24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CHỦ TẾ CỨ ĐỨNG?

  •  
    BBT CGVN
     


    Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới

    Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity  

    (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)

    www.conggiaovietnam.net       This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

     

    Chuyên mục:

    Tôi Tin, Chúng Tôi Tin!

     

    Tại sao vị chủ tế cứ đứng tại bàn thờ

    trong suốt Thánh lễ?

     

     

     

     

    Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

    Giáo Sư Phụng Vụ

    Kính mời theo dõi video tại đây:

    https://bit.ly/3mgM0D6

     

     

    Khi tham dự Thánh lễ tại các nhà thờ hay nhà nguyện, thường chúng ta chỉ chú ý đến vị trí của giảng đài (1) là nơi cử hành «phụng vụ Lời Chúa», và nhất là vị trí của bàn thờ, nơi cử hành «phụng vụ Thánh Thể», nhưng có một vị trí cũng cần quan tâm trong khi cử hành Thánh lễ, đó chính là ghế chủ tọa. Vậy vị trí này có ý nghĩa gì đối với vị chủ tế và những người tham dự phụng vụ? Chúng ta có thể nhận thấy tại một số nhà thờ khi cử hành Thánh lễ, sau khi hôn bàn thờ, vị chủ tế đến ghế chủ tọa để cử hành nghi thức đầu lễ, còn ở nhiều nhà thờ khác, vị chủ tế lại đứng tại bàn thờ. Hoặc có những vị chủ tế đứng giảng tại giảng đài, nhưng một số khác lại đứng giảng ngay tại bàn thờ. Vậy theo quy chế phụng vụ, các vị chủ tế có được tùy tiện thay đổi vị trí giảng không? Quy chế phụng vụ nào nói về vị trí của vị chủ tế? Tại sao không có sự thống nhất chặt chẽ giữa các nơi trong phụng vụ Thánh lễ? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu vấn đề này.

    Trong sách lễ Rôma, ấn bản mới nhất (2002) (2), phần Quy Chế Tổng Quát (QCTQ) có nói đến «ghế chủ tọa». Vị trí của ghế này thường được đặt ở bên (phải hoặc trái) bàn thờ (như trong sơ đồ) và được nói đến như sau:

     

     

     - QCTQ 50: «Dứt ca nhập lễ, Linh mục đứng tại ghế, cùng toàn thể cộng đoàn làm dấu Thánh Giá trên mình. Tiếp đó, Linh mục dùng lời chào biểu thị cho cộng đoàn biết sự hiện diện của Chúa. Lời chào của Linh mục và câu đáp của cộng đoàn nói lên mầu nhiệm của Hội Thánh được quy tụ.»

    - QCTQ 136: «Linh mục đứng giảng tại ghế hoặc tại chính giảng đài hoặc tuỳ nghi tại nơi nào khác thích hợp. Giảng xong, có thể giữ thinh lặng một lát.»

    - QCTQ 138: «Sau Kinh Tin Kính, Linh mục đứng tại chỗ, chắp tay, nói mấy lời vắn tắt, mời gọi tín hữu đọc lời nguyện chung» (lời nguyện tín hữu).

    Như thế, sau bài hát nhập lễ, vị chủ tế không đứng tại bàn thờ mà «đứng tại ghế», tức là ghế chủ tọa, để cử hành nghi thức đầu lễ, nơi đó có để một giá sách, một micro và sách lễ Rôma cho ngài. Ngài đến giảng đài để công bố Tin Mừng (nếu có phó tế thì vị này sẽ công bố Tin Mừng (QCTQ 94); nếu là Thánh lễ đồng tế, thì một linh mục đồng tế sẽ công bố Tin Mừng chứ không phải vị chủ tế (QCTQ 59). Sau bài giảng (tại giảng đài hoặc tại ghế chủ tọa hoặc ở một nơi nào khác, ngoài bàn thờ), vị chủ tế trở về ghế chủ tọa để xướng Kinh Tin Kính và mở đầu phần lời nguyện tín hữu.

     

     

     

    - QCTQ 310: «Ghế của Linh mục chủ tế phải nói lên nhiệm vụ của ngài là chủ toạ cộng đoàn và điều hành kinh nguyện. Vì thế, chỗ thích hợp nhất là phía đầu cung thánh, nhìn xuống cộng đoàn, trừ phi kiến trúc thánh đường hoặc những hoàn cảnh không cho phép, ví dụ: khoảng cách quá xa làm cho việc hiệp thông giữa Linh mục và cộng đoàn trở nên khó khăn, hoặc nếu nhà tạm đặt chính giữa phía sau bàn thờ. Phải tránh các loại ngai toà...»

    Theo đoạn trên, trong Thánh lễ, ghế chủ tọa nhấn mạnh vai trò và chức vụ của vị chủ tế là «chủ tọa cộng đoàn và điều hành kinh nguyện». Giám mục hay linh mục chủ tế Thánh lễ là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người. Vị chủ tế chứng thực rằng trong việc quy tụ các tín hữu, chính Chúa Kitô là Đấng quy tụ, Người nói, Người trao ban Mình Người, Người xây dựng Giáo Hội.

     

     

     

    Ghế chủ tọa trong các nhà thờ lấy mẫu của nhà thờ chính của giáo phận, là nhà thờ của giám mục, gọi là nhà thờ chính tòa, trong đó có tòa (cathedra) hoặc ghế giám mục. Tại nơi đây (chứ không phải tại bàn thờ), giám mục cử hành nghi thức đầu lễ.

    Ghế chủ tọa của giám mục biểu tượng quyền bính của ngài cũng như dấu chỉ hiệp thông giữa ngài với Đức Giáo Hoàng và với các giám mục khác trên toàn thế giới. Chính tại ghế chủ tọa mà giám mục chất vấn các tiến chức linh mục và phó tế trong nghi thức phong chức. Ghế chủ tọa trong mỗi nhà thờ được coi như là đại diện cho quyền giảng dạy của giám mục giáo phận khi vị linh mục chủ tế ngồi vào đó.

    Trong câu «Chỗ (của ghế) thích hợp nhất là phía đầu cung thánh, nhìn xuống cộng đoàn», cụm từ «phía đầu cung thánh» không xác định rõ ràng vị trí trong cung thánh. Vì thế, chúng ta cũng có thể hiểu «đầu cung thánh» là phía sau bàn thờ: vị chủ tế có thể chủ tọa ở ghế đặt sau bàn thờ (có giá sách và micro), nhưng không có nghĩa là ngài chủ tọa tại bàn thờ!

