Ngài không muốn chúng ta tách khỏi Ngài. Nhưng Ngài tôn trọng quyền tự do chọn lựa của chúng ta, nếu chúng ta tự tách khỏi Ngài, chết trong tình trạng mắc tội trọng, Ngài vẫn tôn trọng tự do của chúng ta.

    Vậy ai là người chọn lựa cách đó? Vì cứng đầu cứng cổ, chính chúng ta vẫn hằng ngày tự ý chọn điều đó: Phạm tội. Bằng vô số cách, chúng ta tự ý chọn Thiên đàng hay Hỏa ngục. Khi chúng ta chọn Chúa, tức là làm theo đường lối và ý muốn của Ngài, đó là chúng ta chọn Nước Trời. Khi chúng ta chọn chính mình, tức là làm theo cách thức và ý riêng mình, đó là chúng ta chọn Hỏa ngục. Bạn thấy sợ chính mình chưa? Tới Ngày Phán Xét, khi chúng ta trình diện Thiên Chúa, mọi sự đều sáng tỏ, chúng ta không thể tự biện hộ hoặc viện cớ: Vì, bởi, tại, nếu, giá mà...

    Xin xem Lc 16:19-25; 1 Ga 3:2; 1 Cr 3:1; Mt 7:13-14; GLCG số 1023-1037.

     7.  Giáo hội không nghĩ “tình dục” là xấu

     

     Tình dục không xấu. Đó là từ ngữ đẹp, là hành động của tình yêu thánh thể hiện sự kết-hợp-trao-ban-sự-sống trong Chúa Ba Ngôi (life-giving union within the Trinity). Theo giáo huấn Công giáo, tình dục và giới tính (sex and sexuality) là những tặng phẩm quý giá. Nhờ tặng phẩm giới tính, nam và nữ là hiện thân Thiên Chúa theo cách riêng và tuyệt vời, và qua sự thân mật giới tính, chúng ta sở hữu khả năng trao tặng chính mình cho người khác, cả thể xác và tâm hồn, không còn là HAI mà là MỘT.

    Qua bí tích hôn phối, nam và nữ trở thành những người đồng sáng tạo với Thiên Chúa, họ tạo ra những sự sống mới. Ngay cả khi họ kết hợp mà không có con, đó vẫn là hồng ân, là cách mà Thiên Chúa khiến họ gần nhau hơn trong tình yêu và tình bạn, giúp họ sống viên mãn hơn trong ơn gọi và định dạng bản chất của mối quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, năng lực của tặng phẩm này tác dụng hai cách. Khi tặng phẩm bị lạm dụng hoặc dùng sai, nó có thể có sức hủy hoại – gây nguy hiểm tiềm ẩn cho cá nhân, gia đình và phong hóa.

    Giáo hội nhận biết các vấn nạn về phim ảnh “đen”, tình dục trước hôn nhân, ngừa thai, sống thử, lang chạ, phá thai, nghiện tình dục, ngoại tình, ly hôn, đồng tính, nghèo khó, trầm cảm, cô đơn và bạo lực. Đó là những hậu quả do dùng sai tặng phẩm giới tính của Thiên Chúa. Đó là lý do vẫn có người không ngừng bảo vệ sự thật về giới tính. Hãy tạ ơn Chúa về điều đó. Sự thật luôn tốt đẹp!

    Xin xem Cl 3:5; 1 Cr 6:18-20; GLCG số 2331-2391.

     8.  Dự lễ Chúa Nhật là luật buộc

     

     Giáo hội dạy người Công giáo phải dự lễ Chúa Nhật. Là luật buộc nhưng hữu ích cho chúng ta. Tất nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, chúng ta đừng dễ dãi mà viện cớ để biện hộ cho mình. Với người bình thường, bỏ lễ Chúa Nhật là tội trọng.

