24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CẦU NGUYỆN VÀ ĂN CHAY

  •  
    Chi Tran

     
     
     


    Bà Maria Simma được ơn nói chuyện với các linh hồn luyện ngục nói về : 

    Cầu Nguyện Và Ăn Chay

    Hỏi :  Bà thường hay nói về sự cầu nguyện nên tôi muốn hỏi bà về việc ấy, Tại sao bà lại cho rằng cầu nguyện là điều quan trọng?

    -Cầu nguyện đem ta đến gần Chúa hơn. Hãy nhìn như thế này. Khi ta có bạn thì điều trước tiên là ta dành thì giờ cho người bạn ấy và người bạn ấy cũng dành thì giờ cho ta. Nếu ta không chú ý để dành thì giờ cho bạn, thì chẳng bao lâu, ta sẽ thấy mình cô độc, và có nhiều khi bị lạc lối trong bóng tối.

    Này đây, khi ta dành thì giờ cho Chúa thì ta làm hai điều: ta lắng nghe và ta nói. Nếu ta muốn giữ tình bạn thì sự lắng nghe quan trọng hơn sự nói chuyện. Như bạn biết, tình bạn chân thật có thể mang lại nhiều sức mạnh và sự yểm trợ, đôi khi chỉ bằng cách ngồi im lặng bên nhau.

    Cầu nguyện thường là ở bên cạnh Chúa trong im lặng, lắng nghe Ngài nói, quan sát và thẩm thấu lời Ngài. Ngài không bao giờ bỏ quên một ai. Trong lúc cầu nguyện, ta dành thì giờ cho người bạn tốt nhất của ta, một người bạn đã hy sinh mạng sống mình cho ta. Thật là chính đáng khi trả lại cho Chúa những thì giờ mà Chúa đã sáng tạo và tặng ban cho ta. Tôi nghĩ Thánh Augustino đã nói rằng lời cầu nguyện là môt thành quả lớn lao nhất và là món quà lớn nhất mà Chúa ban cho nhân loại.

    Hỏi : Xin bà cho biết lỗi lầm lớn nhất mà con người mắc phạm khi nói về cầu nguyện?

    -Tôi nghĩ rằng họ chỉ chạy vội đến với Chúa khi nào họ bị khó khăn hay chỉ khi nghĩ rằng họ cần một điều gì đó. Dĩ nhiên, lời thỉnh cầu cũng tốt, và cũng được Chúa nhậm lời; nhưng chúng ta phải nên ở với Chúa luôn mãi để ngợi khen và cảm tạ Chúa về mọi sự mà Chúa đã ban cho chúng ta, và những gì Chúa đã làm với chúng ta và cho chúng ta.

    Loài người rất vô ơn, và xã hội Tây Phương đã nhận ơn một cách nhưng không. Khi họ không biết tạ ơn, họ trở nên tham lam và ganh ghét nhau. Ngày nay, ở xã hội Tây Phương đang có một lối giảng dạy thịnh hành: đó là tất cả mọi người phải có cơ hội đồng đều như có bằng đại học, có một căn nhà lớn và hai xe hơi. Lối giảng dạy này không phải là lối giảng dạy của Chúa.

    Chúa ban những điều mầu nhiệm lớn nhất và những niềm vui lớn nhất cho những kẻ bé mọn nhất trong chúng ta. Còn Satan thì hứa hẹn cho quyền lực, ảnh hưởng và thành công. Chúa hứa ban bình an, niềm vui và sự no thỏa.

    Những lời cầu nguyện nông cạn nhất là: ”Xin Chúa ban cho con điều này, xin Chúa ban cho con điều kía.”

    Bây giờ trở lại chuyện một người bạn trần thế. Bạn của ta sẽ ở với ta bao lâu khi suốt ngày chúng ta nói với bạn mình: “Cho tôi cái này, cho tôi cái kia?” Các trẻ thơ đi qua giai đoạn này trong sự phát triển xã hội khi chúng khám phá ra cái tôi của chúng. Đây là lúc ta thấy chúng đặt cái sô bằng nhựa lên đầu của nhau, ném cái xẻng đi và ném cát vào mắt của nhau. Và ở lứa tuổi ấy, người lớn cần phải thi hành kỷ luật với lũ trẻ. Lới cầu nguyện phải gồm có lời chào, cám ơn, xin lỗi và câu nói: “Con yêu Cha.”

    Hỏi : Vậy lời cầu nguyện phải được phát triển và học hỏi à?

    -Đúng như vậy. Hãy phát triển và học từ trong nội tâm là nơi mà Chúa làm phép lạ. Những người có đời sống cầu nguyện thật sự thì không bao giờ vô ơn. Họ mau mắn nhìn, nghe và đụng chạm đến sự vĩ đại của Chúa trong mọi điều bé nhỏ nhất, ở trong nội tâm và ở bên ngoài.

    Qua lời cầu nguyện, chúng ta đem đến cho Chúa mọi sự trong nội tâm của ta và qua tất cả mọi sự chung quanh chúng ta. Chỉ khi lắng nghe thì đứa trẻ mới học cách nói, và cuộc nói chuyện này phải luôn được phát triển giữa đứa trẻ và Chúa. Nếu đứa trẻ học biết Chúa luôn ở bên cạnh thì nó biết là mình được yêu thương và bảo vệ. Cha mẹ và co, thầy giáo không thể làm công tác này cách trọn vẹn.

    Nếu không có Chúa thì một đứa trẻ nhậy cảm có thể bị khủng hoảng khi học biết rằng cha mẹ và các bạn thân nhất của bé cũng sai lầm. Các con trẻ biết có Chúa thì sẽ tìm được sự thăng bằng và sẽ được mạnh mẽ nhiều hơn. Chúng là những người học cách đối thoại trong tình yêu với những ai và những gì ở chung quanh chúng.

    Các trẻ thơ từ chối sự hiện diện của Chúa sẽ lớn lên trong nỗi lo sợ và như vậy sẽ dẫn đến sự cần đến các nhu cầu quyền lực, địa vị và nhu cầu vật chất. Bằng cách ấy, chúng sẽ không bao giờ tận hưởng sự bình an mà Chúa muốn ban tặng cho tất cả mọi người. Chúng ta không thể trách cứ Chúa về điều kiện của thế giới hôm nay! Tình trạng của thế giới là hoa quả của sự đi xa lạc Chúa. Ngày nay, những gì làm chúng ta lo âu và đau đớn đều đến từ việc chúng ta coi thường Chúa. Hãy mau trở lại với Chúa và chúng ta sẽ cảm thấy kết quả ngay. Ngài là người bạn duy nhất của chúng ta mà không bao giờ ngủ.

    Hỏi : Nếu lời cầu nguyện cần phải học hỏi, vậy thì chúng ta phải bắt đầu với những bước nhỏ như trẻ thơ à?

    -Vâng, đúng là như vậy. Nếu chúng ta để ý rằng lời cầu nguyện không bao giờ bị xét đoán. Không có lời cầu nguyện nào nhỏ hay lớn, không có diểm A hay điểm F. Chúa vẫn là Chúa, và các thánh thật sự thì hoàn toàn khiêm nhường truớc Nhan Thánh Ngài. Đó là lý do tại sao Mẹ Têrêsa có thể thành thật nói như sau:

    “Tôi là kẻ tội lỗi nhiều hơn bạn.”