    Như thế, chỉ sau phần Phụng vụ Lời Chúa, vị chủ tế mới tiến lên bàn thờ để bắt đầu cử hành Phụng vụ Thánh Thể. Lúc này, các thừa tác viên mới mang lên bàn thờ sách Lễ và những yếu tố phụng vụ khác. Nói cách khác, bàn thờ chỉ là nơi dâng hiến hy lễ và chia sẻ bàn tiệc thánh, nên những gì diễn ra trước đó (nghi thức đầu lễ, Phụng vụ Lời Chúa), vị chủ tế không được đứng tại bàn thờ! (3)

    Để hiểu rõ hơn các vị trí khác nhau trên cung thánh, ta có thể so sánh một bữa tiệc gia đình với Thánh Lễ hoặc bữa tiệc Thánh Thể.

    Bữa tiệc gia đình và Thánh Lễ có nhiều điểm tương đồng. Cả hai hành động này cũng diễn ra theo bốn giai đoạn.

    1. Trước tiên là giai đoạn đón tiếp. Khách đến gõ cửa, chủ nhà mở cửa đón họ. Hai bên chào hỏi vui vẻ. Thánh Lễ cũng diễn tiến như thế: linh mục đón tiếp các tín hữu; các tín hữu chào hỏi nhau. Và Thiên Chúa, qua trung gian vị chủ tế, đón tiếp con cái mình. Đó là chặng đầu tiên của Thánh Lễ, gọi là nghi thức đầu lễ.

    2. Sau khi đón tiếp khách mời, chủ nhà mời họ vào phòng khách. Đó là giai đoạn trò chuyện. Trong Thánh Lễ, sau nghi thức đầu lễ là phần Phụng vụ Lời Chúa. Qua các bài đọc Cựu Ước và Tân Ước, Thiên Chúa nói với dân Người; cộng đoàn đáp lại bằng thánh vịnh (hoặc các bài thánh ca Kinh Thánh), bài hát Halêluia, Kinh Tin Kính và lời nguyện tín hữu.

    3. Khi đã nói chuyện xong, và nhất là các món ăn đã chuẩn bị xong, chủ nhà mời mọi người vào bàn. Đó là lúc nhập tiệc. Trong Thánh Lễ cũng vậy, sau phần Phụng vụ Lời Chúa là đến giai đoạn bữa tiệc được diễn ra tại bàn thờ. Bữa tiệc bao gồm ba thời điểm: lúc mang bánh và rượu tới, lúc đọc Kinh nguyện Thánh Thể, lúc chia sẻ bánh và rượu thánh. Tất cả được gọi là Phụng vụ Thánh Thể.

    4. Thế rồi, sau một bữa tiệc ngon là đến lúc chia tay trở về nhà mình. Trong Thánh Lễ, ta cũng có nghi thức kết lễ (nghi thức sai đi); chủ tế hoặc phó tế nói: «Chúc anh chị em đi bình an», và cộng đoàn thưa: «Tạ ơn Chúa».

    Chào hỏi, hàn huyên, ăn tiệc, chia tay. Đây là bốn giai đoạn của bữa tiệc gia đình, và cũng là bốn giai đoạn của Thánh Lễ.

    ****

    Tại tư gia, ta không tiếp đón khách ở nhà bếp hay ở bàn ăn bao giờ, cũng không nói chuyện hỏi thăm nhau ở bàn ăn trong lúc người nhà đang dọn thức ăn lên.

    Vậy tại sao ở nhà thờ, nhà của Chúa, nơi linh thiêng và trang trọng, ta không tôn trọng những nơi đặc biệt trong gian cung thánh?

    Nếu QCTQ 309 nói rõ: «Tại giảng đài chỉ đọc các bài đọc (Kinh Thánh), thánh vịnh đáp ca và bài công bố Tin Mừng Phục Sinh. Cũng tại đó, có thể giảng và đọc lời nguyện chung, tức là lời nguyện tín hữu», tại sao người ta lại thấy linh mục lên giảng đài, là nơi để công bố Lời Chúa, để thông tin, thông báo...?

    Nếu bàn thờ chỉ được sử dụng từ phần Phụng vụ Thánh Thể, tại sao người ta lại thấy vị chủ tế cử hành nghi thức đầu lễ tại bàn thờ, lại còn giảng tại bàn thờ nữa?

    Công đồng Trentô ở thế kỷ XVI, với Sách lễ Đức Piô V ra đời năm 1570, qui định rằng tư tế chỉ đứng tại bàn thờ trong suốt Thánh Lễ, sau khi đọc những lời nguyện ở trước bàn thờ. Vì thế, thói quen này vẫn tồn tại đến hôm nay. Nếu luật phụng vụ sau Công đồng Vaticanô II đã sửa đổi các vị trí và đối tượng trên cung thánh, tại sao từ QCTQ (1969) của ấn bản I của Sách lễ Rôma cho đến nay (2021) là 52 năm, hơn nửa thế kỷ, ta vẫn chưa sửa đổi, vẫn chưa áp dụng đúng đắn và nghiêm túc luật phụng vụ của Giáo Hội?

    Nếu mỗi nhà thờ đều có ghế chủ tọa, dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô trong Giáo Hội qua vị chủ tế sẽ được nổi bật hơn, ý nghĩa Thánh Lễ sẽ phong phú hơn, phụng vụ Thánh Lễ của Giáo Hội hoàn vũ sẽ thống nhất và hài hòa hơn, đó là một trong những dấu chỉ sự hiệp nhất của Giáo Hội. Mong thay!

    ---------------

    (1) Giảng đài (dịch từ tiếng Hi-lạp ambôn - đỉnh nhỏ - qua tiếng Anh Ambo, tiếng Pháp Ambon) là đài để giảng? Nếu trước tiên đó là nơi «để Lời Chúa được loan báo» (QCTQ 309), tại sao ta không dịch là: bục Lời Chúa, tòa Lời Chúa, đài Lời Chúa...? Mong các chuyên viên ngôn ngữ học kiếm ra từ thích ứng và đúng nhất!

    (2) Từ Công đồng Vaticanô II (1962-1965), có ba ấn bản mẫu Sách lễ Rôma: ấn bản I (1970), ấn bản II (1975), ấn bản III (2002).

    (3) Chỉ trong một vài trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn khi không gian cung thánh quá nhỏ hẹp, hoặc trong Thánh Lễ chỉ có một người giúp lễ, vị chủ tế mới được cử hành nghi thức đầu lễ ở bàn thờ.

    Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

    Hẹn gặp lại

    --------------------------------

     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO -

  •  
    Chi Tran

     

    GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

    Bài 30: CÓ THIÊN CHÚA THẬT KHÔNG ?