    Giáo hội muốn chúng ta dự lễ Chúa Nhật vì chúng ta cần lãnh nhận ân sủng. Chúng ta phải ưu tiên cho Chúa. Chúng ta phải công khai sống đức tin và thờ phượng Ngài. Đặc biệt là chúng ta phải lãnh nhận Mình Máu Đức Kitô để có sự sống dồi dào. Về tâm linh, chúng ta không thể sống mà thiếu Thần Lương. Cũng như chúng ta không thể chạy marathon khi bụng đói.

    Xin xem Dt 10:25; GLCG số 2175-2183.

     9.  Xưng tội là luật buộc

     

     Tất cả chúng ta, từ giáo hoàng trở xuống, đều thiếu ơn Chúa. Ai cũng là tội nhân nên luôn cần sám hối, điều này thể hiện công khai qua việc lãnh nhận bí tích Hòa giải, nhất là khi chúng ta mắc tội trọng. Nhờ đó, chúng ta được Thiên Chúa chữa lành và tha thứ.

    Nhờ lãnh nhận bí tích Hòa giải, chúng ta được lãnh nhận hồng ân giúp chống trả chước cám dỗ trong tương lai. Không có tội nào mà Thiên Chúa không thể hoặc không muốn tha thứ. Chúa Giêsu đã nói với Thánh Faustina: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn mọi tội lỗi của con và của toàn thế giới”. Vấn đề là chúng ta tin tưởng vào Tình Chúa và thành tâm sám hối. Giáo hội dạy rằng lòng thương xót là thuộc tính lớn nhất của Thiên Chúa. Mọi động thái của Ngài đều thể hiện tình yêu thương xót (merciful love). Đó là cách thức và lý do mà chúng ta nhận biết Ngài.

    Xin xem Mt 16:19; 2 Cr 5:18; GLCG số 277, 1422-1470, 1864 và 2001.

     10.  Mọi Kitô hữu đều phải sám hối

     

     Theo kế hoạch cứu độ thế giới, Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Một trong các cách hợp tác là chúng ta chịu đau khổ – vui chịu đau buồn, khó khăn, vất vả, hy sinh, cô đơn,… để kết hợp với khổ hình Thập giá mà Chúa Giêsu đã chịu vào chiều thứ Sáu năm xưa. Ngài cũng muốn chúng ta chịu mọi đau khổ để đền tội của mình và tội của người khác, và để cứu các linh hồn. Theo truyền thống của Giáo hội, việc sám hối thường kết hợp với việc ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái. Giáo hội cũng mời gọi chúng ta ăn chay và kiêng thịt các ngày thứ Sáu (trừ lễ trọng), đặc biệt là mùa Chay.

    Xin xem Mt 9:1; Cl 1:24; GLCG số 307, 793, 1430-1439 và 1500.

     TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ OSV.com)

     

     

     

     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

CÁC THÁNH ,CÁC THIÊN THẦN  VÀ LOÀI  NGƯỜI KHÁC VÀ GIÔNG NHAU THẾ NAO?

Hỏi :

Nhân Lễ kính các Thánh ngày 1 tháng 11, xin cha giải thích rõ những thắc mắc sau đây :

  • Có Thiên Thần không ?
  • Thiên thần, các Thánh và loài người khác và giống nhau thế nào ?

Trả lời :

  • Có Thiên Thần ( Angels) hay không ?

Để trả lời câu hỏi này , xin đọc Sách Giáo Lý của Giáo Hội đã  nói rõ như sau : : “ “Sự hiện hữu của các hữu thể  thiêng liêng,  không có thân xác mà Thánh Kinh thường gọi là các Thiên Thần, (Angels) là một chân lý của đức tin. chứng từ của Thánh Kinh cũng  rõ ràng như toàn thể Thánh Truyền. “ ( x. SGLGHCG, số 328))

Là chân lý của đức tin có nghĩa đây là điều phài tin trong toàn bộ niềm tin của Đạo Thánh do Chúa Kitô khai sinh  và rao giảng cách nay trên 2000 năm..