    Hỏi : Bà khuyên tôi làm gì nếu tôi chưa bao giờ cầu nguyện và muốn bắt đầu thưa chuyện với Chúa vào buổi tối hôm nay?

    -Hãy tắt TV đi, kéo dây điện thoại ra, đừng nghe điện thoại nữa. Hãy vào phòng của bạn và đóng cửa đàng sau bạn lại. Cầu nguyện là điều duy nhất trong thế giới mà chúng ta có thể và phải ích kỷ hoàn toàn. Hãy im lặng và nói với Chúa rằng bạn muốn ở gần bên Chúa. Hãy thường xuyên làm như vậy và đừng để Satan kéo bạn ra khỏi Chúa, với lối nói chuyện về tôi, tôi và tôi.

    Rồi hãy học thêm về Chúa Giêsu, về Thánh Gia, và các Thánh Tông Đồ của Chúa. Luôn luôn và đi từng bước nhỏ trong sự hiện diện của Tình yêu Toàn Thương của Chúa. Rồi bạn hãy đi tìm một tấm ảnh của Chúa Giêsu hay một cây Thánh giá và đặt nơi góc căn phòng của bạn, nơi mà bạn tìm được bình an và thinh lặng ban đầu. Ở đó, bạn sẽ nghe tiếng Chúa rõ nhất. Hãy quy hướng trái tim bạn theo lời chỉ dẫn của Chúa.

    Hãy bắt đầu chừng 15 phút rồi sau đó, tiến đến 1 tiếng đồng hồ. Nếu bạn thực tập điều này chừng 1 tháng, bạn sẽ cảm thấy ngạc nhiên vì sự bình an và niềm vui sẽ đến với bạn. Tuy nhiên, bây giờ tôi phải cảnh cáo bạn rằng sẽ có những sự đánh phá để lôi kéo bạn khỏi sự cầu nguyện và khỏi sự gần gũi với Chúa. Hãy cố gắng và cương quyết từ bỏ mọi sự chia trí, và hãy đơn sơ tiếp tục việc cầu nguyện.

    Thế rồi nếu bạn tìm thấy nhu cầu cần thay đổi toàn bộ đời sống, và thế giới ngày nay đầy những sự thay đổi thì bạn hãy đến tìm môt vị linh mục tốt lành và nói với ngài rằng bạn muốn ghi danh theo học lớp mẫu giáo của Chúa và muốn tiếp tục điều này trong số những người khác. Trong mối tương giao với Chúa, mọi người chúng ta đều ở lớp mẫu giáo. Sự hoán cải có nghĩa là thay đổi trái tim. Hoán cải có nghĩa là ngừng tất cả mọi sự ngăn chận chúng ta đến với Chúa Giêsu.

    Hãy tìm một cuốn Thánh Kinh và đem đến góc phòng của bạn. Hãy dâng mọi sự mà bạn có cho Chúa và Mẹ Thánh của Ngài, và bạn sẽ tìm được bình an. Không có một ai trên thế giới này mà không cần sự bình an trong trái tim của họ. Nguyên nhân là vì Chúa đã phán:

    “Trước khi Ta tạo con trong cung lòng mẹ con, Ta đã biết con.” Và cảm nghiệm điều ấy sẽ làm cho ta thấy bình an của Chúa. Sự bình an mà Chúa ban đều có trong mỗi linh hồn con người tùy theo mức độ.

    Người thầy gíáo và hướng dần viên giúp chúng ta đến với Ngài mau nhất và tốt nhất là Mẹ của Ngài. Mẹ cũng là thầy giáo và hướng dẫn viên của Chúa nữa. Nếu giáo hội của bạn không tôn kính Đức Mẹ hay nói rằng họ không cần Mẹ, thì hãy hỏi vị linh mục ở đó phục hồi địa vị của Mẹ hay bạn nên tìm xem có ai giúp cho bạn về vấn đề này không?

    Chẳng hạn như ở mỗi thành phố hay mỗi quốc gia đều có Đền thánh Đức Mẹ Maria hay các trung tâm Medjugorje. Tại mỗi trung tâm Medjugorje, bạn có thể xin đọc các thông điệp của Mẹ Maria và xin mang các thông điệp này về nhà để đọc. Hãy học hỏi các thông điệp này khi bạn có giờ yên lặng dành cho Chúa. Xin đừng đọc nhanh quá. Bạn nên đọc mỗi một thông điệp khoảng ba hay bốn ngày và suy niệm về thông điệp ấy.

    Qua những điều Mẹ dạy, chúng ta hãy đến với Chúa cách chậm rãi, cũng như ta lớn lên từ từ. Một khi bạn đi từng bước nhỏ bé để thay đổi đời sống thì bạn sẽ đổi thay. Tôi hứa với bạn rằng bạn sẽ thay đổi. Chỉ ít lâu sau, bạn sẽ nhận thức điều này thật là quan trọng. Làm việc ấy với trái tim của bạn, nhứ không với tâm trí. Có rất nhiều nhà thần học tài giỏi và thông minh nhưng họ chưa khám phá ra Chúa trong cách đơn giản và thanh sạch này.

    Hỏi : Các linh hồn có nói gì về sự hoán cải xảy ra trong gia đình của họ không?

    -Ồ, có chứ, Họ tỏ ra rất vui mừng khi thấy điều này xảy ra, và dĩ nhiên, họ giúp đỡ thân nhân họ trong tiến trình hoán cải.

    Hỏi : Thưa bà Maria, trong khi tìm kiếm nhà thờ, bà có đề nghị gì cho những ai muốn ở bên người khác trong sự hiện diện của Chúa không?

    -Tôi chỉ có những đề nghị để bạn có thể đến gần chân lý của Phúc Âm. Nên tránh những nhà thờ không nói rõ ràng về việc chống phá thai. Nên tránh những nhà thờ mà các cá nhân được huấn luyện quá kỹ nên tỏ ra đầy uy quyền. Tránh xa các nhà thờ tấn công Toà Thánh Vatican. Hãy nên tránh các nhà thờ đem giải trí xã hội vào chương trình thờ phượng. Nếu nhà thờ nào dạy giáo dân rằng Satan không hiện hữu thì nên tránh thật xa. Nên tránh các nhà thờ thực hành các cuộc huấn luyện tinh thần mà họ cho rằng như vậy sẽ đem ta đến gần Chúa hơn. Điều này rất nguy hiểm. Đừng quên rằng Chúa Giêsu luôn ở với ta, và ta không cần phải thực hành việc thao dượt tinh thần để đến gần Ngài hơn.

    Hãy tìm những nhà thờ nào tin vào Kinh Tin Kính của các Thánh Tông Đồ, hay ít nhất, cũng gần gũi với các Thánh Tông đồ.

    Hỏi : Có cách cầu nguyện nào tốt hơn những cách cầu nguyện khác không?

    Không. Chúa biết ta rõ ràng còn hơn là ta biết mình. Tất cả chúng ta được sắp xếp ở gần nhau qua nhiều cách khác nhau, nên lời cầu nguyện tốt nhất cho bạn là cách mà bạn cầu nguyện tốt nhất. Xin đừng quên rằng Chúa biết điều gì tốt nhất cho chúng ta, cho người khác và cho toàn thế giới. Hãy cầu nguyện thật nhiều theo như Thánh Ý Chúa thể hiện trong mọi tình huống. Với lời cầu nguyện thì ta dễ theo gương lời khuyên của Chúa Giêsu trong Phúc Âm. Ta cũng nên bắt đầu ăn chay.

