24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - ĐIỀU RĂN THỨ 10

 

  •  
    nguyenthi leyen 
     
    Wed, May 19 at 2:30 AM
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    ĐIỀU RĂN CHÚA DẠY
     
    Điều răn thứ 10  KHÔNG THAM LAM CỦA NGƯỜI

     

     I. LỜI CHÚA

    "Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò, con lừa, hay bất cứ vật gù của người ta" (Xh 20,17) .

    II. GHI NHỚ
    1. H. Điều răn thứ mười dạy ta những gì?

    T. Điều răn thứ mười dạy ta giữ lòng khỏi ham mê của cải quá đáng, để không tham lam và không ganh tị với người khác.

    2. H. Sự tham lam làm hại ta thế nào?
    T. Sự tham lam khiến lòng trí ra mù tối, rối loạn, phán đoán lệch lạc, phai lạt tình yêu mến và dễ sa ngã phạm tội.

    3. H. Ta phải làm gì để không tham lam của cải?

    T. Ta cần tập sống tinh thần nghèo khó, hằng ngày biết hy sinh từ bỏ, lo tìm kiếm Nước Trời, và luôn hướng lòng về Thiên Chúa.

    4. H. Ta phải làm gì để khỏi tính ganh tị?
    T. Ta cầu xin Chúa ban phúc lành cho người khác và vui mừng khi họ được may mắn.

    III. THỰC HÀNH   Em vui chúc mừng khi thấy người khác được may mắn.

    IV. CẦU NGUYỆN

    Xin cho mọi người biết sống quảng đại chia sẻ, không tham lam và ganh tị, nhưng biết vui mừng khi thấy người khác được may mắn.
    GPVINHLONG . 

     

     

     
     

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - ĐIỀU RĂN THỨ BA

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Sun, May 9 at 2:43 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     
    ĐIÈU RĂN CHÚA DẠY 

     

    Điều Răn Thứ Ba: „Giữ ngày Chúa Nhật“
    Điều Răn Thứ Ba dạy con người phải thánh hóa ngày Chúa Nhật, ngày Chúa Giêsu đã sống lại từ trong kẻ chết. Vì thế, ngày Chúa Nhật được đặc biệt dành riêng để tôn thờ, cảm tạ, vinh danh Thiên Chúa và đồng thời để thực thi các nghĩa cử, các việc từ thiện bác ái đối với mọi anh chị em đồng loại, như thăm viếng, an ủi những người đau ốm bệnh tật và hết lòng giúp đỡ các cô nhi quả phụ, các người nghèo khổ bất hạnh.
    Nguyên thủy, theo Cựu Ước, Điều Răn Thứ Ba buộc phải tuân giữ Ngày Sabbatô, tức ngày Thứ Bảy, ngày Thiên Chúa nghỉ ngơi sau sáu ngày tạo dựng vũ trụ và mọi loài thọ tạo, trong đó gồm có con người và các loài thảo-, động vật.
    Điều Răn Thứ Ba không chỉ dạy con người phải thánh hóa ngày Chúa Nhật, nhưng còn phải thánh hóa các ngày Lễ Buộc khác nữa qua việc sốt sắng tham dự Thánh Lễ, các Giờ Chầu Thánh Thể, kiêng việc xác và làm các nghĩa cử như đã nói trên trong ngày Chúa Nhật.
    Đặc biệt, để việc tham dự các Thánh Lễ nói chung và Thánh Lễ ngày Chúa Nhật nói riêng một cách đầy đủ và đúng đắn, cũng như có hiệu quả, tức mang lại ơn ích thiêng liêng cho người tham dự, thì đương sự phải hoàn toàn tự nguyện tham dự trọn vẹn từ đầu đến cuối Thánh Lễ, nhất là tham dự vì do xác tín, vì tin yêu và vì lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, chứ không do miễn cưỡng, do ép buộc hay vì một lý do ngoại tại nào khác.
    Tiếp đến, người ta nhất thiết cần phải nhận thức và xác tín rõ ràng chân lý thần học này là việc tham dự Thánh Lễ hay việc tôn thờ và ca tụng Thiên Chúa là hoàn toàn vì con người, chứ tuyệt đối không vì Thiên Chúa; hay nói đúng hơn, thực chất của việc thờ phượng Thiên Chúa là cả một hồng ân chính Thiên Chúa dành cho con người – một thụ tạo hư hèn, yếu đuối và bất toàn lại được phép đến gần bàn thờ Đấng Tối Cao để ca tụng Người và để được Người chúc phúc cho – và đồng thời là một bổn phận đương nhiên của một thụ tạo phải chu toàn đối với Đấng Tạo Hóa toàn năng, chứ việc thờ phượng của con người tuyệt đối không mang lại hay làm tăng thêm bất cứ một mảy may vinh quang nào cho Thiên Chúa, vì Người là Đấng Chân Thiện Mỹ tuyệt đối. Thiên Chúa chỉ cho đi, chứ Người không bao giờ nhận lãnh bất cứ điều gì và bất cứ từ đâu.
    Vì thế, trong trường hợp có lý do quan trọng bất khả kháng như đau ốm bệnh tật hay một ngăn trở chính đáng nào đó, không thể đi dự Lễ ngày Chúa Nhật được, thì bó buộc phải đọc kinh bù lại, chứ vì lười biếng hay khinh thường mà bỏ việc tham dự Lễ Chúa Nhật và các Lễ Buộc thì mang tội trọng trước mặt Chúa. Trong điểm này, có nhiều người do lây nhiễm môi trường sống duy vật chất, phản Kitô giáo hay chỉ giao du thân thiện với những người vô đạo, vô tín ngưỡng, v.v… nên đã dần dần đánh mất đi lòng hâm mộ đời sống tâm linh cũng như các việc thờ phượng và đạo đức khác nói chung và việc tham dự các Thánh Lễ nói riêng. Vì thấy những người khác sống bên cạnh không có tôn giáo, không sống đạo hay không đi nhà thờ, nên dần dà mình cũng trở nên khô khan nguội lạnh, thôi không muốn đi nhà thờ nữa và không muốn sống đạo nữa. Và nếu tình trạng kiểu „đạo theo“ như thế cứ tiếp tục kéo dài từ năm này qua năm khác, thì cuối cùng lương tâm của đương sự cũng trở nên chai lì, không còn đủ khả năng phản ứng được nữa. Nếu thế, việc bỏ đạo là hậu quả tất yếu, không thể tránh được. Thật quả đúng: „Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng“. Vì thế, phần rỗi của những người sống trong tình trạng như thế đang đứng trước một đe dọa vô cùng nguy hiểm.
    Đàng khác, kiểu „đạo theo“ như thế tố cáo một tình trạng tiêu cực nguy hiểm, đó là sự ấu trĩ, sự thiếu trưởng thành trong đời sống đạo, đức tin chưa thực sự đâm rễ sâu trong tâm hồn, đương sự chưa có sự xác tín cá nhân chắc chắn, vì thế chỉ biết làm theo người khác: thấy người ta đi nhà thờ đọc kinh cầu nguyện, mình cũng đi theo và làm theo, còn khi thấy không có ai đi nhà thờ, mình cũng bỏ luôn, đó là chưa nói đến những khi họ phải đối mặt với những thử thách và bắt bớ đạo. Ở đây người ta cũng có thể áp dụng lời Chúa nói: „Họ chỉ là những người chăn chiên thuê, (…) nên khi thấy sói dữ tới thì bỏ đàn chiên mà chạy“ (Ga 10,12-13). Trong khi đó, người tín hữu chân chính, trung kiên và trưởng thành, thì sống đạo không vì người này hay người nọ, nhưng vì lòng xác tín vững vàng vào Thiên Chúa, vì họ thành tâm kính sợ và mến yêu Người trên hết mọi sự, kể cả khi vì đức tin mà phải hứng chịu những thua thiệt này nọ cho bản thân và cho gia đình. Những tín hữu như thế đã hiểu rõ và sống theo lời kinh chí lý của thánh Phan-xi-cô Năm Dấu: „Chính khi quên mình là lúc gặp lại bản thân“ và „chính khi chết đi là lúc vui sống muôn đời“.
    Vâng, những Kitô hữu như thế chắc chắn sẽ khám phá được ý nghĩa đời mình và nhất là chắc chắn sẽ tìm gặp được hạnh phúc tối hậu của mình nơi Chúa và trong Chúa. R
     
    LM PHANXICO XAVIER NGÔ TÔN HUẤN
     

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Wed, May 5 at 11:29 PM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    10 ĐIỀU RĂN CHÚA DẠY 
    LM Ngô Tôn Huấn
     
    Điều Răn Thứ Nhất : "Thờ phượng và Kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự"
    Hỏi:
    Mừng đầu năm mới, xin cha cho biết người Công giáo có được phép tin 12 Con Vật làm chủ vận mạng con người và vũ trụ như huyền thoại Đông phương tin tuởng không ?
    Trả lời:
    Chắc chắn là không được phép tin, vì trái với Điều răn thứ nhất dạy ta phải
    Tin kính một Thiên Chúa
    là Đấng dựng nên muôn loài muôn vật như Chúa Giêsu đã trả lời cho tên qủy đến cám dỗ Chúa trong hoang địa khi xưa: “ ngươi phải bái lậy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và thờ phượng một mình Người mà thôi” (x. Mt 4,10).
    Đây cũng chính là mệnh lệnh củaThiên Chúa truyền cho dân Do Thái qua trung gian ông Mai- Sen : “ Nghe đây hởi Ít-ra-en ! ĐỨC CHÚA,Thiên Chúa của chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất” (Deut 6,4)
    Như thế, mọi việc tin và tôn kính bất cứ một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa ra đều nghịch với Điều Răn Thứ Nhất của Bản Thập Giới (Decalogue). Cụ thể , trái với Điều Răn này là những thực hành nguy haị sau đây:
    1- thuyết đa thần (polytheism)= thần tài,thần bếp, thần hỏa, thần mưa, thần gió..v,v
    2- tục mê tín dị đoan (superstitions) như kiêng con số 13, tin số 9.v.v
    3- thờ ngẫu tượng (idolatry) tức là tôn thờ những gì không phải là Thiên Chúa như thờ ma qủy, thờ tiền của ,khoái lạc, quyền thế, danh vọng …
    4- hoặc thờ một con vật (the Beast) mà nhiều Thánh Tử Đạo đã thà chết chứ không chịu thờ lậy “Con vật” nào.
    (x. Sách Giáo Lý Công Giáo ,số 2113-2114).
    Cũng nghịch vớí Điều Răn thứ nhất là các tin tuởng đặt vào khoa bói toán (divination) và ma thụât (magic) như gọi hồn người chết, tra cứu tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, bói quẻ, xin sâm, đồng cốt ,phù thủy…Khi đặt tin tưởng vào những việc này, ngươì ta đã gạt bỏ Thiên Chúa là Đấng duy nhất cầm quyền sinh tử cuả con người và vạn vật trong vũ trụ này.( x. Sđd. số 2115-2117)
    Ngoài ra, cũng đuợc xem là nghịch vơí Điều răn thứ nhất những ai theo thuyết vô thần (atheism) hoặc vô tôn giáo (irreligion).
    Thuyết vô thần đuợc xem là nguy haị cho đức tin Công giáo hơn cả vì thuyết này xoá bỏ hay phủ nhận mọi suy tư đưa đến nhìn nhận có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người “linh ư vạn vật”cũng như toàn thể vũ trụ hữu hình và vô hình. Thuyết này cũng chối bỏ mọi tin tưởng đặt vào bất cứ thần linh nào ngoài con người và thế giới vật chất hữu hình này.
    Sau hết ,nghịch với Điều răn thứ nhất của Chúa còn phải kể đến tôi gọi là “vô tôn giáo (irreligion) thể hiện qua ba hình thức sau đây :
    a- Thử thách Chúa bằng lời nói hay hành động. Đây là tội của tên qủy đã thách Chúa Giêsu trong hoang địa hãy “giao mình xuống đất” từ trên nóc Đền Thờ. (x Lc 4,9)
    b- Phạm thánh (sacrilege): xúc phạm đến Thánh Thể, như quăng Mình Thánh xuống đất, đổ Máu Thánh còn dư sau Rước Lễ vào bồn rửa tay,nhất là đem Thánh Thể về nhà cho ai dùng để làm việc phù phép nào đó. Cũng được kể là phạm thánh khi có thái độ hoặc hành vi khinh thường các bí tích và á bí tích (Ảnh Tượng Chúa, Đức Mẹ và các Thánh, tràng hạt,sách kinh...) và có hành vi ô uế nơi thờ phượng như Nhà Thờ ,Nhà Nguyện.
    c- Tội maị thánh (còn gọi là buôn thần bán thánh=simonia); như đòi tiền để ban một bí tích, để dâng Lễ hay cầu nguyện cho ai... Đòi tiền ở đây khác với bổng Lễ (mass stipend) mà Giáo luật cho phép thu theo mức mà Giáo Quyền địa phương ấn định. Thí dụ ở các Giáo Xứ Mỹ, bổng lễ là 5 đôla cho mỗi ý Lễ. Linh mục không được phép đòi bổng Lễ cao hơn mức qui định và không được gây cho giáo dân lầm tưởng rằng dâng nhiều tiền thì được lợi ích thiêng liêng nhiều hơn là ít tiền hay không có bổng lễ. Nếu linh mục nào làm với ý này hoặc giáo dân nào muốn dùng tiền của để mua ơn thánh Chúa thì đều mắc tội maị thánh. (x. Sđd. Số 2111-2123)
    Đó là tóm luợc những tội nghịch với nhân đức thờ phượng dựa trên Điều răn Thứ Nhất trong Mười Điều Răn của Chúa mà quí tín hữu cần biết để tránh.
     
     

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, May 7 at 2:24 AM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     
     
    ĐIỀU RĂN CHÚA DẠY
    Điều Răn Thứ Hai: „Chớ kêu Tên Đức Chúa Trời vô cớ“
    Điều Răn Thứ Hai này dạy con người phải kính sợ thánh danh Thiên Chúa. Không bao giờ được phép lấy thánh danh Thiên Chúa ra để thề hứa bừa bãi, để chửi bới và ăn nói thô tục với nhau hay sử dụng thánh danh Thiên Chúa một cách bất kính. Còn khi có lý do quan trọng đòi phải lấy thánh danh Thiên Chúa để thề hứa một cách kính cẩn và nghiêm chỉnh, thì đương sự bó buộc phải giữ trọn lời thề hứa ấy. Nhưng theo lời Chúa Giêsu dạy thì cần phải ăn ở thật thà, „có thì phải nói có, không thì phải nói không“, chứ không nên thề hứa một cách tùy tiện, động chuyện gì cũng thề (x. Mt 5,33-37).
    Đúng thế, con người phải tôn kính thánh danh Thiên Chúa, chứ đừng bao giờ mang danh Thiên Chúa ra thề hứa một cách vô ý thức, vì danh Thiên Chúa là chính Thiên Chúa vậy: „Ta là Đấng Hiện Hữu, Ta là Ta“ (Xh 3,14), chứ không phải như nơi trường hợp của người phàm: „Tên“ của mỗi người chỉ thuần túy được coi như một „số ký danh“, được sử dụng để gọi và để phân biệt người ấy với các người khác mà thôi. Vì thế, nhiều khi trên thực tế „tên“ và „người“ hoàn toàn khác nhau: tên thì rất đẹp mà người lại xấu, tên thì kêu rất hay mà người lại mang nhiều khiếm khuyết.
    Bởi vậy, khi chúng ta hằng ngày cầu nguyện: „Chúng con nguyện danh Cha cả sáng“, thì có nghĩa là chúng con ước mong nguyện cầu cho chính Cha được cả sáng, cho chính Cha được vinh hiển nơi mọi người và trong mọi nơi. Nhất là trong mỗi giờ kinh nguyện, Giáo Hội và tất cả mọi người tín hữu Công Giáo đều bắt đầu giơ tay làm Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi: „Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen“.

    Những hành động hay việc làm sau đây được coi là xúc phạm đến Thánh Danh Chúa :

    1-  Trước hết là phải có can đảm xưng danh Chúa trước mặt người đời và nhất là trước những kẻ muốn bách hại đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa, vào Chúa Kitô,  Đấng đã đến trong trần gian làm Con Người để “cứu chuộc muôn người”. Nghĩa là nếu không dám xưng mình là người tin có Thiên Chúa thì cũng được coi là chối Chúa và xúc phạm đến Danh Thánh của Người trước mặt người khác. Khi được rửa tội, chúng ta được rửa “nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28: 19) Do đó,  người tín hữu Chúa Kitô chân chính mang danh Chúa Ba Ngôi, không thể nói ba phải là “Lậy Chúa, lậy Phật, lậy Đấng Mohammed”… để muốn làm vui lòng người khác tín ngưỡng với mình. Ta tôn trọng niềm tin của họ, nhưng phải có can đảm và hãnh diện tuyên xưng Thiên Chúa là Cha duy nhất của mình trong mọi hoàn cảnh.

    2-   Nếu nhân danh Chúa để thề hứa với ai điều gì thì phải tôn trọng và thi hành lời hứa đó vì đã lấy Danh Chúa mà hứa với họ. Nếu không tôn trọng lời  hứa vì Danh Chúa thì đã coi Chúa là Người nói dối như Thánh Gioan đã dạy như sau:

               “Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội thì chúng ta coi Người (Thiên Chúa) là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta.” (1 Ga 1 :10

    3-  Nói phạm thánh (blasphemylà trực tiếp phạm điều răn thứ hai. Tội phạm thánh bao gồm những tư tưởng và lời nói xúc phạm đến Danh Thánh Chúa như những lời giận dữ, oán trách Chúa – hoặc ghê gớm hơn nữa - là nguyền rủa Thiên Chúa chỉ vì một bất mãn, hay tai họa chẳng may gặp phải, khiến mất niềm tin và kính trọng đối với Chúa, như thánh Giacôbê Tông Đồ đã nói như sau: “Chẳng phải họ nói xúc phạm đến Danh Thánh cao đẹp mà anh  em được mang đó  sao?” (Gc 2: 7)

    Đó là những kẻ mang danh Chúa, tự nhận mình là người có Đạo của Chúa Kitô nhưng lại làm hoặc  tham gia vào những việc tỗi lỗi như ức hiếp, bóc lột, tra tấn người khác, buôn bán dâm ô, cần sa  ma túy, làm chứng gian cho người khác thay vợ đổi chồng, lường gạt trộm cướp Người  Kitô-hữu Công giáo mà làm những việc vô luân vô đạo này thì chắc chắn sẽ khiến cho người khác thù hận tôn giáo của mình và căm thù cả Đấng mà mình mang Danh Thánh là Chúa Kitô. Đây là tội phạm thánh rất nghiêm trọng phải tránh cho được xứng đáng là người tin yêu Chúa Kitô sống giữa những người không chia sẻ cùng niềm tin với mình, giữa những kẻ gian ác vì không có niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, công bình và đầy yêu thương.

    Cũng được kể là tội phạm thánh khi nói hay có hành động xúc phạm đến Đức Mẹ và các thánh, như quăng ảnh tượng Đức Mẹ và thánh nam nữ  nào vào thùng rác hay lấy chân đạp lên các thánh tượng đó. Đặc biệt  ai  lấy Mình Thánh Chúa đem về nhà để làm chuyện mê tín nào đó thì cũng là hành động phạm thánh nghiêm trọng.

    4-  Tội bội thệ (perjurylà tội xúc phạm đến Thanh Danh Chúa vì cố ý tuyên thệ để làm chứng một việc gian dối hay phủ nhận một lỗi nặng của chính mình trước luật pháp xã hội. Bội thệ cũng cố ý  hứa với ai điều gì nhưng cố ý không thi hành lời đã thề  hứa nhân danh Chúa.Do đó, người “bội thệ” không những có lỗi nặng đối với luật pháp xã hội, mà còn lỗi phạm đến Thiên Chúa là Đấng công bình và  chân thật tuyệt đối nữa .

    Chúa Giêsu đã ngăn cấm việc bội thệ như sau: “Anh  em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: chớ bội thệ, nhưng hãy giữ trọn lời thề với Thiên Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh  em biết: đừng thề chi cả... Hễ có thì nói “có”, không thì phải nói “không”.Thêm thắt điều gì, là do ác quỷ.” (Mt 5 : 33,37)

    Như thế, đủ cho thấy  bội thệ là một tội trọng đối với người tín hữu Chúa Kitô vì đã lạm dụng Thánh  danh Chúa để làm chứng cho việc gian dối, lỗi đức công bằng và bảo vệ chân lý mà mình phải tuân giữ để xứng đáng là người mang Thánh Danh Chúa như Thánh Chúa Kitô   đã dạy

            5-  Thề gian (false oathscũng là một hình thức bội thệ vì đã cố ý che dấu sự thật về việc mình hay kẻ khác đã làm để mong tránh hình phạt của xã hội. Người tín hữu Chúa Kitô, khi giơ tay thề gian với ai, đã mang Thánh Danh Chúa ra làm chứng cho sự gian dối, hay tội đã phạm, cho nên đã xúc phạm đến Thánh Danh Chúa cách nghiêm trọng. Nhưng ngược lại, nếu lấy Danh Chúa mà thề để bênh vực cho sự thật, sự ngay chính của mình trước kẻ tố cáo gian vì tư lợi, tư thù  thì đã nhân danh Chúa để bênh vực cho sự thật và lẽ phải, nên không có lỗi gì liên quan đến Điều răn thứ hai, cấm kêu tên Chúa vô cớ.

    Nói khác đi, lời thề  chính đáng là sự kêu cầu danh Chúa để làm chứng cho sự thật. Nghĩa là chỉ được thề khi phải bênh vực cho lẽ phải và sự công chính mà mình muốn nhằm tới qua lời  thề mà thôi.

    Tóm lại, Danh Chúa là thánh. Danh Đức Mẹ và các Thánh cũng là thánh. Danh xưng là tín hữu Chúa Kitô, kể cả tên Thánh bổn mạng lãnh nhận khi được rủa tội cũng là thánh.

    Do đó, khi xử dụng Danh Thánh của Chúa hay của Đức Mẹ và các Thánh, kể cả danh xưng mình là tín hữu Chúa Kitô, vào những mục đích bất xứng như đã kể trên đây thì đều lỗi phạm điều răn thứ hai cấm dùng Danh Thánh cách bất xứng.

    Ước mong giải đáp này thỏa mãn câu hỏi được đặt ra.

                                                                             Linh mục Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn

     

     

 

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO -

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Tue, May 4 at 12:58 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     

    GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

    NHẬN ĐỊNH ƠN GỌI CHO CUỘC ĐỜI



     

    Câu hỏi: 

    Con không biết rõ ràng Chúa muốn con lập gia đình hay đi tu. Làm thế nào để nhận định ơn gọi cho bản thân con ạ?

    Trả lời:

    Ơn gọi của một người thì chỉ có người đó mới nhận ra được. Đó là chuyện của người đó với Chúa. Ngoài người đó ra, không ai có thể chắc chắn 100% là người đó có ơn gọi này hay ơn gọi kia. Điều này càng đúng hơn với ơn gọi dâng hiến, vì dù phải đáp ứng những điều kiện ban đầu để được nhận vào chủng viện hay dòng tu nào đó, chẳng ai có thể khẳng định chắc nịch là một người nào đó có được mời gọi sống đời tu hay không, và trong môi trường tu, họ phù hợp với linh đạo nào. Chủng viện, dòng tu, bề trên... chỉ có thể căn cứ vào dấu hiệu người đó tỏ ra để lượng định về ơn gọi của người đó trong khả năng có thể, chứ không phải là phán quyết cho sự tồn tại của ơn gọi dâng hiến. Thật vậy, mọi ơn gọi đều đến từ Chúa, chứ không phải từ người phàm, và nhiệm vụ của mình là cố gắng khám phá ra tiếng nói của Chúa vẫn nhẹ nhàng vang lên trong lòng mình.

     

    Dưới đây, trước hết, chúng tôi xin chia sẻ một vài dấu chỉ để bạn có thể cảm nghiệm về tiếng gọi của Chúa. Sau đó, chúng tôi sẽ đề cập đến phương pháp giúp nhận định ơn gọi.

     

    Một vài dấu chỉ

    Bạn hãy nghĩ đến những vinh hoa phú quý trên trời. Con người mỏi mệt một đời chỉ để đi tìm của cải, giàu sang. Cố gắng lưu trữ thật nhiều châu báu, nỗ lực đánh bóng mình để được nhiều người quan tâm. Nhưng rồi thì sao? Họ có được như thế mãi không? Họ tưởng mình là tâm điểm của vũ trụ, nhưng sẽ đến thời chẳng còn ai biết đến họ, chẳng còn nhớ đến tên họ, thậm chí chẳng còn biết là họ đã từng hiện hữu trên thế gian. Tình người bạc bẽo, tình đời mong manh. Có đó rồi mất đó. Chẳng có chi vững bền. Bạn có cảm nghiệm như thế không? Bạn có được thôi thúc đi kiếm một cái gì đó cao hơn, ý nghĩa hơn, bền vững hơn không? Những giá trị bền vững ấy là “cho đi mà không tính toán, biết làm việc không tìm nghỉ ngơi” hay “tìm yêu mến người hơn được người yêu mến, tìm an ủi người hơn được người ủi an”. Bạn có thích như vậy không?

     

    Bạn hãy nghĩ đến những ơn lành lớn lao mà mình đã nhận được từ bé đến giờ. Gia đình ấm êm, được bố mẹ và anh chị em thương yêu. Bạn có được những điều kiện học hành để mở mang kiến thức. Bạn được Chúa gửi đến biết bao con người giúp bạn ngày càng thăng tiến hơn trong đời sống. Từng bước được bạn đi, dường như luôn có ai đó đưa dẫn. Nhưng rồi bạn cũng phát hiện ra là trên đời này có rất nhiều người không được may mắn như bạn. Bạn có cảm thấy là những gì mình được thụ hưởng bấy lâu nay, hệt như một sự chuẩn bị của Chúa để bạn cống hiến cho đời, để bù đắp những khiếm khuyết của cuộc sống không?

     

    Bạn hãy nghĩ đến gương sống tốt đẹp của các vị tu sĩ thánh thiện. Suốt một cuộc đời âm thầm hy sinh, chẳng màng chi đến danh lợi. Họ nghèo nhưng vui, vì họ cho rằng mình đã có tất cả. Họ sống một mình nhưng không cô đơn, vì họ tin là bên mình luôn có Chúa. Họ bình an với đời sống phục vụ và chẳng bao giờ nóng giận, chửi bới ai. Dòng đời có xoay tới xoay lui với biết bao tranh giành, thủ đắc, họ vẫn bình tâm với nụ cười thánh thiện trên môi. Các bạn có thấy một đời sống như thế thu hút mình không?

     

    Bạn hãy để lòng lắng xuống, và cố gắng nhận ra từng dòng cảm xúc đang tuôn chảy trong người. Khi nghĩ đến những điều này, bạn có thấy bình an không, có thích mình hợp không, có thấy cái gì đó sôi sục trong người và muốn mình dấn bước không? Cảm giác hứng khởi ấy kéo dài lâu trong bạn, hay chỉ là một thoáng chốc rồi thôi. Nếu nó cứ luôn thôi thúc bạn, đó chính là dấu hiệu cho thấy bạn đang được mời gọi để sống đời dâng hiến.

     

    Phương pháp nhận định ơn gọi

    Phương pháp này được thánh I-nhã ghi lại trong tập sách Linh Thao (LT) của mình. Nó là những bước chỉ dẫn giúp ta đi vào trong nội tâm của mình, lắng đọng để nghe được những chuyển động mà Chúa gửi đến, nhờ đó có thể nhận ra được điều Chúa muốn mình làm.

     

    Thánh I-nhã đề cập đến ba “thì” chọn lựa. “Thì” thứ nhất là “khi Thiên Chúa đánh động và lôi kéo ý muốn rõ ràng đến nỗi không hồ nghi và không thể hồ nghi, khiến linh hồn công chính tuân theo điều đã được tỏ lộ…” (LT số 175). “Thì” thứ hai là “khi nhận được đủ ánh sáng và sự hiểu biết bởi kinh nghiệm về những an ủi và sầu khổ thiêng liêng, cũng như bởi kinh nghiệm nhận định thần loại” (LT số 176). “Thì” thứ ba là “khi bình tâm, suy xét con người sinh ra để làm gì, ấy là để ngợi khen Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn mình…” (LT số 177). Vì “thì thứ nhất” khá rõ ràng, không cần nhận định, còn “thì thứ hai” khá phức tạp, nên sau đây, chúng tôi xin trình bày “thì thứ ba”, cùng các bước để thực hiện.

     

    Trước hết, bạn phải ý thức rằng đây là một giờ cầu nguyện. Cầu nguyện ở đây không phải là đọc kinh. Cầu nguyện trước hết là một thái độ tĩnh lặng của tâm hồn, đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, của Đấng Tối Cao. Bởi thế, trước khi làm chọn lựa, hãy ngồi xuống, để tâm tĩnh lại, hệt như một mặt hồ phẳng lặng không một gợn sóng. Đừng để những xao động tác động đến. Đừng để cảm xúc thích thú, vui – buồn, chán, hăm hở... chi phối mình. Cũng đừng để người nào ảnh hưởng đến mình (đừng sợ sẽ làm ai buồn, ai vui), đừng cố gắng chọn lựa điều gì đấy chỉ vì muốn làm hài lòng ai đó. Hãy giữ tâm trạng của mình ở vị trí thật quân bình, không lệch sang bên nào cả. Hãy gạt đi luôn cả chọn lựa mà bạn đã có trong đầu rồi. Làm sao để tâm trí mình hoàn toàn trống rỗng.

     

    Ngồi trong tư thế thoải mái, không suy nghĩ, không cảm xúc, nhắm mắt lại, nghe từng âm thanh nhỏ chung quanh. Tận sâu trong lòng, bạn chỉ còn một lòng khao khát là làm sao để danh Chúa được hiển vinh, chứ không mong chờ hay tìm kiếm điều gì cả. Hãy để lòng mình hoàn toàn thanh thoát, không mong chờ điều chi, ngoài việc chỉ mong biết được ý Chúa để có thể thực thi ý ấy mà thôi. Đây là điều rất quan trọng, vì nếu bạn đã mặc định cho mình một kế hoạch rồi thì bạn sẽ tự khắc đóng kín trước tiếng nói của Chúa.

     

    Khi tâm hồn đã hoàn toàn thanh tịnh rồi và lòng bạn chỉ còn khao khát muốn biết ý Chúa, bạn hãy đặt các chọn lựa ra trước mắt. Nhìn thẳng vào từng chọn lựa, rồi vạch ra mặt thuận lợi và khó khăn của nó, dựa trên những gì bạn biết hay đã tham khảo ý kiến của những người có hiểu biết về vấn đề này. Đặt ra câu hỏi, “nếu tôi chọn phương án A thì tôi sẽ được điều gì và mất điều gì.” Ghi ra giấy, càng tường tận càng tốt. Cũng tương tự như thế cho các phương án B, C ... khác. Ghi với một thái độ bình tâm chứ không phải với thái độ yêu ghét, vì nếu để cảm xúc chi phối, bạn đã đi lệch đường rồi.

     

    Sau khi đã hoàn thành việc suy xét từng chọn lựa, hãy đọc lại những gì mình đã viết một cách cẩn thận và suy xét xem, khi đối diện với cái nào thì mình thấy bình an, thấy “hợp lý” hơn, thấy mình sẽ được triển nở hơn trong đời sống của mình. Lưu ý là ở đây, chúng ta không đếm số lượng những thiệt hơn mình ghi ra để chọn lựa. Số lượng nhiều hay ít không quan trọng. Quan trọng là thấy chọn lựa nào mình “nên” có để giúp ích cho mình hơn trên con đường trở thành một người tốt và có ích. Nếu bạn làm với một thái độ bình tâm và thành khẩn, chắc chắn bạn sẽ thấy mình được nghiêng chiều hơn về một phía và nhận ra những vấn đề nếu mình chọn phía kia.

     

    Bạn lại đặt mình trước Chúa, suy xét lại lần nữa chọn lựa mình đã chọn để tìm sự xác nhận từ Chúa. Nếu lòng bạn cảm thấy một sự bình an sâu thẳm thì có nghĩa là chọn lựa này là đúng. Nếu không thì bạn sẽ cảm thấy ngược lại.

     

    Thánh I-nhã cũng nói đến một vài cách khác giúp cho việc chọn lựa. Dĩ nhiên là cũng với những điều kiện vừa nói ở trên.

     

    Thứ nhất, bạn hãy tưởng tượng là có một người mà bạn rất yêu mến tìm đến với bạn. Bạn luôn mong muốn điều tốt nhất cho người này. Người này trình bày vấn đề hệt như những gì bạn ghi ra giấy. Bạn xem xét thật kỹ rồi cho người này lời khuyên. Bạn khuyên người này thế nào thì hãy làm theo như vậy.

     

    Cách thứ hai, bạn hãy tưởng tượng có một người mà bạn không hề quen biết tìm đến với bạn. Người này tin tưởng bạn nên chia sẻ với bạn những vấn đề để xin bạn lời khuyên. Một cách khách quan và không bị chi phối điều gì cả, bạn khuyên người này thế nào thì hãy làm theo như vậy.

     

    Cách thứ ba, bạn hãy tưởng tượng là mình đang đứng trước giờ chết hoặc trước Toà Chúa để chịu phán xét về những gì mình làm khi còn sống. Giả như cho bạn khoẻ lại hoặc sống lại để làm lại chọn lựa, bạn sẽ chọn điều gì. Hay nói cách khác, trong những chọn lựa của bạn, chọn lựa nào làm lòng bạn, lương tâm bạn cảm thấy thanh thản nhất đến độ bạn sẽ không bao giờ hối hận về nó, thì đó là chọn lựa theo ý Chúa.

     

    Những bước trên đây có thể được áp dụng cho những chọn lựa khác trong cuộc sống, và chúng chỉ là phương pháp. Có một số người cảm thấy rất dễ để thực hiện nhưng cũng có không ít người cảm thấy có chút khó khăn. Tất cả đều đòi hỏi bạn phải có một thái độ bình tâm và cầu nguyện. Có đôi khi nó cũng cần thời gian và cần làm tới làm lui nhiều lần để xác thực. Đôi khi phải cần một bầu khí tĩnh tâm và có người đồng hành để giúp đỡ mình.

     

    Ngoài ra, bạn cũng cần  lưu ý rằng có ơn gọi dâng hiến là một chuyện, bạn có gìn giữ đó và làm cho nó triển nở hay không lại là chuyện khác, bởi lẽ cũng có thể xảy ra trường hợp: người ta vô tình hoặc cố ý đánh mất đi viên ngọc quý đã được Chúa ưu ái tặng ban. Chúc bạn luôn tràn đầy Thánh Thần và sớm tìm ra con đường mà Chúa muốn bạn đi để làm vinh danh Chúa.

     

    (Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)

    WHĐ (03.05.2021) 

    (Tác giả gửi bài cộng tác đến Ban biên tập Website Hội đồng Giám mục Việt Nam tại địa chỉ email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.)