Chúa  Giêsu đã nói đến các Thiên Thần như sau :

   “ Anh  em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh  em biết : các Thiên Thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan  Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” ( Mt 18:10)

Dịp khác, khi nói về sự sống của những ai được sống lại sau khi phải chết  trong thân xác con nhười, , Chúa cũng nói rõ : “ Quả thật, họ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các Thiên Thần. Họ là  con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” ( Lc 20: 36)

Lần nữa, Chúa  cũng nói đến công việc  của các thiên thần như sau:

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các Thiên Thần theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người.” ( Mt 25:31)

Các Thiên Thần cũng được gọi là các Thiên Sứ  (Heavenly Messengers) như  ta đọc thấy trong Thánh Vịnh sau đây:

       “ Chúc tụng Chúa đi , hởi muôn vì Thiên Sứ

        Bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người

          Luôn sẵn sàng  phụng lệnh.” ( Tv 103: 20)

Như thế rõ ràng cho thấy có các Thiên Thần hay Thiên Sứ ở trên trời. Họ là những  thực  thể thiêng liêng,  không có thân xác (spiritual non-corporeal beings) như loài người chúng ta.Họ đựơc tạo dựng cách hoàn hảo ngay từ đầu để thờ lậy, chúc tụng , ngợi khen Chúa trên Thiên Đàng.Họ.  không có thân xác,và không vướng mắc tội lỗi như con người. Nhưng  một số  -mà kẻ cầm đầu là Satan- đã nổi lên chống lại Thiên Chúa và “ Thiên Chúa sẽ không dung thứ cho các thiên thần có tội,  nhưng đã đẩy họ vào hố địa ngục tối tăm giữ họ để chờ cuộc phán xét.”( 2 Pr 2, 4)

. Khi phải thi hành mệnh lệnh hay sứ mạng nào của Thiên Chúa cho loài người,   thì các Thiên Thần cũng phải dùng những phương tiện “con người” để giúp con người hiểu sứ vụ của họ. Thí dụ, Sứ Thần Gabriel đã xuất hiện có thân xác và dùng ngôn ngữ loài người để truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria.(x Lc 1 :26-38)). Sau khi Chúa Giê su giáng sinh trong Hang bò lừa, các Thiên Thần cũng xuất hiện để báo tin cho các mục đồng biết và chỉ chỗ cho họ đến thờ  lậy Chúa Hái Đồng..Lại nữa,  Khi các Tông Đồ của Chúa Giêsu bị các thuợng tế Do Thái tống giam vào ngục thất, vì đã rao giảng tên Giêsu cho dân chúng, “ nhưng ban đêm các thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói : các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân chúng những lời ban sự sống. ( x. Cv 5:19-20)

Trong Giáo Hội, người ta thường minh hoạ các thiên thần với đôi cánh trên vai để “bay từ trời xuống”  (theo tưởng tượng của con người.).

II- Sự khác biệt giữa Thiên Thần, Các Thánh và con người:

  • Các Thánh là ai ?

Các thánh ( Saints) trước hết là những con người có hồn có xác, được sinh ra và sống  trên trần thế này và đều vướng mắc tội nguyên tổ (original sin) cũng như các tội cá nhân khác, trừ một mình Đức Trinh Nữ Maria, người  duy nhất được diễm phúc giữ gìn khỏi mọi tội lỗi từ phút đầu được thụ thai cho đến ngày về trời cả hồn xác.

.Thánh Gioan Tẩy Giả được tin là chỉ  mắc tội tổ tông trong 6 tháng  và được khỏi tội này khi Đức  Mẹ đến thăm viếng Bà Ê-li-sa-bét. đang mang thai Thánh nhân đã được sáu tháng.  Lúc đó.  “Bà Ê-li sa bét vừa nghe tiếng bà Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên , và bà được tràn đầy Thánh Thần” ( Lc 1:41).Từ sự kiện này, Giáo Hội tin Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ mắc tội tổ tông có 6 tháng thôi.