    Ăn chay giúp ích nhiều cho đời sống cầu nguyện, và cầu nguyện sẽ giúp ta ăn chay. Có nhiều sách tốt nói về ăn chay. Với sự kết hợp của cầu nguyện và ăn chay, thì chúng ta sẽ nhanh chóng đến với Chúa và Mẹ trên Thiên Đàng. Hãy trở nên trẻ thơ và đến với các Ngài với sự tín thác hoàn toàn. Khi ở với các Ngài thì đời sống bạn sẽ tìm thấy bình an và niềm vui thật.

    Hỏi : Theo ý bà thì ý nghĩa đúng nhất của việc ăn chay là gì?

    -Chúa Giêsu đã dạy chúng ta hãy ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay là một thứ kỷ luật thiêng liêng trong việc nhịn ăn. Đức Mẹ Maria dạy ta hãy ăn chay bằng bánh mì và nước lã vào ít nhất là một ngày trong tuần. Đặc biệt là ngày thứ sáu. Tốt hơn là ăn chay hai hoặc ba ngày một tuần. Việc ăn chay phải đuợc thực hành chậm chạp và không đi ngược với lời hướng dẫn của bác sĩ Y khoa. Hãy tỏ ra khôn ngoan và nhẹ nhàng như Chúa muốn.

    Ăn chay còn có nghĩa là từ bỏ một sự gì, hay tình trạng nào, từ bỏ một cá nhân nào đó, hay tránh xa các dịp tội mà có thể đưa ta đi xa khỏi Thánh Ý Chúa Giêsu. Có các tình huống mà ta biết rằng mình có thể bị kẻ khác điều khiển để mất đi cơ hội làm các việc lành. Danh sách của các tình trạng này rất dài và có nhiều thể loại. Có những điều có thể cám dỗ được bạn nhưng lại không có thể cám dỗ được tôi, và ngược lại. Trái tim của chúng ta biết chính mình nhất, và chúng ta phải cố gắng sống thật thà và trong sạch khi nói đến những gì mà chúng ta không cần.

    Ăn chay còn có nghĩa là ngừng lại không nhờ Chúa làm nhiều điều cho ta, và để Chúa làm việc cho thế giới chung quanh ta. Ăn chay là một cách đầy quyền năng để đến với Ngài. Chúng ta quan trọng vì linh hồn chúng ta có giá trị đối với Chúa hơn cả thế giới.

    Tôi biết có những người đã từng ăn chay đến 7, 8 hay 9 năm trường, và sau đó, họ biến đổi hoàn toàn, đó phải kể là phép lạ. Chúa đã thực sự làm việc mà không một lối giảng dạy nào của trần gian có thể thực hiện được.

    Ăn chay làm cho chúng ta dễ dàng cầu nguyện và khi cầu nguyện thì chúng ta dễ dàng ăn chay hơn. Khi ta ăn chay để cầu nguyện cho các linh hồn ở Luyện ngục thì họ được lợi ích nhiều và họ sẽ cảm tạ ta đến muôn đời.

    Ăn chay bằng cách không xem TV là điều rất cần thiết. Khi ta ăn chay bằng cách này, ta sẽ giúp các linh hồn ở Luyện ngục rất nhiều, nhất là đối với các linh hồn đã không chu toàn bổn phận của họ đối với gia đình họ. Tôi biết ở Luyện ngục có rất nhiều các loại linh hồn này.

    Ăn chay có thể bằng nhiều cách và không có một giới hạn nào. Một sự hãm mình nhỏ nhặt cũng mang lại các kết quả tốt, cũng như một lời cầu nguyện nhỏ bé đem lại nhiều lợi ích cho các linh hồn.

    Hỏi : Bà có thể cho tôi một ví dụ mà một lời cầu nguyện nhỏ nhặt đã làm thay đổi sự kiện?

    -Vâng, mỗi lời cầu nguyện ngắn và đơn giản đều được Chúa lắng nghe. Để tôi xem nào! Ồ, có! Đây là câu chuyện liên quan đến một linh hồn, và ông ta đã đến gặp tôi vào mấy năm trước.

    Một đêm nọ có linh hồn người đàn ông hiện ra và nói với tôi là ông cần được giải thoát. Ông ta cứ đứng trước mặt tôi và hỏi:

    “Bà còn nhớ tôi không?”

    Tôi nói không. Ông ta bèn nói rằng cách đây khá lâu, vào năm 1932, khi tôi chỉ mới 17 tuổi, ông ta đã cùng ngồi trên toa xe lửa với tôi để đến vùng Hall.

    Lúc nghe nhắc lại, tôi mới nhớ ra. Ông ta đã phàn nàn chua cay về giáo hội và tôn giáo. Lúc đó, tôi nghĩ mình phải trả lời ngay, và tôi bảo ông ta rằng ông không phải là người tốt khi ông nói xấu về các sự thánh thiện như thế. Câu trả lời của tôi làm cho ông ta ngạc nhiên và làm ông ta cảm thấy khó chịu. Ông ta nói rằng:

    “Cô là người trẻ mà dám dạy đời tôi à?”

    Tôi tỏ ra hỗn xược và lớn tiếng với ông:

    “Nhưng tôi khôn hơn ông đó!”

    Từ đó, ông ta cúi đầu đọc báo và không nói thêm một lời nào cả. Khi ông ta xuống ga rồi, tôi thì thầm một lời nguyện tắt:

    “Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để cho linh hồn này bị mất đời đời.”

    Vậy mà bây giờ ông ta đến với tôi, ông kể cho tôi nghe rằng chính lời nguyện tắt của tôi lúc đó đã cứu ông khỏi rơi vào Hỏa ngục.

    Hỏi :  Bà có các lời cầu nguyện nào có một sự đính kèm không?

    -Cho tôi à? Không, nhưng tôi thích nhìn những gì xảy ra trong mọi người khi họ khám phá ra cầu nguyện thực sự là gì?

    Với các lời cầu nguyện, tôi thường năn nỉ mọi người hãy tái khám phá ra Chúa Giêsu trong khi chầu Chúa Thánh Thể. Đây là một ân sủng vô biên và là nguồn suối chữa lành, là nơi mà Chúa Giêsu ban phép lạ. Thế mà rất nhiều người đã bỏ quên trong Giáo hội tân kỳ ngày nay. Khi ta đến chầu Thánh Thể hai lần hoặc ba lần mỗi tuần thì Chúa sẽ đem bình an đến cho toàn thế giới.

    Tôi có tình yêu đặc biệt cho việc đọc kinh Mân Côi. Đây là sự chữa lành mạnh mẽ cho các gia đình.

    Tôi thường khuyên mọi người hãy đọc lời kinh của Thánh Bridget. Bà Thánh Bridget của Thụy Điển đã nhận được hai lời kinh từ Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria. Những lời kinh mà Chúa Giêsu ban thì nên đọc trong một năm. Còn những lời kinh mà Đức Mẹ dạy qua bà Thánh Bridget thì chúngta nên cầu nguyện trong 12 năm. (Xin xem trong phần cuối của cuốn sách này.) Rồi Đức Mẹ cũng ban cho bà Thánh các lời cầu nguyện để tôn vinh 7 sự Thương Khó của Me. Chúa Giêsu và Đức Mẹ hứa rằng qua Thánh Bridget thì những ai cầu nguyện các kinh này sẽ được nhiều ơn ích sau này.