     

    Câu hỏi: Nơi môi trường đại học, nhiều lần con nghe giảng viên nói tôn giáo chỉ là trò bịa đặt. Thiên Chúa cũng chỉ là sản phẩm phóng chiếu của con người. Thú thật, để giải thích hoặc đối thoại với các giảng viên ấy, hay chứng minh cho chúng bạn về sự hiện diện của Thiên Chúa, thật thách đố với con. Xin giúp con vài cách để chia sẻ về sự hiện diện của Thiên Chúa cho người khác! 
    Trả lời:

      

    Bạn thân mến,

    “Có Thiên Chúa thật không?” là câu hỏi không biết bao nhiêu người đã từng đặt ra. Đây là một câu hỏi lớn của nhân loại và cũng chính là một lời mời gọi để mỗi người chúng ta khởi đầu hành trình kiếm tìm chân lý.

     

    Trước hết, bạn hãy hỏi vũ trụ vạn vật...

    Bạn hãy dành thời gian quan sát mà xem: biết bao nhiêu vẻ đẹp lạ lùng của thiên nhiên: những rực rỡ lung linh của bầu trời trăng sao, sự hùng vĩ của núi sông, biển cả, sự huy hoàng của ánh bình minh chiếu sáng hay khi hoàng hôn buông nhẹ bóng xế tà, nét kiều diễm của từng bông hoa cùng hương thơm dịu dàng của chúng, tiếng suối reo róc rách, tiếng chim hót véo von, tiếng gió rì rào qua kẽ lá… Rồi bạn hãy hỏi: “Ai đã làm nên những vẻ đẹp này?” Thánh Augustinô xưa cũng đã từng hỏi như vậy, và ngài nhận được câu trả lời: “Còn ai nữa, nếu không phải là Đấng Toàn Mỹ không bao giờ thay đổi!” Phần bạn, nếu bạn nghiệm ra rằng: những vẻ đẹp ấy không phải do ngẫu nhiên hay tình cờ, nhất định phải có một nguyên nhân rất tinh tế, phải có một tác giả rất tài tình của những vẻ đẹp ấy, là bạn đã bắt đầu tìm thấy câu trả lời rồi đó.

     

    Ngày nay, với các phương tiện khoa học kỹ thuật, bạn có thể khám phá thế giới bao la, vũ trụ rộng lớn. Và bạn sẽ thấy rằng: hằng hà sa số những vì sao trên bầu trời kia không phải là một mớ hỗn độn khổng lồ đâu, mà tất cả đều vận hành theo một trật tự ngăn nắp. Chúng tuân theo những định luật cực kỳ chính xác.

     

    Chẳng hạn, Trái Đất của chúng ta tự quay chung quanh mình mỗi ngày một vòng, đang khi nó vẫn chạy theo quỹ đạo chung quanh Mặt Trời mỗi năm một vòng với vận tốc 30km/giây (108 ngàn km/giờ). Tương tự, các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời: sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ... cùng vận hành xoay quanh Mặt Trời. Các quỹ đạo của chúng gần như tạo thành một mặt phẳng gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Cũng thế, mỗi ngôi sao, hệ sao, quần tinh và các thiên hà đều vận hành theo những quy trình nhất định. Thật tuyệt diệu phải không bạn?

     

    Nhà bác học Newton sau khi khám phá vũ trụ đã khẳng định: “Nhờ dùng kính viễn vọng để tìm đến nơi tận cùng, tôi đã nhìn thấy dấu vết của Thiên Chúa”. Sự hiện hữu của các định luật vật lý chính là bằng chứng rõ rệt nhất của Đấng Sáng Tạo là Thiên Chúa.

     

    Bây giờ bạn hãy thôi quan sát vũ trụ để tìm hiểu các nguyên tử rất nhỏ bé và bạn cũng sẽ phát hiện ra những điều kỳ thú. Mỗi nguyên tử vật chất là cả một Thái dương hệ thu nhỏ, gồm có một nhân ở trung tâm giống như Mặt Trời. Chung quanh nhân là chi chít những electron chuyển động xoay tròn quanh hạt nhân với vận tốc 297.000 km/giây, thật không khác gì các hành tinh xoay lượn chung quanh Mặt Trời.

     

    Những điều trên cho ta thấy tính trật tự và tính quy luật của toàn thể vũ trụ vật chất, từ cái cực lớn đến cái cực nhỏ. Liệu tất cả những điều vi diệu đó chỉ là do ngẫu nhiên và tình cờ mà thôi sao? Tình cờ và ngẫu nhiên có thể tạo nên những cấu trúc, những hệ thống được không hay chỉ là hỗn độn, bừa bãi, thậm chí là hư vô trống rỗng? Chiếc đồng hồ với hệ thống kim chỉ giờ, chỉ phút, chỉ giây chạy nhịp nhàng là do ngẫu nhiên mà có, hay là đã  có người thợ chế tạo ra nó?

     

    Vật chất vô tri đã thế, các loài sinh vật còn kỳ diệu hơn nhiều. Từng quan năng, từng tế bào, từng phân tử trong tế bào đều được cấu tạo cách cực kỳ phức tạp tinh tế và thông minh. Bác sĩ Alexis Carrel (1837–1944) nhà sinh vật học người Pháp, người đã được trao giải Nobel năm 1912, đã diễn tả về sự tăng triển kỳ diệu của sự sống từ một tế bào như sau:

     

    Con vật được cấu tạo bởi những tế bào, cũng giống như cái nhà được xây dựng bằng những viên gạch. Nhưng con vật xuất phát từ chỉ một tế bào duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt nguồn từ một viên gạch vậy. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy những viên gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối hòa tan trong nước và khí trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc sư vẽ kiểu, không cần đến bàn tay của thợ xây, đã tự động kết hợp thành những bức tường. Các viên gạch cũng tự động biến thành các tấm kính để làm cửa, ngói để lợp mái… Lạ không?

     

    Trái Đất này tràn đầy sự kỳ diệu như thế. Dưới lòng đất, trên núi cao, giữa biển sâu, trong rừng vắng, chỗ nào cũng đầy sự kỳ diệu, đến nỗi bạn không còn để ý đến. Còn những ai để ý sẽ không thể không kinh ngạc thán phục. Như nhà bác học Pasteur chẳng hạn, ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin có Thiên Chúa”. Còn bạn thì sao?