 Những người phàm được nên thánh vì đã sống thánh thiện, đã thực tâm yêu mến Chúa và đã “ thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt. 7: 21) trong suốt cuộc đời của họ trên trần thế này. Họ là những anh hùng  tử đạo, tức những người dám đổ  máu  ra để minh chứng lòng  yêu mến Chúa và trung thành với đức tin Công Giáo. Họ là những nhà truyền  giáo (missionaries).đã hy sinh đời mình cho sứ mạng  phúc  âm  hoá thế giới. Họ là các Tông Đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô. Họ là các Tổ phụ  dân Do Thái, là các Ngôn sứ (prophets) , các Giáo Phụ ( Church  Fathers) và cũng là những tín hữu không tên tuổi , tức  là những người chồng, người vợ  đã  chu toàn bổn phận của mình trong mọi  gia đình nhân loại, và âm thầm sống đức tin, đức cậy và đức mến cách sâu đậm trong suốt cuộc đời tại thế.

Đức Mẹ và các Thánh nam nữ đang hưởng Thánh nhan Chúa trên Thiên Đàng và cũng đang hiệp thông với các tín hữu trên trần thế và các linh hồn thánh trong nơi luyện tội( Purgatory) qua lời cầu bầu (intercessions) của họ  trước Toà Chúa cho chúng ta và cho các linh hồn  còn đang ở nơi thanh luyện  cuối cùng  là  Luyện tội ( purgatory) trước khi được vào Thiên Đàng. ( Tín điều các Thánh thông công).

  • Con người:

Là những tạo vật có hồn có xác,.được dựng nên “ theo hình ảnh của Chúa” (St 1:26). Con người được ban cho có lý trí và ý muốn  tự do (free will) để hiểu biết và tự do chọn lựa cách sống trên trần thế , nên phải chịu trách nhiệm  hoàn toàn về những chọn lựa của mình.trước Thiên Chúa là Đấng công minh,đầy lòng  thương xót và thánh  thiện.  Chính vì con người có tự do , nên vấn đề thưởng phạt  chỉ được đặt ra cho riêng con người  mà thôi.

Nói khác đi, trong tất cả các tạo vật hữu hình, “ chỉ mình con người có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng sáng tạo ra mình.” ( x SGLGHCG số 356).

Là tạo vật có lý trí và ý muôn tự do ( free will), con người được  mời gọi nên thánh để  chia sẻ sự sống và hạnh phúc  của Thiên Chúa  cùng các Thánh và các Thiên Thần  ở trên Thiên Đàng , tức Vương Quốc tình yêu và an vui  đời đời  với Chúa...Vì con người có trí hiểu và tự do chọn lựa , nên  Thiên Chúa sẽ  phán đoán con người về những việc mình làm  trong thân xác  và trên trần thế này cho đến ngày linh hồn xa lìa thân xác  trong sự chết của  bản thân mỗi người..

,Ai cũng có thể nên thánh và phải nên thánh, nên hoàn thiện  “ như Cha anh  em trên trời là Đấng hoàn thiện ” như Chúa Giê su đã kêu gọi.( Mt 5: 48).. Lời  mời này dành cho  hết mọi người sinh ra trên trần thế này.Nhưng vấn đề đặt ra là liệu con người có đáp lại lời mời gọi này hay không, vì con người còn có tự do chọn lựa để ưng thuận hay  từ khước.

Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do đó của con người. Nghĩa là Ngài không ép buộc ai phải yêu mến Ngài và vào dự “ Tiệc cưới , cỗ bàn đã dọn sẵn”(x. Mt 22:4). Nếu ai từ khước  vào dự  Bàn Tiệc Nước Trời, tức là hưởng phúc Thiên Đàng,   thì họ đã tự chọn cho mình món ăn và  nơi cư ngụ khác sau khi chấm dứt cuộc sống trên trần thế này.