    Các lời hứa của Chúa Giêsu dành cho nhưng ai cầu nguyện các kinh này trong 12 năm. Các lời hứa của Chúa Giêsu gồm có 5 điều, nhưng lợi ích của lời hứa này thì rõ ràng và đầy hiệu quả. Cùng những ai cầu nguyện các kinh, Chúa Giêsu hứa như sau:

    1. Linh hồn nào cầu nguyện kinh ấy sẽ không bị rớt vào Luyện ngục.
    2. Linh hồn nào cầu nguyện kinh ấy sẽ được xem như các Thánh Tử Đạo, giống như là người ấy đã nhỏ máu cho đức tin của họ.
    3. Linh hồn nào cầu nguyện kinh ấy sẽ có thể chọn 3 người khác mà Chúa Giêsu sẽ giữ gìn họ trong tình trạng ân sủng để trở nên thánh.
    4. Không ai trong 4 thế hệ kế tiếp của những ai cầu nguyện mà bị sa vào Hỏa ngục.
    5. Linh hồn nào cầu nguyện kinh ấy sẽ được biết về cái chết của mình trước đó 1 tháng.

    Tuy nhiên, tôi cần phải cảnh cáo mọi người hãy đừng nghĩ rằng mình cứ tiếp tục sống bừa bãi mà có thể đi thẳng lên Thiên Đàng. Ta phải sống thành thật với Chúa ngay lúc ta đọc kinh này và luôn phải sống thánh thiện hơn. Linh hồn ấy đừng tưởng rằng mình có thể qua mặt được ánh sáng của Chúa, và nếu không sống tử tế, người ấy sẽ gặp một sự ngạc nhiên đáng sợ khi đến giờ gặp Chúa nơi Tòa Phán Xét.

    Hỏi : Liệu các linh hồn có đòi hỏi sự gì thêm không, ngoài các lời cầu nguyện từ các thân nhân của họ?

    -Thỉnh thoảng có. Nếu một linh hồn chấm dứt cuộc đời sớm hơn là vì họ hút thuốc lá quá nhiều thì họ sẽ xin thân nhân của họ ngưng hút thuốc đi. Dĩ nhiên, đó cũng là môt sự ăn chay.

    Hỏi :  Chúng ta có nên cầu nguyện cho thú vật hay cầu nguyện trên thú vật không?

    -Có, đó là điều tốt và hợp lý khi cầu nguyện trên một con thú bị bệnh bởi vì thú vật cũng có tinh thần, dù chúng không có linh hồn. Chúng ta có thể cầu nguyện cho sự bình an và sức khỏe của thú vật. Chúng ta nên chúc phúc cho thú vật bởi vì Satan ghét những gì gần gũi và giúp ích cho chúng ta.

    Hỏi :  Có điều quan trọng thiêng liêng nào khi ta chắp tay lại lúc cầu nguyện không?

    -Nếu ta chắp tay lại khi cầu nguyện thì Chúa ban cho ta thêm nhiều ơn sủng. Đây là điều mà các linh hồn nói cho tôi biết.

    Hỏi :  Mọi người nên cầu nguyện cho người khác hay chỉ cầu ngu      yện cho chính mình?

    -Ồ, mọi người nên cầu nguyện RẤT NHIỀU CHO những người khác hơn là cầu nguyện cho chính mình. Công thức vẫn là hãy hy sinh và cho đi mọi sự gì tốt đẹp cho tha nhân càng nhiều càng tốt. Đó là điều Chúa muốn chúng ta làm.

    chanlyvinhcuu

     

     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM VŨ THÁI HÒA - LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

  •  
    Chi Tran

     
     


     

    Đâu là ý nghĩa của Lời nguyện tín hữu?

    Tiếp sau phần Tuyên xưng đức tin là phần lời nguyện cho mọi người (cũng gọi là lời nguyện tín hữu, hay trước đây thường gọi là lời nguyện giáo dân).

    Cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn không những cho Giáo Hội, cho cộng đoàn và cho những người tham dự thánh lễ, mà còn cho tất cả mọi người, như lời khuyên của thánh Phaolô (1 Tm 2, 1).

    Trong lời nguyện cho mọi người, chúng ta để con tim chúng ta cùng rung nhịp đập với mọi tạo vật, với mọi chiều kích của vũ trụ, biết thông cảm với những khổ đau, lao nhọc, với những niềm hy vọng của mọi người trên trái đất này.

    Lời nguyện cho mọi người phải ôm trọn toàn thế giới trong vòng tay của mình và khẩn cầu Thiên Chúa đổ ơn dồi dào trên các tạo vật của Người.
    Tác Giả: Linh Mục Giuse Vũ Thái Hoà
    Download all attachments as a zip file
    • 1645679641388blob.jpg
      68.2kB
    • 1645679641388blob.jpg
      68.2kB

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

  • CHÍ TRẦN CHUYỂN
     

     

    10 ĐIỀU RĂN CHÚA DẠY
    Điều Răn Thứ Bốn: „ Thảo kính cha mẹ“
    Sau khi ba Điều Răn đầu tiên đã nêu lên những bổn phận quan trọng đòi buộc con người nhất thiết phải chu toàn đối với Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, thì bảy Điều Răn còn lại đề cập tới những trách nhiệm hỗ tương giữa con người với con người trong các tương giao với nhau.
    Và bắt đầu là Điều Răn Thứ Bốn, dạy con cái phải hiếu thảo và kính yêu đối với các bậc sinh thành là tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Điều này khẳng định tính chất cơ bản và trọng yếu của bổn phận thảo kính mà con cái phải có đối với cha mẹ, khi các ngài còn sống cũng như lúc đã qua đời, của Đạo Thiên Chúa nói chung và của Đạo Công Giáo nói riêng. Đúng vậy, qua Điều Răn Thứ Bốn, Thiên Chúa đòi buộc những người làm con cái nhất thiết phải có trách nhiệm và bổn phận đối với cha mẹ mình.
    Đồng thời điều đó cũng là một minh chứng hùng hồn phản bác lại những phê bình chỉ trích nông cạn của một số người không hiểu rõ giáo lý Công Giáo nên đã hiểu lầm cho rằng đi theo Đạo Công Giáo là bỏ tổ tiên, bỏ ông bà và cha mẹ. Đúng vậy, ở đây bổn phận phải thảo kính cha mẹ không phải là một truyền thống tốt hay một luật lệ đúng đắn do loài người đặt ra, mà là luật thánh do chính Ông Trời, do chính Thiên Chúa đã thiết đặt và đòi buộc tất cả mọi kẻ làm con phải chu toàn đối với cha mẹ mình. Vì thế, Điều Răn Thứ Bốn này thực sự là luật thánh, và những ai không chu toàn Điều Răn Thứ Bốn, tức không có lòng thảo kính cha mẹ, thì không những mắc tội bất hiếu đối với cha mẹ mà còn mắc tội với Trời, nhưng những ai dám mắc tội, dám xúc phạm đến Trời thì không bao giờ Trời dung tha. Kinh nghiệm trong cuộc sống đời thường cũng đã minh chứng điều đó: những người con sống bất hiếu với cha mẹ hoặc xúc phạm nặng nề đến cha mẹ, như hất hủi, đánh đập, chửi bới cha mẹ, thường đã phải gánh chịu những hậu quả ghê gớm như ác quả nhãn tiền.
    Nhưng có lẽ sự hiểu lầm vừa nói trên nơi những người ngoài Công Giáo bắt nguồn từ việc họ quan sát thấy các tín hữu Công Giáo không cúng bái ông bà cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Vì theo quan niệm truyền thống của những người Việt Nam không phải là tín hữu Công Giáo, thì vào các ngày lễ, ngày rằm, ngày giỗ, tết đoan ngọ, tết nguyên đán, hay các dịp lễ hội quan trọng khác, để tưởng nhớ và tỏ lòng thảo kính đối với ông bà cha mẹ đã qua đời, người ta thường sửa soạn chu đáo một cỗ cúng hay một mâm cúng, to nhỏ tùy điều kiện kinh tế của gia đình liên hệ, và đặt lên bàn thờ tổ tiên. Trên mâm cúng đó gồm có các thức ăn bình thường của người sống, như: sôi, các thứ thịt ngon, rượu nồng, các thứ hoa trái tươi tốt và cùng với mâm cúng người ta còn đốt các cây nhang, khói hương tỏa bay thơm ngào ngạt, hòa lẫn với những tiếng khấn bái của đoàn con cái cháu chắt đang trang nghiêm quây quần trước bàn thờ, chắp tay thành kính dâng lên ông bà cha mẹ, mong hồn thiêng các ngài trở về hưởng hương vị của các món ăn dâng trên bàn thờ, chứng dám cho lòng hiếu thảo của con cái cháu chắt và phù hộ cho họ biết thương yêu nhau, được bằng an và làm ăn phát đạt. Sau đó, khi cây nhang đã cháy hết thì con cháu mới được phép bưng mâm cúng xuống và cùng nhau ăn uống vui vẻ, vì họ đinh ninh rằng trong thời gian cây nhang đang cháy thì hồn thiêng các người quá cố trở về và hưởng các hương vị của mâm cúng, còn khi cây nhang đã cháy tàn, thì các hồn thiêng ấy cũng đã hưởng xong các hương vị con cháu dâng cúng cho các ngài và đã quay gót trở lại cõi âm rồi; do đó, con cháu mới được hưởng của dư còn lại.
    Trước hết, tâm tình thảo hiếu, thương nhớ và gắn bó với ông bà cha mẹ đã qua đời như thế của người Việt Nam chúng ta quả thực là một đạo lý truyền thống rất đáng trân trọng, cần phải được mọi người bất kể lương giáo bảo tồn và phát huy. Nhất là chính tâm tình thảo hiếu ấy hoàn toàn trùng hợp với giáo huấn của Điều Răn Thứ Bốn, tức đúng với bổn phận thảo kính mà Thiên Chúa đòi hỏi con cái phải chu toàn đối với cha mẹ mình.
    Tuy nhiên, cách thức tỏ bày lòng thảo kính đối với những người quá cố như thế, tức việc cúng bái ông bà cha mẹ đã chết với những thức ăn vật chất, thì lại không nhất thiết phải được mọi người cùng chia sẻ và đồng ý. Thật vậy, nói tổng quát, các tín hữu Công Giáo hoàn toàn xác tín một cách chắc chắn rằng sau khi đã qua đời, tức sau khi linh hồn ra khỏi xác, thì xác con người sẽ được chôn sâu và tan hòa vào lòng đất mẹ, chờ được sống lại trong ngày tận thế, còn linh hồn thì phải đến trước tòa Thiên Chúa chí công để lãnh nhận phần trách nhiệm về cuộc sống trần gian vừa qua của mình: có công thì được thưởng, có tội thì phải đền bù. Ai gieo giống gì thì sẽ gặt hái được hoa quả của giống đó (x. Gl 6,7b-8). Luật công bằng của trời đất muôn đời vẫn thế, chứ đừng trách Thiên Chúa khắc nghiệt mà lại thêm tội. Vả lại Thánh hiền cũng đã dạy: „Hoàng thiên vô thân, duy đức thị thụ“: Ông Trời không thân riêng ai cả, chỉ người có đức thì Trời giúp (Kinh Thư).
    Do đó, bổn phận con cái phải có đối với cha mẹ mình sau khi các ngài đã qua đời là phải siêng năng cầu nguyện cho linh hồn các ngài, để nếu khi còn sống các ngài đã vì yếu đuối mà sai phạm hay thiếu sót các bổn phận của mình cách này cách kia, thì sớm được Thiên Chúa khoan hồng tha thứ và cho về đoàn tụ với các Thần Thánh, vui hưởng hạnh phúc bất diệt trên Thiên đàng. Trong khi đó, mùi thơm của khói nhang và hương vị của các thức ăn là những thứ thuộc vật chất chóng qua thì chỉ cuộc sống thể xác ở đời này mới cần tới để sinh tồn mà thôi, còn linh hồn con người là giống thiêng liêng, vô hình và bất tử thì chỉ mong đợi được hưởng các ân huệ của Thiên Chúa ban cho qua lời cầu xin khẩn nguyện của những người còn sống, chứ hoàn toàn không thể hưởng, hay nói đúng hơn, không cần tới các hương vị vật chất ấy nữa. Chính lý trí tự nhiên của con người bình thường cũng phải phê nhận điều này.
    Dĩ nhiên, trên bàn thờ tổ tiên, người Công Giáo cũng được phép thắp nhang hay đặt lên đó bình hoa hay các thứ hoa quả như một dấu chỉ của lòng kính nhớ và thương tiếc của mình đối với ông bà cha mẹ, chứ không phải để cho hồn thiêng các ngài về hưởng. Còn các thức ăn mặn như các thứ thịt thà, cơm rượu, v.v… thì tuyệt đối không bao giờ được đặt lên trên bàn thờ dành cho tổ tiên, nếu không, sẽ phạm tội mê tín dị đoan và liều mình xúc phạm đến Điều Răn Thứ Nhất.
    Thật vậy, giáo lý Công Giáo dạy con cái nhất thiết phải có lòng thảo kính và báo hiếu đối với cha mẹ một cách thực tiễn. Đó là: Phải thật lòng kính yêu, biết ơn, vâng phục và giúp đỡ cha mẹ, nhất là lúc các ngài phải rơi vào cảnh túng thiếu hay đau ốm bệnh tật. Trong giờ nguy tử thì phải liệu cho các ngài được lãnh nhận các Bí tích cần thiết, nhất là Bí tích Hòa Giải, Bí tích Xức Dầu và Rước Lễ. Lòng thảo hiếu đối với cha mẹ còn phải bền chặt kéo dài mãi sang cả bên kia cái chết, nghĩa là một khi cha mẹ đã qua đời, con cái còn phải siêng năng sốt sắng đọc kinh cầu nguyện cho các ngài, nhất là dâng Thánh Lễ Mi-sa, cầu xin Thiên Chúa nhân hậu mau giải thoát linh hồn các ngài và đưa về vui hưởng hạnh phúc bất diệt với các Thần Thánh trên Quê Trời.
    Như vậy, vấn đề đã quá rõ ràng, đó là: Bổn phận thảo kính cha mẹ giữa người bên lương và người Công Giáo chỉ khác nhau ở cách thức bày tỏ mà thôi – tức một bên thì cúng bái bằng các thức ăn uống vật chất, còn một bên khác thì đọc kinh và dâng Thánh Lễ để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ –, chứ bản chất của bổn phận thảo kính cha mẹ vẫn không có gì khác nhau giữa hai bên. Dĩ nhiên, trong hai cách thức bày tỏ lòng thảo kính đối với cha đã qua đời như trên, cách thức nào đúng, hợp lý và cách thức nào sai, không hợp lý, lại là chuyện khác.
    Và tất cả những gì chúng ta vừa trình bày ở trên đây, mới chỉ xét trên phương diện nguyên tắc hay lý thuyết mà thôi, còn trên thực tế hay trong cuộc sống cụ thể, thì một sự thật đáng buồn mà người ta khó có thể phủ nhận được, đó là không phải tất cả mọi người con cái đều biết vuông tròn được đạo hiếu đối với cha mẹ mình, nhất là khi họ phải phụng dưỡng và chăm sóc cha mẹ trong lúc các ngài đau yếu hay già nua, mặc dù niềm hy vọng của các bậc làm cha làm mẹ vẫn cụ thể: „Nuôi heo để lấy mỡ, nuôi con để đỡ đần chân tay“. Khi phải nuôi nấng phụng dưỡng cha mẹ, con cái lại thường so đo tính toán rất kỹ, đúng là „cha mẹ nuôi con biển hồ lênh láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày“. Kể cả những gia đình đông anh chị em, việc phụng dưỡng cha mẹ trong tuổi già cũng không thuận thảo dễ dàng hơn, trái lại nhiều khi còn khó khăn, còn phức tạp hơn: anh chị em ganh nạnh và phân bì lẫn nhau, tìm cách thoái thác và trao trút cho kẻ khác việc phụng dưỡng nuôi nấng cha mẹ với hàng trăm hàng ngàn lý do, thế mới có câu „Một mẹ nuôi được trăm con, còn trăm con lại không nuôi được một mẹ“. Thế nhưng một khi cha mẹ vừa nhắm mắt nằm xuống thì ôi thôi: con cái cháu chắt thi nhau kêu khóc, gào thét thảm thiết và tổ chức ma chay cúng quẩy linh đình như thể họ là những đứa con hiếu thảo và thương cha mến mẹ nhất trên đời. Nhiều người hay nhiều tang gia, đặc biệt ở các thành phố, còn thuê cả bọn người „khóc mướn“ nhà nghề đến khóc lóc và kể lể lải nhải. Nhưng thái độ thiếu thành thực và buồn cười đó vẫn không che đậy được mắt người đời, nên mới bị mỉa mai: „Khi sống thì chẳng cho ăn, đến lúc thác xuống làm cơm cúng ruồi“ là vậy. Còn trước mặt Thiên Chúa, chắc chắn những đứa con bất hiếu ấy sẽ khó lòng tránh khỏi tội!
    Vậy, luật thảo kính cha mẹ đã rõ, nhưng có lẽ cũng sẽ không thiếu người tự hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con cái phải thảo kính cha mẹ?
    Câu trả lời chỉ có thể là: Vì cha mẹ là những người sinh thành ra ta, dưỡng dục ta nên người, các ngài là những người thay mặt Thiên Chúa săn sóc lo lắng cho ta cả hai phần hồn xác. Bởi vậy, việc thảo kính cha mẹ cũng thuộc về phạm vi tôn thờ Thiên Chúa, tức làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách tuân giữ Giới Răn của Người: „Ngươi hãy thờ cha kính mẹ để được sống lâu“ (Xh 20,12). Trái lại, như đã nói trên, khi xúc phạm đến cha mẹ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
    Sau cùng, cũng thuộc về Điều Răn Thứ Bốn này là lòng kính trọng và tuân phục các bậc Bề Trên trong Giáo Hội cũng như trong xã hội, tức hàng Giáo Phẩm, các cấp chính quyền hợp hiến, các thầy cô ở trường học và việc chu toàn các nghĩa vụ đối với xã hội qua việc tuân giữ các luật lệ chính đáng và chu toàn các trách nhiệm của người công dân. R
    LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
     
     

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - NHỮNG NƠI THỜ PHƯỢNG

  •  
    Chi Tran CHUYỂN
     

    GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

    Bài 36: NHỮNG NƠI THỜ PHƯỢNG

     

    Hỏi: Tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm sâu, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?

     

    Trả lời:

    Bạn thân mến,

    Bạn quả là có con mắt nhận xét khi đặt vấn đề và so sánh về việc chọn xây dựng nơi thờ tự của Phật giáo và Công giáo. Nhìn vào hai lựa chọn nơi chốn như thế, chắc người ta phần nào cũng biết được giáo lý mà hai tôn giáo này giảng dạy.

     

    1. Chốn thanh tịnh rừng sâu

    Nếu tìm gõ “Phật giáo Việt Nam” trên wikipedia, bạn sẽ thấy Phật giáo là tôn giáo ảnh hưởng sâu rộng ở Việt Nam, mang nhiều màu sắc của hệ phái Phật giáo Bắc tông. Ở miền Nam, hệ phái Phật giáo Nam tông cũng có ảnh hưởng không nhỏ, nhất là trong cộng đồng Khmer Nam bộ. 

     

    Chúng ta biết nền tảng của Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Tất–đạt–đa Cồ–đàm hay còn gọi là Đức Thích–ca Mâu–ni, là một triết gia, học giả, người sáng lập nên Phật giáo. Ngài là con nhà hoàng tộc, sống trong nhung lụa nơi chốn trị thành giữa thế kỷ thứ 6 và 4 TCN bên Ấn Độ cổ, nay thuộc Nepal. Vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên Đức Phật đã khao khát tìm một con đường để mong giải thoát chính mình và sinh linh khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa, để lên đường tu tập.

     

    Bên cạnh đó, triết lý Phật giáo một phần biểu hiện qua hình ảnh ngôi chùa và chính hình ảnh ấy đi sâu vào trong tâm thức của dân tộc. Vì lẽ này nên ở nước ta, khi khai phá vùng đất mới, các chúa Nguyễn ủng hộ Phật giáo đã cho xây dựng chùa tháp. Dưới triều Nguyễn có nhiều ngôi quốc tự nổi tiếng như Thiên Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế,…

     

    Không chỉ thế, còn nhiều ngôi chùa khác hiển hiện mang vẻ đẹp giải thoát lôi cuốn người đời bỏ công “viếng cảnh thăm người” nơi thanh vắng, thơ mộng, hợp với tâm hồn của khách yêu hoa cỏ.

     

    Thật vậy, vì chán chỗ ngựa xe ồn ào, các tăng ni thường tìm không gian đầy hình ảnh thanh thoát để lập một mái am tranh hay chùa chiền. Đó chính là hiển pháp để chúng sanh biết đến đạo mà giác ngộ, biết con đường giải thoát. Trong bài thơ Nôm của Thị độc học sĩ Long Biên Nguyễn Nhữ Cơ đã cảm nhận:

    Bên khe róc rách nước trong veo

    Một liếp chùa tranh cảnh vắng teo

    Xa chốn bụi hồng lòng phủi sạch

    Buồn nghe trong gió lá thông reo.

     

    Chúng ta biết, chùa đã được xây từ lâu đời ở làng xã nước ta. Các tổ khai sơn và những vị kế thừa đều xây dựng chùa theo một kiến trúc đơn giản, biểu lộ tư tưởng thoát tục, tạo sự thanh tịnh để nội tâm người tu hành thanh thản không xáo động bởi ngoại cảnh xô bồ.

     

    Vì lẽ đó, trên những trục đường về vùng xa xôi hẻo lánh dọc dài đất nước, bạn sẽ bắt gặp chùa nơi vùng duyên hải men theo bờ sông, con nương hoặc bên cạnh ruộng đồng thôn xóm. Có khi vượt qua đèo dốc gập ghềnh sỏi đá để đến chùa ở miền quê. Hay bạn cũng có thể nhìn thấy chùa ở thị trấn, khi đó, chùa thường nằm bên cạnh miễu và đình thờ vong linh thần hoàng. Nơi nào có cổ thụ cao vút, tàn lá sum sê, nơi ấy thường là địa điểm của chùa.

     

    Thêm nữa, Đức Phật yêu làng mạc, núi rừng. Những hòa thượng, đại đức đã tạo nên các chùa ấy với ý vị là hun đúc nên sự giải thoát tự tại trước cuộc đời. Chính vẻ đẹp hòa điệu giữa con người và thiên nhiên khiến du khách lạc bước không muốn về khi đến viếng chùa, hay ngắm nhìn những điểm tô nơi vẻ đẹp nhàn thoát của một ngôi thảo am. 

     

    Truyền thống về Đức Phật có nói mục đích tối hậu của đạo là sự thanh tịnh (visuddhi), sự thực hành: thanh tịnh thân và tâm. Vì thế, chùa được xây giữa môi trường rừng để dành cho thiền định, muông thú là những nguồn tích cực, là hạnh phúc của cộng đồng tu sĩ sống rừng[1]. Tóm lại việc chọn nơi để xây chùa hệ tại căn bản ở việc đạo Phật là đạo xuất thế.

     

    2. Nơi dân cư đông đúc

    Trong khi đó đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người chìm đắm trong tội lỗi đau khổ nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ họ. Chúa Giêsu nhập thế, vào đời và sống giữa người nghèo, người tội lỗi để giúp đời, canh tân cuộc sống này và đưa mọi người về với Cha. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.

     

    Như vậy, Nhà thờ là một thánh đường để cử hành phụng vụ và việc chọn nơi xây thì cũng có nhiều tiêu chí để tuân theo. Nhưng ở đây chúng ta chỉ nói đến địa điểm được chọn để xây nhà thờ nhà thánh. Lý do nhà thờ toạ lạc tại nơi đông đúc là vì điều đã nói ở trên: đạo nhập thế.

     

    Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân, cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp, nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Tình yêu của Ba Ngôi không thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan tỏa khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu từng sinh linh vạn vật,…Tuy nhiên Ba Ngôi lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống con người.[2]

     

    Từ khi nhập thể làm người cho đến trao Thần khí trên Thập Giá, Chúa Giêsu chỉ muốn trao ban trọn vẹn thân mình, chia sẻ tình yêu cho nhân loại và muốn ở lại với chúng ta luôn mãi. Sau cuộc đời dương thế của Đức Giêsu, các môn đệ tiếp tục công cuộc loan báo Tin Mừng. Các ngài không vào chốn rừng sâu hẻo lánh, nhưng đến thành phố đông người. Giáo Hội sơ khai thường được gầy dựng tại những nơi đông đúc như thế.

     

    Các ngài không chỉ đi từ làng này đến làng khác, nhưng các thành phố lớn luôn là điểm truyền giáo ưu tiên. Bởi thế chúng ta dễ dàng nhận thấy các giáo đoàn thời đó tăng nhanh và lớn mạnh. Điều này rất rõ trong những thư từ của thánh Phaolô và sách Công Vụ Tông Đồ. Một khi cộng đoàn phát triển, họ cũng có nhu cầu xây dựng thánh đường để tôn thờ Thiên Chúa. Đừng quên từ trung tâm đó, người con của Chúa tiếp tục hướng đến những gia đình, nơi những biên cương xa hơn. Nơi nào có người, Thiên Chúa mời gọi họ đến để chia sẻ Tin Mừng.

     

    Khi chúng ta tìm hiểu về cuộc hội nhập văn hoá của những tín hữu Công giáo từ năm 1533 đến nay, có thể thấy họ đã đem đến những giá trị cho dân tộc và những điểm tốt đẹp cho quê hương Việt Nam từ cuộc sống nhập thế của họ.

     

    Nhìn lại dòng lịch sử dân tộc, người tín hữu Việt Nam đã sống hòa thuận và hiệp thông trên mọi miền đất nước, cũng như với mọi người trên thế giới. Do đó, ngôi nhà thờ đã trở nên hình ảnh quen thuộc của người Việt. Trong đại gia đình có nhiều nền văn hoá khác nhau, người tín hữu được khuyến khích tìm hiểu và đối thoại với anh em xung quanh xứ đạo của mình để cùng xây dựng một nền văn minh tình yêu và hoà bình.

     

    Bước vào thiên niên kỷ mới, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã thiết tha yêu cầu chúng ta đổi mới cách sống của mình theo đúng tinh thần của Chúa Kitô để có thể: “sống, làm chứng và loan báo Phúc Âm cho đồng bào thân yêu”.

     

    Ý thức được điều này, người Công giáo Việt Nam càng muốn hoà nhập vào lòng dân tộc để thể hiện sứ mạng đã được Thiên Chúa trao phó: xây dựng tình huynh đệ chân thành nơi địa phương mình sống.

     

    Có thể nói, trong thế giới hôm nay, với nét đặc trưng của tình trạng đa nguyên, Kitô hữu bất kỳ ở đâu cũng tiếp xúc ngày càng nhiều hơn với các tín đồ của nhiều truyền thống tôn giáo khác. Vì vậy, các Kitô hữu Việt Nam vẫn tiếp tục được mời gọi làm cho đất nước mỗi ngày thêm phát triển, tràn đầy tình thương và sự sống của chính Thiên Chúa Nhập Thể.

     

    Mong sao ngôi nhà thờ luôn là hình ảnh đặc biệt và thánh thiêng in đậm trong ký ức tất cả mọi người!

     

    3. Vài thách đố liên quan đến việc xây nhà thờ phượng

    Gia đình tôi có nhiều người thân bên đạo Phật, họ hay tới chùa lễ Phật. Họ cho rằng, tới chùa dù là vãn cảnh hay du lịch cũng có chút thanh thản. Chiều sâu rộng nơi chùa chiền làm phát sinh những xúc cảm thanh cao, một tâm thức trong sáng và những niềm hạnh phúc sâu xa. Đó là lợi điểm của chùa khi được xây nơi thanh vắng.

     

    Làm sao nhà thờ ở giữa thị thành nhưng vẫn tĩnh lặng để cầu nguyện luôn được Giáo Hội quan tâm. Tiêu chí ấy, theo lý tưởng, phải là sự kết hợp hài hòa của nhiều yêu tố để con người có thể gần hơn với Thiên Chúa.

     

    Con người vẫn được Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi trở về tình trạng thánh thiện nguyên thủy. Cho nên, các nghệ sĩ, nhờ đức tin soi tỏ, nhờ trực giác và tình cảm, họ không ngừng tạo ra những nơi thích hợp cho sự thánh thiêng. Như vậy, một lần nữa, Thiên Chúa đặt con người vào nơi thiêng thánh. Do vậy, thánh đường cần được xây cất xứng hợp với việc chu toàn các hoạt động phụng vụ và giúp các tín hữu có thể tham dự một cách linh động.

     

    Vì nhà thờ là nơi đặc biệt diễn tả sự hiện diện của Chúa, cho nên phải có cấu trúc chắc chắn và được xây dựng trên “nền tảng vững bền”. Để rồi, nghệ thuật sẽ đưa người ta hướng lên Thiên Chúa, được diễn tả bằng câu nói bất hủ: “Ngài là vẻ đẹp vẫn cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ”.[3]

     

    4. Ý nghĩa và tầm quan trọng của thánh đường

    Nhà thờ là một biểu hiệu thánh giữa thành thị hay xóm làng, nơi tập họp của dân Chúa, nơi nghe Lời Chúa, nơi thờ kính Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể[4]. Vì điều này nên người Công Giáo lại thường lui tới với thánh đường. Họ đến để đọc kinh, dâng lễ, đồng thời có nhu cầu nói với Chúa khi gặp khủng hoảng, tìm lại niềm an ủi cho người còn sống khi có tang chế, niềm hy vọng phục sinh, chạy đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Lẽ dĩ nhiên ngoài thánh lễ, nhà thờ thường còn là nơi nhiều sự kiện được cử hành: nghi thức tạ ơn, cưới hỏi, rửa tội..

    .

    Đó là lý do tại sao nơi nào có Người Công Giáo, nơi ấy thường có nhà thờ, nhà nguyện. Giáo Hội là Mẹ luôn che chở, bảo vệ sự sống của con mình: trong chiến tranh, nhà thờ từng là nơi trú ẩn cho nhiều thế hệ… Mấy ngày dịch covid, không được tới nhà thờ, giáo dân nhớ và khao khát lắm...

     

    Tóm lại, cả nhà thờ và ngôi chùa được xây để giúp các tín hữu nguyện cầu. Đối với người Việt, nỗ lực chung sống hài hòa giữa Phật giáo và Công giáo luôn là khát mong của nhiều người. Do đó khi tiếp xúc với người theo Phật Giáo, ước mong bạn cũng có thể đối thoại chân thành trong nhiều lãnh vực.

     

    Xin chúc bạn có thể đi sâu vào cuộc đối thoại liên tôn và tìm được cái hay và nét đẹp trong Đạo!

     

    Phương An, CND

     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

 

CÓ ĐƯỢC CỬ HÀNH LỄ NGHI AN TÁNG CHO NGƯỜI TÂN TÒNG VÀ TRẺ EM CHẾT TRƯỚC KHI ĐƯỢC RỬA TỘI KHÔNG ?

Nhân chuyện có nơi giáo quyền địa phương đã không cho cử  hành lễ  an táng và không cho  chôn xác người tự tử trong nghĩa trang họ Đạo,  Cũng xin được nói thêm về trường hợp người dự tòng( catechumen)  đang học học giáo lý để được rửa tội , nhưng chẳng may đã chết trước khi được rửa tội. kể cả các em bé chết không được rủa tội thì  phải đối xử  ra sao ?

I-Trước hết về những người Dự tòng (catechumens) : họ là những người đang tìm hiểu đức tin và đang được học giáo lý để chuẩn bị nhận lãnh 3 bí tích quan trọng là rửa tội, thêm sức và Thánh Thể sau khi hoàn tất chương trình khai tâm nhập Đạo (RICA).

Như thế,  qua tiến trình này người tân tòng  đang  khao khát được gia nhập Giáo Hội qua ơn tái sinh của phép rửa.  Nghĩa là họ đã sẵn sàng để nhận lãnh bí tích khai tâm này để trở nên con cái của Thiên Chúa như giáo lý Giáo Hội dạy.

Nhưng chẳng may có ai trong số dự tòng này đã chết mà không kịp được rửa tội thì giáo lý của Giáo Hội dạy như sau:

    “Đối với người dự tòng chết khi chưa được rửa tội, thì lòng ao ước tỏ tường được rửa tội và sự sám hối tội lỗi cùng với đức ái  của họ  sẽ bảo đảm ơn cứu độ cho họ, ơn cứu độ mà họ không thể nhận lãnh nhờ bí tích Rửa tội” ( x. SGLGHCG số 1259)

Giáo lý trên cũng áp dụng cho những người chết vì đức tin nhưng chưa được rửa tội  thì  cũng  “ được coi là đã  được rửa tội do sự chết của họ vì Chúa Kitô và với Chúa Kitô. Phép rửa tội bằng máu này , cũng như  phép rửa tội bằng ao ước, tuy không là bí tích, nhưng cũng mang lại tất cả hoa trái của phép Rửa tội.” (Sđd số 1258)

Do đó, theo giáo luật số 1183, triệt 1 thì những người nói trên được đồng hóa với người Ki tô Hữu trong việc an táng. Có nghĩa là phải cử hành nghi thức an táng cho họ như  mọi tín hữu đã rửa tội và qua đời.

Sở dĩ phải đối xử với họ như vậy  là vì dù họ chưa  được rửa tội đúng theo nghi thức nhưng vì họ có lòng ao ước lãnh nhận bí tích này,  nhất là được chết vì đức tin thì dù chưa được rửa tội họ cũng được coi như mọi tín hữu đã được rửa tội, và do đó  Giáo Hội vẫn dành nghi thức an táng cho họ như  giáo luật nêu trên đã qui định.

II- Về các trể em chết mà không được rửa tội, giáo lý Giáo Hội cũng dạy như sau:

    “ Giáo Hội chỉ còn biết phó thác các em cho lượng từ bi của Thiên Chúa như Giáo Hội làm khi cử hành lễ  an táng cho các em.Thiên Chúa nhân từ vô cùng muốn tất cả mọi người được cứu độ.( 1Tm 2:4) và lòng âu yếm mà Chúa Giêsu đã dành cho các trẻ nhỏ khiến Người đã nói : “ Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.” ( Mc 10 :14).Tất cả những điều này cho phép chúng ta hy vọng có một con đường ơn cứu độ cho các trẻ em chết khi chưa được rửa tội.Nhân đây, Giáo Hội cũng khẩn thiết kêu gọi đừng cản trở cho  các em đến với Chúa Kitô qua hồng ân của Phép Rửa. ( x.SGLGHCG số 1261)

Dựa vào giáo lý trên đây, giáo luật số 1183, triệt 2 cũng khuyến cáo như sau:

   “Bản quyền sở tại ( Giáo quyền địa phương) có thể ban phép cử hành an táng theo nghi thức Giáo hội cho các trẻ em mà cha mẹ có ý rửa tội nhưng đã chết trước khi được rửa tội.”

Nghĩa là không ngăn cấm cử hành an táng cho các trẻ em chết mà chưa được rửa tội.

Cũng vì lợi ích thiêng liêng lớn lao của Phép Rửa mà giáo lý nêu trên đã ân cần nhắc nhở cha mẹ phải mau mắn lo cho các con cái mình được lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy ( rửa tôi) càng sớm càng tốt. Đặc biệt trong trường họp nguy tử, không tìm  được linh mục hay phó tế thì cha mẹ có bổn phận rửa tội cho con mình trong cơn nguy tử đó với công thức Chúa Ba Ngôi và dùng nước đổ trên đầu hay trán của trẻ em.

Tóm lại, dù người dự tòng hay trẻ  em chết trước khi được rủa tội thì Giáo Hội vẫn dạy phải dành cho họ nghi thức an táng như mọi giáo hữu khác.Nghĩa là không thể phán đoán gì về số phận đời đời của họ, nên chỉ biết phó thác họ cho lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành mà thôi.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 -----------------------------------------------