     

    Gần đây, khám phá về phân tử ADN trong nhân tế bào càng làm các nhà khoa học kinh ngạc. Việc giải mã bộ gen người vô cùng tinh vi càng làm các nhà khoa học kinh ngạc hơn. Tiến sĩ Francis Collins, giám đốc chương trình Bản đồ gen người này, đã quả quyết rằng mã ADN chính là “ngôn ngữ của Chúa” – những chỉ thị để sự sống hình thành và phát triển. Qua đó ông biết được bí mật của sự sống mà Chúa đã cài đặt trong ADN. Từ một người vô thần, ông đã trở thành người có đức tin và nói: “Đạo Thiên Chúa đã đem lại cho tôi chuỗi chân lý vĩnh hằng đặc biệt.” Còn bạn thì sao?

     

    Bạn hãy hỏi tiếng Lương tâm:

    Bây giờ bạn hãy nhìn vào ngay trong nội tâm mình để khám phá ra rằng trong đó có một thứ lề luật mà chính bạn không đặt ra, luật đó vẫn luôn nhắc nhở bạn phải làm điều thiện và tránh điều ác. Luật đó chính là lương tâm. 

     

    Lương tâm luôn luôn theo cùng mỗi người mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Ta có thể phớt lờ tiếng lương tâm để mà ăn gian nói dối, trộm cắp, giết người… nhưng ta vẫn biết, vẫn cảm thấy việc mình làm là sai trái, là không tốt. Cho dù việc ta làm chỉ một mình ta biết, nhưng ta vẫn thấy day dứt không nguôi. Chính vì sự day dứt này mà có nhiều thủ phạm giết người, dù đã rửa sạch mọi dấu vết và không bị phát giác, nhưng nhiều năm sau, kẻ ấy bỗng nhiên đi đầu thú để được đền bù lẽ công bằng. Nguyên do là vì kẻ ấy không chịu nổi sự dày vò trách cứ của lương tâm.

     

    Hẳn nhiên, lương tâm không phải do mỗi người tự đặt ra cho chính mình. Bởi vì nếu mỗi người tự đặt ra cho mình thì chúng ta sẽ phải đặt ra những gì dễ dãi và có lợi cho bản thân. Còn lương tâm thì khác hẳn, chúng không luôn phù hợp với khuynh hướng xấu của con người. Mặt khác, nếu mỗi người tự đặt ra lề luật cho mình thì luật ấy sẽ muôn hình vạn vẻ. Nhưng lương tâm luôn có sự thống nhất và mang tính phổ quát cho toàn thể nhân loại.

     

    Lương tâm cũng không phải do môi trường xã hội đặt ra, bởi vì có khi nó còn cao hơn những đòi hỏi của xã hội và đôi khi đi ngược lại với những bó buộc sai trái của xã hội. Cho nên lương tâm là bẩm sinh. Cha mẹ, thầy cô hay xã hội chỉ là đóng vai trò phụ thuộc, giúp cho luật ấy phát triển và sáng tỏ hơn hoặc cũng có thể làm cho nó bị bóp méo lệch lạc mà thôi. Vậy lề luật này ở đâu ra khi chính chúng ta không tự đặt ra lề luật ấy cho mình? Nhờ phán quyết của lương tâm này mà nhiều người đã ý thức và nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa. Bạn thấy sao?

     

    Bạn hãy hỏi những tấm lòng vị tha:

    Vượt lên trên cả tiếng lương tâm, trong mỗi người còn có một sức mạnh khác, một sự thôi thúc của lòng vị tha. Lòng vị tha là sự trao tặng không vụ lợi của một người dành cho người khác mà không hề có động cơ vị kỷ; hy sinh cho người mà không cần được người đền đáp. Rất nhiều người đã bất chấp sự nguy hiểm của bản thân để giúp đỡ người khác.

     

    Một gương mặt tiêu biểu mà có lẽ bạn đã từng thấy trên các phương tiện truyền thông là thánh Têrêsa Calcutta. Thánh nhân được cả thế giới kính cẩn gọi là mẹ vì sự giúp đỡ không chút vị kỷ của mẹ đối với những người nghèo khổ nhất trong những người nghèo khổ tại Calcutta và nhiều nơi trên thế giới. Tuy đang sống yên ổn tại dòng Loreto với công việc giảng dạy, mẹ Têrêsa quyết định rời tu viện để giúp đỡ người nghèo và sống chung với họ.

     

    Từ hai bàn tay trắng, mẹ khởi đầu một dòng tu với mục đích chăm sóc người đói khát, trần truồng, kẻ không nhà, người tàn tật, người mù, bệnh nhân phong, bất cứ ai đang cảm thấy thừa thãi, bị căm ghét, ruồng bỏ trong xã hội, những người đang là gánh nặng của xã hội và bị mọi người xa lánh, người tị nạn, người khuyết tật, già lão, nghiện rượu, người nghèo và người vô gia cư, nạn nhân lũ lụt, dịch bệnh, và nạn đói… Những người vô gia cư sắp chết cũng được mẹ và các nữ tu mang về chăm sóc để họ được chết “một cái chết đẹp” như những thiên thần. 

     

    Vào thời điểm mẹ Têrêsa từ trần (1997), dòng tu của mẹ có hơn 4.000 nữ tu, với sự hỗ trợ của 300 tu sĩ, và hơn 100.000 người tình nguyện. Họ điều hành 610 cơ sở từ thiện tại 123 nước trên thế giới. Thật là một điều phi thường. Mẹ Têrêsa và dòng tu của mẹ là tiêu biểu trong vô số những người có lòng vị tha trong xã hội. Hành động của các vị ấy trái ngược hoàn toàn với lối sống thực dụng và ích kỷ của bản tính con người.

     

    Thậm chí trong một số trường hợp, lòng vị tha có thể lớn tới mức hy sinh cả tính mạng mình để cứu giúp người khác, tiêu biểu như thánh Maximilianô Maria Kolbê. Ngài là một linh mục trong trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã, đã tình nguyện chịu chết thay cho một người bạn tù vì anh này còn có vợ con.

     

    Không phải ai trong chúng ta cũng có thể dám hy sinh thân mình để cứu giúp người khác như thế. Nhưng chắc chắn là hầu hết chúng ta đều từng cảm thấy có một sự thúc gọi bên trong là hãy giúp đỡ một người lạ đang gặp khó khăn, dù biết bản thân mình chẳng được lợi lộc gì. Và nếu chúng ta đã từng làm như vậy thì phần thưởng dành cho chúng ta thường là một cảm giác vô cùng ấm áp vì đã làm được một điều gì đó đúng đắn và hữu ích cho người khác.

     

    Đạo diễn Trần Văn Thủy và đoàn làm phim tài liệu Việt Nam trong tác phẩm nổi tiếng “Chuyện tử tế” sản xuất năm 1985, đã phỏng vấn các thầy thuốc làm việc lâu năm tại trại phong Quy Hòa:

     

    – Ai là người tận tâm chăm sóc cho các bệnh nhân phong?

     Mọi người đều trả lời:

    – Các bà sơ, chuyện đó phải kể đến các bà sơ.

    Khi đoàn làm phim hỏi các bà sơ:

    – Đâu là nơi bắt đầu để các sơ yên tâm tận tụy phục vụ các người phong?

    Các sơ trả lời:

    – Chỗ bắt đầu của chúng tôi là Niềm Tin.

    Câu trả lời đã gây một ấn tượng sâu sắc cho người nghe.

     

    Còn bạn, khi chiêm ngưỡng những tấm lòng vị tha, nhất là gương các thánh, bạn có nhận ra thấp thoáng hình ảnh Thiên Chúa chưa?

     

    Bạn hãy hỏi Chúa:

    Cuối cùng, bạn hãy hỏi chính Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ có câu trả lời cho bạn. Thực ra, Ngài đã trả lời cho bạn rồi. Bạn hãy đọc Kinh Thánh, đó chính là Lời Chúa nói với loài người và cũng là nói với bạn.

     

    Bề ngoài, Kinh Thánh là bộ sách đứng đầu mọi thời đại và là bộ sách gây ảnh hưởng nhiều nhất trong lịch sử loài người. Ước tính mỗi năm có thêm hàng trăm triệu bản được in ấn và phát hành. Đây cũng là bộ sách được dịch nhiều lần nhất, sang hơn 2.508 ngôn ngữ của hơn 90% dân số thế giới (năm 2009). Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng. Chẳng những hơn hai tỉ người thuộc các giáo hội Kitô giáo vẫn thường đọc hay nghe Kinh Thánh hàng ngày, mà Kinh Thánh còn ảnh hưởng tới hàng tỉ người ngoài Kitô giáo.

     

    Nhưng tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ sách này được in nhiều nhất, số lượng người đọc và trích dẫn là nhiều nhất, nhưng ở chỗ: Nhờ Kinh Thánh mà con người nhận biết chương trình và hành động cứu độ của Thiên Chúa. Nhờ Kinh Thánh con người cũng biết được Thiên Chúa là ai và Người muốn con người phải sống thế nào cho phải đạo. Nhờ Kinh Thánh mà con người biết rằng Thiên Chúa không phải là “Ông Trời” xa tít, nhưng là một “chủ thể” vừa siêu việt vừa gần gũi với mình.

     

    Kinh Thánh sẽ nói với bạn rằng:

    “Ngay cả khi đồi núi chưa được dựng nên,

    địa cầu và vũ trụ chưa được tạo thành,

    Ngài vẫn là Thiên Chúa,

    từ muôn thuở cho đến muôn đời.” (Tv 90,2)

     

    Tuy Kinh Thánh đã được viết từ rất lâu và cũ kỹ, nhưng nó lại chứa đựng nội dung, sứ điệp không hề thay đổi theo thời gian. Không có một bộ sách nào vừa cổ kính vừa mới mẻ, vừa cao xa vừa hiện thực như Kinh Thánh. Trong thời đại chúng ta, thời đại bùng nổ thông tin, nhưng chẳng có thông tin nào đem lại cho chúng ta niềm tin yêu, hy vọng. Tất cả đều tỏ ra là phù du. Cũng như mọi thứ tài sản, lạc thú và quyền lực cũng sẽ chẳng đáp ứng được các nguyện vọng sâu xa nhất của trái tim con người. Cho nên, để xây dựng cuộc đời, để khám phá nguồn vui, để kiếm tìm chân lý, chúng ta cần đến những nền tảng chắc chắn, và nền tảng ấy chính là Kinh Thánh. Kinh Thánh thánh đã đem lại niềm tin và sức mạnh cho hàng tỉ người, bao gồm cả những vĩ nhân trên thế giới. Bạn đừng thờ ơ hay xem thường nhé.

     

    Đến đây, không biết bạn đã tìm ra câu trả lời chưa? Dù rồi hay chưa thì mình cũng giới thiệu bạn hãy đến với người này: Đức Giêsu Kitô, hiện thân của Thiên Chúa. Đấng đã từ nơi Thiên Chúa mà đến để giới thiệu và loan báo cho chúng ta biết dung nhan đích thực của Thiên Chúa tình yêu.

    Chính Người đã nói về mình rằng: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6). Nếu bạn thực sự muốn tiếp cận chân lý, hãy đến với Đức Giêsu, Đấng vẫn hằng hiện hữu cách thiêng liêng giữa Hội Thánh của Người.

    Thân ái.

    Rômualđô M. Bùi Văn Nghĩa, CRM

     
     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

  •  
    Kristie Phan chuyển
     
    Sat, Nov 27 at 8:27 PM
     
     
     
     

     
    CÓ LINH HỒN  NÀO MỒ CÔI  và  “KHỐN NẠN” KHÔNG?
    Hỏi : xin cha giải thích rõ về những linh hồn được gọi là “mồ côi”  và “khốn nạn” trong nơi Luyện hình?.
     
    Trả lời :
    I-Trước hết về những linh hồn gọi là “mồ côi”
    Giáo dân ViệtNam thường có thói quen xin lễ cầu cho những linh hồn “m��� côi” vì cho rằng  những linh hồn này không có thân nhân, bạn hữu còn sống để cầu nguyện cho. Điều này không đúng theo giáo lý của Giáo Hội vì những lý do sau đây:
        1/ Các linh hồn mà Giáo Hội  cầu nguyện cho là AI ?
    Họ là những tín hữu đã ly trần “trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn,  mặc dù  được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời, nhưng vẫn phải chịu một sự thanh luyện cần thiết sau khi chết hầu đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui Thiên đàng.”(SGLGHCG, số 1030).
          Nói khác đi, những ai đã chết trong tình trạng đang hiệp thông với Chúa nghĩa là không có tội trọng (mortal sin) hoặc có, nhưng đã ăn năn kịp thời, và được tha qua bí tích hoà giải, thì được bảo đảm về ơn cứu rỗi đời đời, nhưng vẫn phải trải qua một thời gian ở nơi gọi là “Luyện tội=Purgatory” để được thanh tẩy khỏi mọi hình phạt hữu hạn (temporal punishment) của tội đã được tha, trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần thì “sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau. “ ( Mt 12:32). Xin nhắc lại tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình thương tha thứ của Người.
       Giáo Hội chỉ dạy cầu cho các linh hồn còn đang được thanh luyện trong “Luyn Ti” mà thôi, chứ không cầu cho những linh hồn ở nơi gọi là “Hoả ngục=Hell”được, vì không còn  sự hiệp thông nào giữa nơi này, với Thiên đàng và Giáo Hội lữ hành trên trần thế.  Nghĩa là những linh hồn ở đây “đã vinh viễn xa lìa Thiên Chúa và các Thánh Trên Trời” ( x. Sđd ,số 1033).
       Tuy nhiên, chúng ta không biết được, những ai đang bị phạt trong hoả ngục.  Hơn thế nữa, Thiên Chúa là Cha quá nhân từ, nên “Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” ( 2Pr 3: 9) để được cứu rỗi.      Và chỉ một mình Ngài biết số phận đời đời của những ai đã ly trần mà thôi. Giáo Hội không biết được nên chỉ dạy cầu cho các linh hồn đã ly trần,  chứ chưa  hề tuyên bố ai đã  sa hoả ngục  rồi, nên khỏi cầu xin nữa.   Tuy nhiên,  Giáo Hội có quyền phong thánh (Canonization) cho một số tín hữu đã qua đời,  để long trọng tuyên bố rằng “những tín hữu này đã thực hành các nhân đức, một cách anh hùng và đã sống trung thành với ân sủng của Thiên Chúa…” ( x. Sđd, số 828) như thánh Maria  Goretti, Tê-rê-xa Giêsu Hài Đồng, Thánh Phan xicô Xaviê,  và 17 anh hùng tử đạo ViệtNam ( ngày 19-6-1988).v.v.   Dĩ nhiên,  muốn được phong Thánh, phải hội đủ những điều kiện theo luật của Giáo Hội đòi hỏi.
       2 / Có linh hồn nào gọi là “mồ côi” không?
       Đối với tất cả các tín hữu đã ly trần, hàng ngày , khi cử hành Thánh lễ Tạ Ơn ( The Eucharist),  Giáo Hội cầu nguyện cách chung cho tất cả  như sau:
    “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa.  Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa.           (Kinh nguyện Tạ Ơn II)
       Các Kinh Nguyện Thánh Thể ( Tạ Ơn) I, III và IV đều  có những lời cầu xin tương tự như vậy. cho các linh hồn đã ly trần,  nghiã  là không có chỗ nào phân biệt linh hồn có thân nhân, còn sống  đang xin lễ cầu nguyện cho, hay những linh hồn không có thân nhân, còn sống để cầu nguyện cho nữa..
       Người có thân nhân còn sống xin lễ cầu nguyện cho ai đã ly trần, thì Giáo Hội đọc thêm lời cầu sau đây:
      “Xin nhớ đến tôi tớ Chúa là…(tên thánh) mà (hôm nay) Chúa đã gọi ra khỏi đời này về với Chúa.  Xin ban cho kẻ đã chết như Con Chúa,  thì cũng được sống lại như Người” .
       Như vậy, nếu có ai xin lễ cầu cho một hay vài  linh hồn nào, thì Giáo Hội đọc thêm lời cầu trên đây, nhưng vẫn không quên cầu cho tất cả các tín hữu đã ly trần không phân biệt người còn thân nhân hay  “Mồ Côi” vì không có ai xin lễ cầu nguyện cho.
      
    Nói linh hồn “mồ côi” là nói theo suy nghĩ của con người mà thôi; và điều này  không đúng với giáo lý và thực hành trong phụng vụ thánh của Giáo Hội , vì  Giáo Hội không hề phân biệt linh hồn nào là mồ côi, linh hồn nào có thân nhân còn sống, như người ta quen nghĩ, mà chỉ cầu chung cho tất cả  các tín hữu đã ly trần, ngay cả  trong những thánh lễ có người xin cầu riêng, cho những linh hồn thân nhân của họ đã qua đời.
        Như vậy , không có vấn đề “linh hồn mồ côi” trong niềm tin và thực hành của Giáo Hội.
       Cũng xin được nói lại ở đây một lần nữa, là những linh hồn đang được thanh luyện trong chốn Luyện hình, đã là những linh hồn thánh ( Holy souls) nhưng họ chưa thánh thiện đủ để vào Thiên Đàng, hưởng nhan thánh Chúa cùng các thánh nam nữ khác.  Vì thế, họ cần được  “tạm trú” ở đây một thời gian, dài ngắn tuỳ theo lượng khoan dung, và công bằng của Chúa.   Họ cần sự giúp đỡ của những tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành trên trần thế, và các Thánh ở trên Thiên Đàng nguyện giúp cầu thay, cho họ sớm được tha hình phạt hữu hạn để vào Thiên Quốc.
     
      II- Có linh hồn nào bị coi là “Khốn nạn“ trong  nơi Luyện Tội hay không ?
       Trong một kinh đọc trước thánh lễ, ở một vài cộng đoàn ViệtNam, người ta nghe thấy có những câu đại ý  như sau :
    “Xin Chúa ban những ân xá nào có thể chỉ được cho các linh hồn, nhất là những linh hồn khốn nạn trong luyện ngục… Tôi không nhớ rõ từng chữ trong kinh này nhưng chắc chắn có nghe cụm từ  “Những linh hồn Khốn Nạn trong Luyện Hình.”
        Vậy Ai là những linh hồn “khốn nạn“ trong luyện hình Mà ‘khốn nạn” theo nghĩa nào ?
       Chắc chắn đây chỉ là tưởng tượng, của ai đã đặt ra
    kinh “quái dị” nói trên, để giáo hữu một số nơi, cứ đọc mà không ai chịu sửa chữa, cho phù hợp với giáo lý, tín lý của Giáo Hội.
       Như đã giải thích ở phần trên, các linh hồn , dù đau khổ trong nơi luyện tội, đã là các linh hồn thánh (Holy Souls) rồi, và có thể chuyển cầu đắc lực cho các tín hữu trên trần thế , nhưng không thể tự giúp mình được vì thời gian đã mãn, không cho phép họ làm việc lành thêm, hoặc phạm tội thêm được nữa.   Họ là những người có hy vọng chắc chắn được cứu rỗi, và chỉ còn chờ thời gian sớm hay muộn mà thôi.
        Vậy làm sao họ có thể bị coi là “khốn nạn” được? Có chăng chỉ có những linh hồn đã phải  lìa xa Chúa đời đời trong nơi gọi là “hoả ngục”, thì mới “khốn nạn” mà thôi, vì phải lìa xa Chúa vĩnh viễn.   Và chúng ta cũng không thể làm gì để cứu họ được, vì không có sự hiệp thông nào giữa những ai ở hoả ngục,  với các  thánh ở trên trời, và các tín hữu còn trong Giáo Hội lữ hành trên trần gian.( x. SGLGHCG số 1033)
        Vậy dứt khoát không có vấn đề cầu cho những linh hồn “khốn nạn” Và “linh hồn mồ côi” trong niềm tin và thực hành của Giáo Hội.
     
        Vì từ ngữ này không đúng để mô tả t��nh trạng của các linh hồn ở nơi đó.
       Họ có đau khổ bao lâu chưa được hưởng Nhan Thánh Chúa, là nguồn mọi vinh phúc ,  hoan lạc của các thánh và các thiên thần, nhưng họ được bảo đảm ơn cứu độ muôn đời, vì đã ra đi trong ơn nghĩa của Chúa, nghĩa là sẽ có ngày họ được hưởng Nhan Thánh Ngài…
         Tuy nhiên, như đã nói ở trên, vì chưa được thánh thiện hoàn toàn,  để vào ngay Thiên Đàng nên  họ phải chịu thanh tẩy ở nơi thanh lọc cuối cùng này, trong một thời gian dài ngắn, tuỳ theo lượng khoan dung và công bình của Chúa đòi hỏi. (x Sđd, số 1030-1031)
     
    Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
     


    --Certified Virus Free by 4SecureMail.com ICSA-Certified Scanner--
     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - TẠI SAO CHÚA ĐỂ...

  •  
    Chi Tran

     
     

    TẠI SAO THIÊN CHÚA IM LẶNG ĐỂ XẢY RA NHỮNG SỰ DỮ ???

    Tại sao Thiên Chúa lại để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?

    Sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ khiến 2.996 người chết và hơn 6.000 người khác bị thương, con gái của một vị Mục sư giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình và người hướng dẫn chương trình đã hỏi cô ta như sau:

    -“Tại sao Thiên Chúa lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?”

    Câu trả lời của thiếu nữ này thật là thâm thúy:

    -“Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta.

    Từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài ĐI RA khỏi trường học, khỏi chính phủ và khỏi đời sống của chúng ta.

    Ngài là người 'quân tử' nên đã lẳng lặng rút lui.

    Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình ?

    Về những biến cố mới xảy ra như tấn công khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh ..., tôi nghĩ rằng mọi sự đã bắt đầu với Madeleine Murray O’Hare, khi bà ấy than phiền là KHÔNG NÊN ĐỌC KINH trong trường học nữa...

    Và chúng ta đã ĐỒNG Ý !

    Rồi lại một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh nơi trường học, cũng chính quyển Kinh Thánh trong đó dạy chúng ta: 'Chớ giết người, chớ trộm cắp, yêu thương tha nhân như chính bản thân mình, v.v...',

    Và chúng ta cũng đã ĐỒNG Ý !

    Sau đó bác sĩ Benjamin Spock lại nói là chúng ta không được đánh con cái mình khi chúng làm gì xấu, vì chúng ta có thể làm sai lệch nhân cách bé nhỏ của chúng và làm cho chúng không biết tự quý trọng bản thân mình nữa.

    Thế rồi con trai của chính vị bác sĩ ấy khốn thay đã TỰ TỬ.

    Người ta bảo rằng một chuyên viên chắc chắn phải biết mình nói gì, còn ông ấy nói với chúng ta điều mà chính thực tế gia đình ông ấy THẤT BẠI ...

    Và chúng ta cũng đồng ý luôn !!!

    Bây giờ chúng ta lại tự hỏi là tại sao con chúng ta KHÔNG CÓ LƯƠNG TÂM...

    Tại sao chúng ta không phân biệt được thiện ác...

    Và tại sao chúng ta có thể NHẪN TÂM GIẾT CHẾT một thai nhi, một người thân hay chính mình.

    Có thế sau khi suy nghĩ chín chắn, chúng ta đi đến kết luận:

    Chúng ta gieo nhân nào thì sẽ gặt quả ấy. Đong đấu nào thì hưởng đấu ấy.

    Nơi nào vắng bóng Thiên Chúa, thì nơi đó cái ác sẽ lên ngôi.

    Khi con người quyết tâm loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, thì tức khắc sự dữ, sự ác sẽ nhanh chóng xâm nhập vào chúng ta.

    Làm sao chúng ta có thể mong Chúa cứu khi chúng ta cố tình phớt lờ những lời Người truyền dạy?

    Những lời Người truyền dạy cụ thể là :

    -10 điều Răn,

    - là phúc thật 8 Mối,

    - là thương xác 7 mối,

    - là thương Linh hồn 7 mối,

    - là từ bỏ 7 mối tội đầu,

    - là Mến Chúa, là yêu người, là cầu nguyện, là sám hối, là xót thương, là khiêm nhường, là tha thứ...

    ĐIỀU KÌ LẠ...

    - Là con người có thể vứt bỏ Chúa một cách dễ dàng, rồi sau đó lại tự hỏi tại sao thế giới biến thành địa ngục.

    ĐIỀU KỲ LẠ...

    - Là chúng ta lại có thể tin những gì báo chí nói mà lại nghi ngờ những gì Kinh Thánh nói.

    ĐIỀU KỲ LẠ...

    - Là chúng ta gửi cho nhau những chuyện vui cười qua email và chúng được truyền đi tiếp như lửa rơm, nhưng khi gửi những thông điệp về Thiên Chúa thì chúng ta lại đắn đo suy nghĩ trước khi gửi đi tiếp.

    ĐIỀU KỲ LẠ...

    - Là khi bạn gửi đi thông điệp này, có thể bạn không gửi đi cho nhiều người lắm trong danh sách của bạn, vì bạn không biết họ có tin Chúa không hoặc họ sẽ nghĩ gì về bạn.

    ĐIỀU KỲ LẠ…

    - Là chúng ta lại hay lo sợ người đời nghĩ sao về chúng ta, hơn là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta.

    Hãy chia sẻ thông điệp này, nếu bạn nghĩ nó đáng được gửi đi. Nếu không, bạn cứ vứt nó đi, cũng chẳng ai biết đâu!

    Nhưng nếu bạn cắt đứt chuỗi suy nghĩ này, thì đừng bao giờ than phiền về tình trạng tồi tệ của thế giới chúng ta đang sống.

    (Nguồn: Dòng Đồng Công Hoa Kỳ)

     

     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THÁNH ĐƯỜNG

  •  
    Chi Tran

     


    THÁNH ĐƯỜNG TRONG NỖI NHỚ

     Cuộc đời người linh mục gắn liền với những ngôi Thánh Đường cho đến lúc về nhà hưu, tuổi già còn lưu luyến biết bao khi rời xa.

     

    Thường khi ta nhớ, không chỉ nhớ về ngôi nhà, làng quê, dòng sông. Nỗi nhớ ẩn sâu trong tâm thức còn hơn bao nỗi nhớ khác, nỗi nhớ về nơi Thánh Đường, tiếng chuông sớm chiều. Nơi đong đầy kỷ niệm từ những ngày ấu thơ đến khi lìa trần.

     

    Thánh đường Laterano ghi dấu chiều dài lịch sử hơn 1700 năm Giáo hội sau thời kỳ cấm cách. Bao thăng trầm, bao biến cố lịch sử, triều đại, bao cuộc chiến tranh tương tàn thế chiến đã qua. Từng lớp người, qua bao thế hệ, Thánh Đường còn đó in dấu ấn vào lịch sử của từng cá nhân, của bao trang sử bi hùng, một lịch sử cứu độ, Thiên Chúa bước chân vào trong trần gian.

     

    Mỗi người gần như trong ký ức đều ghi dấu một hình ảnh khó phai về một vài Thánh Đường. Nơi đó với người Công Giáo, ngày đầu tiên cha mẹ bế vào Thánh Đường chịu phép rửa tội, những năm tháng lớn lên theo cha mẹ đi dự Thánh Lễ. Rồi những năm tháng theo học Giáo Lý, bao nhiêu bạn bè cùng xóm, nhớ từng chỗ ngồi, từng cha đến giúp, những khuôn mặt trìu mền của phụ huynh, anh chị Giáo Lý Viên. Nỗi nhớ cứ tràn về khi xa cách Thánh Đường tuổi thơ. Những gốc cây, những vườn cây, những hàng ghế ngồi, đền đài thờ Chúa, kính Mẹ, các Thánh.

     

    Có lẽ vẫn là những kỷ niệm của những ngày đó mang theo trên những nẻo đường đi qua, cả những khi quên Chúa, quên cả Thánh Đường. Nhưng không thể quên mãi vì đi đâu, ở nơi nào đó, vẫn tiếng chuông sớm chiều, vẫn những tháp Thánh Đường cao vút, như kéo tâm hồn lại để đưa lên cao khỏi thế trần.

     Khi đến tuổi yêu đương, Thánh Đường không chỉ nhớ Chúa mà còn nhớ một ai đó ghi khắc trong tim. Những ngày Chúa Nhật, tham dự Thánh Lễ, đưa mắt nhìn về phía nào đó để nhìn ngắm ai đó trong trang phục, thầm nhớ, thầm thương. Nhớ từng chỗ ngồi, nhớ từng bước chân quen khi vào Thánh Dường, khi lên rước Mình Thánh. Khi đứng ngoài sân cầu nguyện trước tượng Mẹ Maria. Những lời cầu nguyện như ghi lại trong lời hát: "Xin cho con lấy được người con yêu" hoặc như tiếng buồn gửi vào lời thơ, những ngày xa nhau, thiếu nhau trong đời: "Cúi mặt âm thầm giấu nỗi đau. Chắp đôi tay nhỏ em nguyện cầu.Tình thương Thiên Chúa cho rũ sạch. Hạt bụi gian trần xa xót nhau." (Thugiangvu). Hay như vần thơ cũ: "Lần lữa anh ghiền nghe tiếng chuông. Làm thơ sầu mộng dệt tình thương. Để nghe khe khẽ lời em nguyện. Thơ thẩn chờ em trước thánh đường. (Hoa trắng thôi cài trên áo tím, Kiên Giang)

     

    Thánh Đường, nếu như ở góc nhìn của người linh mục. Nỗi nhớ như nỗi nhớ quê hương rất sâu đậm. Ở đó bao nhiêu năm, bấy nhiêu trăm ngàn nỗi nhớ miên man. Nhớ từng cháu bé từ ngày rửa tội rồi lớn lên. Nhớ từng thanh nam, thiếu nữ vui tươi, chạy nhảy, hồn nhiên như thiên thần dưới thế. Bao nhiêu nỗi nhớ từng chỗ ngồi của những cụ già, những góc ngồi trầm tư cầu nguyện. Những ánh mắt hướng nhìn về Chúa, buồn vui, đau khổ, hay hạnh phúc, bao nhiêu khuôn mặt bấy nhiêu tâm tình dâng Chúa.

     

    Thánh Đường của những ngày vui mừng bổn mạng, đám cưới của các bạn trẻ. Hân hoan những bước chân vui vào đời, những lời cầu nguyện ngày hạnh phúc. Những lời ngỏ yêu thương, cam kết chung sống trọn đời. Bao là nỗi nhớ để lại trong tâm trí người linh mục, hằng ngày cầu nguyện cho các đôi trẻ vượt những khó khăn, giữ niềm vui hạnh phúc.

     

    Thấy vui khi đôi bạn hạnh phúc năm này qua năm khác, đưa con tới Thánh đường rửa tội, học giáo lý, chịu các phép. Người linh mục vui mừng tạ ơn Chúa, khi gia đình sống vui hạnh phúc, khi gia đình sống trong yêu thương, tham gia hội đoàn thêm lòng đạo sâu.

    Rồi khi các đôi bạn hôn nhân khúc mắc, người linh mục cũng muộn phiền lo lắng, gỡ rối tơ lòng, đem lời sẻ chia, dâng lời cầu nguyện. Người linh mục đôi khi cũng mất ngủ khi nỗi buồn gia đình họ ly tán, bởi thương những trẻ nhỏ trong gia đình, thiếu cha hay vắng mẹ.

     

    Rồi thời gian qua mau, vắng bóng người đi xa định cư, di chuyển chỗ ở, người lìa cõi thế về với Chúa, Thánh Đường vắng đi một gia đình, vắng đi một người, người linh mục tâm hồn thêm trĩu nặng. Thương mến nhiều nên cũng nhiều ưu tư trầm lắng.

     

    Thánh Đường chỉ nghe hai từ đã thấy bao điều muốn sống lại bao kỷ niệm. Bao nỗi nhớ ùa về từng ngôi Thánh Đường ghi lại dấu yêu một thời đã sống, đã lớn lên trong cuộc đời.

     

    Cuộc đời người linh mục gắn liền với những ngôi Thánh Đường cho đến lúc về nhà hưu, tuổi già còn lưu luyến biết bao khi rời xa.

     

    Xin Chúa là niềm vui cho cuộc đời chúng con, vì Chúa mới đích thực là nơi Thánh Điện nơi chúng con nương tựa.

     

    Nguồn: gpbanmethuot.com (09.11.2021)

    Lm. Giuse Hoàng Kim Toan