Tóm lại, các Thiên Thần khác với loài người ở điểm căn bản này: Thiên thần là tạo vật hoàn toàn thiêng liêng (spiritual)  trọn hảo và bất tử. Chức năng của các ngài là các Thiên  sứ( Heavenly Messengers) tức các Sứ giả thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa và hầu hạ Người trên Thiên Đàng. Các Thiên Thần cũng che chở, phù giúp  mỗi  người

chúng ta cách đặc biệt trong cuộc sống trên trần gian này. Đó là chức năng của các Thiên Thần bản mệnh( Guardian Angels),  có lễ kính ngày 2 tháng 10 hàng năm.

Các Thánh là những con người từng có hồn xác, tức là có cả tinh thần lẫn vật chất và đã trải qua cuộc sống con người trên trần thế này. Các ngài đã được cứu độ  và trở nên thánh , nên giống các Thiên Thần vì đã sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này.

Như thế , mọi người chúng ta đều có hy vọng được cứu rỗi, trở thành  thánh và nên giống các Thiên Thần nếu chúng ta cùng quyết tâm noi gương các thánh nhất  là gương mẫu đức tin, đức cậy và  đức mến tuyệt vời  của  Mẹ  Maria, của Thánh Cả Giuse và của  các anh hùng tử đạo. Chúng ta cũng có thể nên thánh bằng những việc đơn sơ, nhỏ bé  nhưng  làm vì  lòng mến Chúa như Thánh nữ Tê-rê-xa Giêsu Hài Đồng hoặc yêu thương săn sóc những người nghèo khó, bênh tật, bị bỏ rơi ngoài đường phố như Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta, đã được tôn phong hiển thánh ( saint).

Tóm lại, có được cứu rỗi và nên thánh hay không là tuỳ  thuộc tự do chọn lựa của mỗi cá nhân cộng tác với ơn thánh của Chúa trong suốt  cuộc sống trên trần thế này.. Nếu ta quyết tâm thì Chúa sẽ giúp sức nâng đỡ để đạt mục đích cứu độ.. Ngược lai, nếu ai cương quyết từ khước Thiên Chúa để sống theo ý muốn của minh, và làm những sự dữ ,sự tội,  như giết người, giết thai nhi, căm thù, gian ác, trộp cướp, dâm ô; cụ thể  ( theo tin báo chí cho biết)  một người  cha và ông nội  đã   hiếp dâm con, cháu  gái còn nhỏ bé,rồi bán nó cho bọn bất lương hành nghề ấu dâm ( child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi, hoặc   chồng giết vợ để lấy vợ khác,, hay  ngược lại, vợ giết chồng để lấy “kép nhí”, như thực trạng sống của biết bao con  người trong  các  xã hội ung thối vì vô luân, vô đạo, bất công bạo tàn, vô nhân đạo. . Những ai sống như vậy,  thì  Chúa  sẽ tôn trọng ý muốn tội lỗi này  của họ ,  và dĩ nhiên những  con người ấy  sẽ phài gánh chịu mọi hậu quả của tự do mình đã chọn.

Đó là lý do phải có Thiên Đàng dành cho những ai thành tâm yêu mến Chúa,  sống theo đường lối của Người,  và bước đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là sự Thật và là sự Sống” ( Ga 14 : 6). Mặt khác, cũng  phải có hỏa ngục để dành cho những kẻ đã và đang  khước từ Thiên Chúa để  làm những sự dữ . sự tội mà không hề  biết sám hối, ăn năn  để xin tha thứ. Chúa không muốn phạt ai trong hỏa ngục ( Hell) là  nơi đáng sợ này, nhưng chính con người đã tự do chọn nơi này vì đã khước từ Thiên Chúa để sống theo theo những đòi hỏi bất chính của bản năng và đầu hàng ma  quỉ ,là kẻ thù của Thiên Chúa và là bạn rất thân thiết của những ai nghe theo lời dụ dỗ của chúng để chống lại Thiên Chúa bằng đời sống vô luân vô đạo   khi làm những sự dữ, sự tội khiến phải xa lìa Chúa vĩnh viễn trong nợi gọi là hỏa ngục.

Ước mong những giải thích trên đây thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

Lm. Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn.