24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO -LM NGÔ TÔN HUẤN

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Sun, Mar 7 at 12:52 AM
     
     
    HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO
     
     
    Ảnh cùng dòng


     
    TẠI SAO PHẢI TRÁNH LÀM GƯƠNG XẤU, DỊP TỘI?

     

    Hỏi:  Xin Cha giải thích rõ việc sản suất, buôn bán ma túy và sách báo, phim ảnh  đồi trụy, và cờ bạc, cá độ  và boxing... có tội không ?

     Trả lời :

    Gương mù gương xấu (scandals) hay dịp tội  là cạm bẫy khiến cho người ta vấp ngã trong

    đường ngay chính, lương thiện và đạo đức.Cụ thể, gương xấu là  những việc gây nguy hại cho sự phát triền lành mạnh về tinh thần của trẻ em nói riêng và phần rỗi của con người nói chung.

    Thế giới ngày nay đang sống trong văn hóa của sự chết, đối nghịch hoàn toàn với Phúc Âm sự Sống mà Chúa Kitô đã rao giảng và trả giá bằng cái chết của Người trên thập giá năm xưa.

    Qua hơn 2000 năm Phúc Âm sự Sống, hay Tin Mừng Cứu Độ  được rao giảng cho mọi dân tộc, mọi quốc gia trên khắp thế giới, nhưng cho đến nay số người biết và tin Chúa Kitô mới chỉ đạt được 1/6 dân số thế giới, tức là có khoảng  1 tỷ người đã được nghe Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô và tin yêu Người  trong khi  còn hơn 5 tỷ người khác chưa nhận biết Chúa và được nghe Sứ Điệp Cứu Rỗi

    (Message of Salvation) của Chúa  vì nhiều lý do.

    Vì thế, đây là mối quan tâm lớn nhất của Giáo Hội với sứ mệnh loan báo Tin Mừng Cứu Độ của

    Chúa Kitô cho mọi dân tộc ở khắp mọi nơi trên trần thế này  hầu cho mọi người được biết Chúa và lãnh ơn cứu chuộc của Người, vì " đó là điều tốt  và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta , Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý." ( 1 Tm 2 : 3-4)

    Nhưng muốn được cứu độ như lòng Chúa mong muốn, là người tín hữu Công giáo sống trong hoàn cảnh thế giới ngày nay, chúng ta được mong đợi hơn bao giờ hết  phải nỗ lực làm nhân chứng cho Chúa Kitô không những bằng đời sống thánh thiện, chê ghét và xa tránh mọi sự dữ, sự tội, thực thi công bằng và bác ái mà còn phải quan tâm đến phần rỗi của người khác bằng lời cầu nguyện, bằng gương sống đức tin của mình  và tránh cho  anh chị  em mình  những gương xấu, những dịp tội gây nguy hại cho chính phần rỗi của mình và của người khác, như Chúa  Giêsu  đã cảnh cáo về mối  hiểm nguy  này như sau:

     “Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã” (Lc 17:1-2).

    Vấp ngã vì gương xấu, dịp tội mà người khác gây cho mình hay chính mình gây cho người khác khiến họ phải sa ngã, mất ơn nghĩa với Chúa vì những việc làm phi luân lý, vô đạo của mình  hay của người khác, sẽ được nói rõ hơn trong phần dưới  đây của bài viết.

    Là người tín hữu, chúng ta phải tuyệt đối tránh gương xấu, dịp tội cho mình và cho người khác vì những lý do sau đây:

    Trước hết, đức bác ái công giáo đòi buộc mọi người phải tôn trọng những lợi ích tinh thần và thể xác của con người. Đây cũng là nội dung điều răn Thứ Năm đòi buộc mỗi người tín hữu chúng ta phải tuân giữ để đẹp lòng Chúa và được cứu rỗi.

    Sau đây là những đòi buộc của Điều răn Thứ Năm mà Thiên Chúa đã truyền cho con người phải tuân giữ để được chúc phúc:

     

     I-Về mặt thể lý:  không được phép làm bất cứ điều gì nguy hại cho tính mạng và sức khỏe của mình và của người khác. Cụ thể, không được tự sát, giết người, chặt cắt bất cứ phần cơ thể nào của mình hay của người khác.Chỉ được phép hiến phần nào cơ thể của ai đã chết cho người khác hay cho mục đích nghiên cứu y khoa.Nhưng người  đang khỏe mạnh thì không được phép hiến bộ phận nào của cơ thể mình dù để cho mục đích nghiên cứu y khoa hay khoa học.

     Cũng vì lợi ích cho thân xác, nên không được quảng bá việc dùng ma túy, thuốc hút, nhất là thuốc phiện rượu mạnh có thể gây  nguy hại cho sức khỏe cho người xử dụng. Ngoài ra, cũng không được mê tốc độ để lái xe quá nhanh có thể gây tai nạn tử thương cho mình và cho người khác. (x. SGLGHCG, số 2290-91).

    Do đó, vì  lợi ích cần bảo vệ trên đây cho thân xác con người, mà những việc làm sau đây được xem là gương xấu phải tránh:

    Trước hết không được sản xuất hay tiếp tay phân phối những sản phẩm nguy hại cho sức khỏe con người như cần sa, ma túy. Vậy những người trồng và bán những loại sản phẩm nguy hại này (cụ thể trồng cây thuốc phiện ở nhiều nơi dưới bí danh “trồng và tưới cỏ” để kiếm tiền, làm giầu đều mắc lỗi nặng theo giáo lý dưới đây của Giáo Hội:

    “việc sử dụng ma túy (drugs) gây nên những tàn phá nghiêm trọng cho sức khỏe và cho cuộc sống của con người. Ngoài lý do thuần túy trị liệu thực sự , dùng ma túy là một lỗi nặng. Việc sản suất lậu và buôn bán ma túy là những việc làm gây gương xấu, do  cộng tác trực tiếp  vào những sự dữ  vì đã  khuyến cáo kẻ khác làm những việc sai trái về luân lý cách nghiêm trọng.” (SGLGHCG, số 2291).

    Mặt khác, cũng được kể là làm gương xấu có hại cho sức khỏe của dân chúng những ai pha chế đồ ăn, đồ uống với những độc chất để làm tăng hương vị giả tạo của đồ ăn, trái cây, rau sống và nước uống như người ta đã phát giác ở nhiều nơi.

     

    II- Về mặt tinh thần: Tôn trọng linh hồn và phần rỗi của người khác

    Về mặt này, gương xấu, dịp tội  là một hiểm nguy vô cùng to lớn cho phần rỗi của mình và của người khác.

    Gương xấu ở đây, là những lời nói và  hành động có tác dụng khuyến khích hay xúi dục người  khác làm những việc có hại cho phần rỗi của họ. Cụ thể, sản xuất và tiếp tay phân phối, bày bán những sách báo, phim ảnh đồi trụy, dâm loạn khiến người đọc, người xem bị kích thích, đi tìm những thú vui vô luân, vô đạo  nghịch với điều răn thứ sáu, nghịch đức khiết tịnh (chastity) của thanh niên nam nữ còn độc thân, hay cả cho những người đã có gia đình.Nghĩa là, không phải cứ  là  vợ chồng thì được phép xem những sách báo, phim ảnh dâm ô trên Internet hoặc Video...Vợ chồng cũng phải sống luân lý trong lãnh vực  phái tính (sexuality) để "việc vợ chồng" trở thành lời ca tụng, cảm tạ  Chúa đã ban niềm vui phái tính cho những ai được ơn gọi sống bậc hôn nhân, khác biệt với những kẻ tìm thú vui phái tính vì mục đích dâm loạn, tội lỗi, không xứng hợp với phẩm giá con người, khác xa loài vật.

    Giáo lý của Giáo Hội dạy như sau về nguy cơ của gương mù, dịp tội :

     “Gương xấu là thái độ hoặc cử chỉ khuyến khích người khác làm sự dữ. Người làm gương xấu trở thành kẻ cám dỗ người khác phá hoại nhân đức và sự ngay chính. Kẻ làm gương xấu cũng có thể lôi kéo anh  em  mình vào sự chết về mặt tinh thần. Như thế, gương xấu là một lỗi phạm nghiêm trọng nếu cố ý có hành động lôi kéo người khác phạm lỗi nặng.” (Sđd, số 2284).

    Như vậy, những ai buôn bán sách báo đồi trụy, quảng cáo, chỉ vẽ  những trò chơi dâm ô  kể cả quảng cáo và bày bán những dụng cụ và thuốc kích thích dâm tính, hay quảng cáo việc sửa chữa thân thể cho trở nên lôi cuốn, hấp dẫn về phái tính ( sexy), làm cớ cho người khác thèm muốn dâm ô,  đều mắc tội làm gương mù gương xấu cho người khác phạm tội nghịch giới răn thứ sáu. Cũng thuộc nguy cơ này phải kể thêm những người cổ võ và hành nghề  cờ bạc, cá độ, tổ chức dạ vũ cuồng loạn, môi giới việc buôn bán dâm ô, nhất là khai thác kỹ nghệ mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em để phục vụ cho nhu cầu tội lỗi của hạng người vô luân, vô đạo, tôn thờ “văn hóa sự chết” ở khắp nơi  trên thế giới tục hóa  ngày nay. Ngoài ra, còn phải kể đến những nguy hại to lớn của kỹ nghệ sản suất các phim ảnh bạo động, cỗ võ việc chém giết, trả thù, tống tiền, lường gạt, bắt cóc, thủ tiêu, kể cả thú vui boxing là thú vui man rợ mà Giáo Hội đã nghiêm cấm,vì trò chơi này có thể gây nguy hại cho sự sống của mình và của người khác. Vì hậu quả của boxing mà có những người đã bị chấn thương não bộ và có thể bị tử vong vì những cú đấm quá nặng vào đầu khiến cho nạn nhân  bi “knock out” phải nhập bệnh viện cứu chữa  sau đó

    Tất cả những loại người  làm những nghề đầy gương xấu kể trên để kiếm tiền, làm giầu cách phi luân  hãy mở tai ra để nghe lời cảnh cáo nghiêm trọng của Chúa Kitô sau đây:

      “khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã.Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã , nhưng khốn  cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã." ( Mt 18: 7)

    Có những cớ cho người ta sa ngã vì ma quỉ là kẻ cầm đầu gây ra mọi tội lỗi và sự dữ để lôi kéo con người ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Cho nên, ai mắc mưu ma quỉ để phạm tội hay làm gương mù, gương xấu thì trở thành tay sai đắc lực cho ma quỉ để cám dỗ người khác sống theo chúng và trở thành thù nghịch với Thiên Chúa là tình yêu và hạnh phúc bất diệt, nên Chúa muốn cho mọi con cái loài người sống theo đường lối của Chúa để được hạnh phúc ngay từ ở đời này trước khi được hưởng hạnh phúc Nước Trời mà  Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến và sống theo đường lối của Chúa ngay từ ở đời này. Khốn cho kẻ làm gương xấu, vì họ vô tình hay cố ý cộng tác với ma quỉ để xô đẩy người khác vào con đường tội lỗi, đưa dến hư mất đời đời. Đó là những kẻ đang làm chủ các động mãi dâm, sòng bạc lớn  nhỏ để làm hại biết bao người ham mê thú vui vô luân vô đạo và tìm tiền của bằng phương tiện bất chính là cờ bạc ,đồng lõa với bọn làm gương xấu và dịp tội này là những kẻ đang buôn bán phụ nữ và trẻ em bán  cho các tổ chức mãi dâm nước ngoài dưới bình phong "hôn nhân ngoại quốc" và "nhận con nuôi". Ngoài ra cũng phải kể là làm gương xấu những ai hành nghề hay giúp cho phụ nữ phá thai, một tội lớn lao xúc phạm đến Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự sống. Do đó, ai làm những nghề  này,thì  họ đã  tự đặt mình vào nguy cơ tội lỗi phương  hại  cho chính phần rỗi của họ và làm cho người khác ngã lây vì họ. cho nên, vì lợi ích thiêng liêng của mình và của tha nhân, người có niềm tin Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, thì không những phải xa tránh mọi tội lỗi mà còn phải tránh mọi dịp tội cho mình và cho người khác nữa, vì muốn tránh tội phải tránh dịp tội như Chúa đã dạy bảo mọi người chúng ta   là " phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi." ( Lc 7 :23) 

    Tóm lại, gương xấu hay dịp tội  là những nguy cơ làm cho người ta xa cách Thiên Chúa, đánh mất hy vọng được cứu rỗi để sống hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa mai sau trên Nước Trời, nơi kẻ lành, kẻ thực tâm yêu mến Chúa và xa tránh mọi dịp tội , gương xấu ở đời này sẽ được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa và  " được thông phần bản tính Thiên Chúa,  sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian" ( 2 Pr 1 : 4)  với  đầy rẫy gương xấu và dịp tội này. Chúa nói " ai có tai nghe thì nghe" ( Mt 13: 43  : Mc 7 :16, Lc 8 : 8)

    Ước mong những lời giải thích trên thỏa mãn câu hỏi được đặt ra.

     

    LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn 

    ------------------------------------

     

     

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - SUY TƯ VỀ THÁNH GIUSE

 

  •  
    Chi Tran
    HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO
     
    Thu, Feb 4 at 1:02 PM
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     

    SUY TƯ THẦN HỌC VỀ THÁNH GIUSE

    Lm. Giuse Trần Đình Thụy
    Đón Xuân Tân Sửu 2021

     

     

    I. SỰ CHUẨN BỊ CHO LỜI CHÚA

    Đức Giám mục Christiani trong tác phẩm trứ danh của ngài “Saint Joseph” (Paris, 1962) được Imprimatur bởi Đức Giám mục J. Hottot ký ngày 15-05-1962, đã suy luận rất thuyết phục khi xem cảnh sống tại Nazarét là thời gian chuẩn bị cho Tin Mừng.

     

    Khi nghĩ đến điều xảy ra trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, chúng ta được kêu mời tìm hiểu cuộc sống đã được chuẩn bị lâu dài vào thời ẩn dật, với cuộc sống của người thợ mộc. Có thể nói: Phúc Âm và những khuôn mẫu vàng được giới thiệu cho chúng ta khởi nguồn từ “bầu khí thiêng liêng” bao trùm tại Nazarét trong “ngôi nhà nuôi sống”, nơi mà Chúa Giêsu đã lớn lên. Qua đó, chúng ta biết rằng, Ngài không chỉ lớn lên như những đứa trẻ khác, mà Ngài còn “nên khôn ngoan, đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người”. Chúng ta cũng đã biết, cụm từ “lớn lên trong khôn ngoan” mang ý nghĩa Thánh Kinh, với một nghĩa đặc biệt. Cụm từ đó nói lên sự phát triển trong hiểu biết về Thiên Chúa và con người. Chính tại Nazarét mà Phúc Âm đã được ươm mầm. Vì vậy, chúng ta không ngần ngại khi gọi đời sống tại Nazarét là giai đoạn Tiền Phúc Âm (Pré- Évangile). Tất cả những điều Chúa Giêsu sẽ nói cho con người đã được suy nghĩ, chiêm ngắm trong môi trường của Thánh Giuse và Đức Maria. Ngài được gieo trồng những hạt mầm trong nơi mà chúng ta đã gọi là “bầu khí thiêng liêng”“Bầu khí” này chính là bầu khí tại mái ấm Nazarét. Nếu Chúa Giêsu được coi là “vâng phục” cha mẹ mình là thánh Giuse và Đức Maria, chính là vì các vị đã cùng kết hợp với chính Ngài trong ánh sáng của Phúc Âm, trong nét đẹp của sứ điệp trước khi công bố cho nhân loại.

     

    Quả đúng như vậy, nhất là những giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu Kitô qua Bài Giảng Trên Núi (Sermon sur la Montagne).

     

    Khi nghe Đức Giêsu tuyên bố những điều được coi như Bát Phúc (Béatitudes), chúng ta liên tưởng ngay là Đức Giêsu diễn tả điều mà Ngài đã sống trong suốt 30 năm gần Đức Maria và thánh Giuse.

     

    “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

    Phúc thay ai hiền lànhvì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

    Phúc thay ai sầu khổvì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

    Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

    Phúc thay ai xót thương ngườivì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

    Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

    Phúc thay ai xây dựng hoà bìnhvì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

    Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5,3-12)

     

    Vậy ai là những người có tinh thần nghèo khó, hiền lànhkhát khao nên người công chính, xót thương ngườicó tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bìnhbị bách hại vì sống công chính, nếu không phải là thánh Giuse và Mẹ Maria. Hai vị đã được thưởng công cho tâm hồn thanh sạch là họ đã được nhìn thấy Thiên Chúa trong suốt thời gian Đức Giêsu ở với họ. Bát Phúc của Chúa Giêsu không nghi ngờ gì: đó là một phần linh đạo của thánh Giuse. Chính vì sống gần kề với thánh Giuse và Đức Mẹ, mà Chúa Giêsu cũng đã suy nghĩ trước những lời sau:

    “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc…”

     

    “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy…”

     

    “Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,25-34).

     

    Cảm nghiệm trong đời sống tại Nazarét một “Khuôn vàng thước ngọc”: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

     

    Cũng tại đời sống bình dân tại Nazarét với họ hàng lối xóm, với những người bình thường có tốt có xấu, Chúa Giêsu cũng nói đến những nét tiêu cực của người dân, đặc biệt là giới Pharisêu: cốt để tìm tiếng khen.

     

    Chúa Giêsu cũng nhìn thấy trong đời sống ẩn dật của ngài về sự công chính – Giuse là người công chính. Theo Phúc Âm, ngài là người công chính vì đón nhận Maria về nhà và nhận bà là hôn thê. Sự công chính của ngài đã không ngừng phát triển từ lúc đó. Nó hoàn toàn khác với sự công chính bề ngoài của Pharisêu:

     

    “Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,2-4).

     

    Sau việc bố thí, Ngài lại nói đến sự cầu nguyện:

    “Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,5-6).

     

    Và Ngài còn nói thêm:

    “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhậm lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt 6,7-8).

     

    Ngài cũng nói về sự ăn chay:

    “Rồi khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,16-18).

     

    Thật đúng với tinh thần Chúa Giêsu đã sống tại Nazarét, ta có thể nói rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất những gì Ngài bắt đầu, những điều mà Ngài đã dạy: “…tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy…” (x.Cv 1,1).

     

    Giuse và Maria đã biết từ ngày đầu tiên, biết về sự cao trọng mang tính tiên tri của Giêsu – Con các ngài – qua xác nhận của thiên thần và của ông già Simêon và bà “tiên tri” Anna. Bí ẩn đã kéo dài suốt 30 năm hoặc với thánh Giuse khi còn sống. Không có lời cầu nguyện, sự bố thí, ăn chay nào tốt hơn là cách mà Maria và Giuse đã sống. Hơn nữa, Gioan Tẩy Giả đã đóng vai trò của mình, vì qua Dacaria là cha ngài, ngài đã nói lớn tiếng, trước cả sự hiện diện của Mẹ Maria: “…Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người…” (Lc 1,76). Chính trong đức tin, niềm hy vọng và tình yêu, họ đã chờ đợi điều mà Chúa Giêsu sẽ nói: “Giờ của Người” chính là giờ của Thiên Chúa. Thời giờ này đã được xướng lên trước cái chết của Tổ phụ Giuse: “Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em…” (x. St 50,25).

     

    Dù là suy luận (argument), nhưng chúng ta cũng thấy nét tương đồng giữa lời của Chúa Giêsu và đời sống của Thánh Cả. Khẳng định đời sống tại Nazarét là thời gian Tiền-Phúc âm (un Pré-Evangile) cũng không sai gì.

     

    II. NGÔN NGỮ THÁNH GIUSE

    Trong tập Kỷ yếu 45 năm Ký Ức & Ước Mơ (Vũng Tàu – tháng 06 năm 2012), tôi đã viết và chia sẻ về ngôn ngữ của thánh Giuse là: Thinh lặng để Cầu nguyện – Yêu thương và Phục vụ. Chính 4 đặc tính này gói trọn cuộc đời thánh Giuse trước ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Tôi cũng kết luận trong bài viết và chia sẻ đó: “Chỉ xin gởi lại một chữ tình vì đó là ‘cả một tấm lòng’. Đối với tôi, những chia sẻ này có thể được mô thức hóa (formulé) là: Kinh Tin Kính của đời tôi”[1].

     

    Năm nay (2020-2021), năm đặc biệt kính thánh Giuse, tôi xin đóng góp một chút suy tư cá nhân với những trải nghiệm cuộc sống: Ngôn ngữ thánh Giuse: Thinh lặng để cầu nguyện kết hợp – lắng nghe và thực hành ý Chúa.

     

    1. Hai bản văn nền tảng để suy tư

    - Huấn từ của ĐGH Phaolô VI tại Nazarét (05-01-1964)[2]:

    “Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước chi nơi mỗi chúng ta lại nảy sinh lòng quý trọng sự thinh lặng. Đây là điều kiện tuyệt vời và cần thiết cho tinh thần, đang khi chúng ta bị quấy nhiễu vì bao tiếng la hét, ồn ào và náo động của cuộc sống hiện đại, luôn ầm ĩ và quá căng thẳng. Ôi, ước chi sự thinh lặng của Na-da-rét dạy chúng ta biết suy đi gẫm lại, biết trở về nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa và lắng nghe những vị thầy chân chính dạy bảo. Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi bí ẩn.”

     

    - Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục[3]:

    “Theo mẫu gương thánh Giu-se, sự thinh lặng của linh mục ‘không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm, nhưng trái lại, là một đức tin tròn đầy ngài mang trong tâm hồn, hướng dẫn mọi tư tưởng và hành động’[4]. Một sự thinh lặng, như của các tổ phụ xưa, ‘gìn giữ Lời Chúa được biết qua Thánh Kinh, hằng đối chiếu Lời ấy với các sự kiện trong đời Chúa Giê-su; một sự thinh lặng đan xen với lời cầu nguyện liên lỉ, lời kinh chúc tụng của Chúa, tôn thờ thánh ý Người, và hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa’[5].

     

    Trong sự hiệp thông của Thánh Gia Na-da-rét, sự thinh lặng của thánh Giu-se hoàn toàn hoà hợp với sự hồi tâm của Đức Maria, ‘hiện thân hoàn hảo nhất’ của sự vâng phục đức tin[6], Người đã ‘giữ kỹ tất cả những kỳ công của Đấng Toàn Năng và suy gẫm trong lòng’”[7].

     

    2. Suy niệm về ngôn ngữ thánh Giuse[8]

    a. Thinh lặng

    Đời sống đức tin của Kitô hữu, và nhất là các linh mục và tu sĩ, sự thinh lặng phải là như “thời khắc ngưng nghỉ hoạt động bình thường” rất cần thiết.

     

    Thinh lặng có thể được coi là “bầu khí thiêng liêng” bao phủ gần hết cuộc sống của thánh Giuse. “Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước chi mỗi người chúng ta lại nảy sinh lòng quý trọng sự thinh lặng” (Huấn từ của ĐGH Phaolô VI). Kim Chỉ Nam Linh Mục cũng nói: “Theo mẫu gương thánh Giu-se, sự thinh lặng của linh mục ‘không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm’” (Số 51).

     

    Nói về sự thinh lặng, chúng ta có thể ghi lại nhiều tư tưởng của các văn gia nổi tiếng:

    “Tiếng ồn làm phân tán, tản mác, lãng phí. Sự im lặng tiếp nhận, thâu hồi và cô đọng. Ai không biết dành một khoảnh khắc trong đời cho những khu vực yên tĩnh, thì tâm hồn kẻ đó sẽ dần dần sống một cách hời hợt, nông cạn” (G. Courtois).

     

    “Thinh lặng là người bạn thân không bao giờ phản lại ta” (Tục ngữ Trung Hoa).

    “Những người nào không biết nghe sự thinh lặng thì họ sẽ không thể biết họ đã mất mát đến chừng nào” (M. Zuldel).

     

    b. Trong thinh lặng, ta cầu nguyện và kết hợp

    Cũng trong Huấn từ, chúng ta nhận ra tâm tình của ĐGH Phaolô VI: “Ôi, ước chi sự thinh lặng của Nazarét dạy chúng ta biết suy đời gẫm lại, biết trở về nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa”.

     

    Kim Chỉ Nam cũng ghi rõ: “Theo mẫu gương thánh Giu-se, … một sự thinh lặng đan xen với lời cầu nguyện liên lỉ, lời kinh chúc tụng của Chúa”.

     

    Thinh lặng để kết hợp. Tôi xin trích lại trong tập viết “Tìm Nơi Thinh Lặng” (Paris, 1999, trang 20-24):

    “Ngày 11.8.1999, một ngày đặc biệt của năm cuối cùng của Thiên niên kỷ thứ hai: Nhật Thực. Tại Pháp, theo dự báo: khoảng 12g10-12g20, trục thẳng từ Chesbourg-Strasbourg, sẽ thấy nhật thực toàn bộ.” …

     

    “Người ta tưởng tượng đây là một cuộc ‘kết hôn’, một sự ‘giao phối hoàn hợp’ giữa mặt trăng và mặt trời… Cứ 270 năm mới có một lần (lần trước đây tại Paris vào năm l724 lúc vua Louis XV mới 14 tuổi” (Cf. Famille chretienne N.24/29.7.99 trg 58). 

     

    “Trong một góc hành lang: một tượng Đức Mẹ bằng gỗ mun, với kỹ thuật bắt điện cũng thật ý nghĩa. Tượng thật và bóng tượng trên tường cùng gọn trong một vầng sáng dịu như ẩn như hiện… và cũng hoàn toàn thinh lặng!

     

    Âm thầm kết hợp… Âm thầm mà kết hợp… Âm thầm để kết hợp… Bạn hiểu thế nào cũng được… Kết hợp, một sự kết hợp hài hòa trong thinh lặng. Không một tiếng động mà dường như ta lại đang nghe thấy nhiều điều. Chỉ một cảnh trong thinh lặng nhưng lại nói lên thật đầy ý nghĩa. Để lòng mình thinh lặng mà như có sự đối thoại giữa trần thế với trời cao.”

     

    Đúng thật: “Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19,4-5)

     

    Thinh lặng “không biểu biểu lộ sự trống rỗng”. Tôi rất thích vần thơ thật dễ thương nhưng sâu sắc:

    “Nói bằng ánh mắt nhau thôi,

    Chi bằng thinh lặng đầy vơi tấm lòng”.

     

    Đúng thật, thinh lặng “không biểu lộ sự trống rỗng nội tâm” mà là môi trường lắng nghe được nhiều âm thanh huyền bí của Thiên Chúa, khác với sự “tràn ngập âm thanh và ánh sáng” khiến chúng ta bị vong thân, lao vào những sự kiện trần thế.

     

    Thánh Augustinô cũng cảm nghiệm được Chúa - được mình trong thinh lặng nội tâm: “Lạy Chúa, Chúa biết con còn hơn con biết con”; “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.

     

    P. Duret cũng nói: “Thầm lặng đích thực thì chan chứa tình yêu: Đó là im lặng để cầu xin… im lặng để quan sát… im lặng để quên đi”.

     

    c. Trong thinh lặng, ta lắng nghe và thực thi ý Chúa

    “Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi bí ẩn” (Huấn từ của ĐGH Phaolô VI).

     

    Kim Chỉ Nam Linh Mục cũng viết: “Theo mẫu gương thánh Giuse … sự thinh lặng… là một đức tin tròn đầy ngài mang trong tâm hồn, hướng dẫn mọi tư tưởng và hành động”.

     

    Qua phần trình bày trên, ta thấy: Bước (1): Cần sự thinh lặng để xóa đi những ồn ào không cần thiết, có khi bị khuấy động; Bước (2): chính trong thinh lặng, nhất là thinh lặng nội tâm, ta bước vào cầu nguyện để kết hợp với Chúa; Bây giờ đến bước (3): lắng nghe được tiếng Chúa và thực hiện ý Chúa.

     

    Trong đêm thanh vắng, Giuse nghe được lời Thiên sứ báo mộng. Tỉnh dậy, ngài “lập tức” thực hiện điều Chúa đã soi sáng.

     

    Thời nay và nhất là hôm nay: quá nhiều lý thuyết gia mà ít nhân chứng. Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người hôm nay cần chứng nhân hơn thầy dạy”.

     

    Noi gương thánh Giuse, hãy tìm những khoảnh khắc thinh lặng nội tâm, tạm gác qua mọi lo âu sinh hoạt bên ngoài, dọn tâm thế sẵn sàng để gặp Chúa (nhìn Chúa và để Chúa nhìn mình), rồi Chúa sẽ nói với ta. Đến phần ta: hãy trở lại cuộc sống và thực thi ý Chúa soi sáng.

     

    Dietrich Bonhoeffer rất sâu sắc khi nói về cầu nguyện, cũng giống cách thế của thánh Giuse, ông nói: “Cầu nguyện là gác qua mọi lo lắng, liên hệ thường nhật để tìm gặp Chúa. Sau giờ cầu nguyện, Chúa lại sai chúng ta trở lại cũng với những con người, liên hệ và môi trường ta vẫn sống; nhưng với tâm tình của Chúa”.

     

    “Muốn trở thành con người, trong đời sống thường ngày, bạn phải biết dành chút thời giờ cho thinh lặng. Bạn hãy học im đi để biết nói lên” (ĐHY Joseph Leo Cardijn).

     

    “Tâm hồn phải lắng xuống trong sự im lặng. Chính lúc đó, Thiên Chúa sẽ tỏ hiện và nói với ta” (M. Eckhart).

     

    Tìm thinh lặng; trong thinh lặng ta cầu nguyện và kết hợp; và chính lúc đó, ta nghe được tiếng Chúa và Ngài thúc dục ta ra đi thực hiện. Đây chính là ngôn ngữ của thánh Giuse.

     

    Bạn hãy tập đi! Tập đi vào thinh lặng để gặp Chúa, nghe được lời Chúa và thi hành điều Chúa dạy. Chỉ trong thinh lặng ta mới đạt được những sự ấy. Chẳng phải màu mè nhưng hành động đạo đức của chúng ta chính là hoa trái của thinh lặng. Và đúng như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).

     

    Trích sách: Để Hiểu và Yêu Mến Thánh Cả Giuse Hơn

    Tài về sách này tại đây: file Wordfile PDF

     


    [1] Kỷ yếu 45 năm Ký Ức & Ước Mơ, trang 4-5.

    [2] Trích Bài đọc 1, Kinh Sách lễ Thánh Gia Thất

    [3] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.

    [4] ĐGH Biển-đức XVI, Kinh truyền tin (18/12/2005): Enseignements I (2005), 1003.

    [5] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, Nxb Tôn Giáo, 2013.

    [6] Giáo lý Giáo hội Công giáo, 144.

    [7] Sđd., 2599.

    [8] Thái Bạch, Tìm Nơi Thinh Lặng, Paris, 2000.

     
     

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - NGƯỜI BỊ QUỶ ÁM?

 

  •  
    nguyenthi leyen
    HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO
     
    Tue, Jan 12 at 12:25 AM
     
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    Làm sao biết chắc một người bị quỷ ám?
     
    Theo lời một linh mục, đồng thời cũng là một người trừ quỷ có thâm niên, thì phân biệt giữa người bị quỷ ám với người đang vật lộn với các tật bệnh tâm lý và các suy nhược khác, là một yếu tố sống còn trong khi thi hành tác vụ trừ quỷ.

    Linh mục Cipriano de Meo, đã trừ quỷ từ năm 1952, nói với hãng tin CNA (phiên bản tiếng Ý) rằng, rất hay xảy ra việc, người ta thực ra không bị quỷ ám, nhưng đang mắc phải với một số bệnh tật nào đó.

    Theo linh mục này, chìa khoá giúp phân biệt dựa trên việc biện biệt có được nhờ qua lời cầu nguyện của người thực hiện việc trừ quỷ và người bị quỷ ám – và căn cứ vào phản ứng của người nghi bị quỷ ám trước người trừ quỷ và trước những lời cầu nguyện.

    Người trừ quỷ thường “cầu nguyện dài dòng cốt để xác định xem, có ‘động tĩnh’ gì không, vì nếu có ‘động tĩnh’, có phản ứng chống trả, tức là có quỷ ở đó” .

    “Người bị quỷ ám phản ứng đủ kiểu, đủ trò trước người trừ quỷ, vì với ma quỷ, người trừ quỷ là kẻ thù trực tiếp, đang sắp sửa đánh nó”.

    Linh mục de Meo mô tả phản ứng đáng sợ thường thấy của người bị quỷ ám, cha kể chi tiết về kiểu phản ứng điển hình trước lời cầu trừ tà.

    “Khuôn mặt với những biểu cảm rợn người, những cử điệu và ngôn từ đủ loại, đặc biệt là những ngôn từ và cử điệu đe dọa, và rõ ràng nhất là những lời báng bổ chống lại Chúa và Mẹ”.

    Giáo lý Hội thánh Công giáo đã nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc phân biệt giữa những biểu hiện của quỷ ám với các bệnh tật tâm thể lý. Số 1673: “Nghi thức trừ ta nhằm trục xuất ác thần Xa-tan và giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền thiêng liêng Chúa Giêsu đã uỷ thác cho Hội thánh. Mục đích này khác hẳn với các việc chữa bệnh là công việc của y khoa. Do đó, trước khi cử hành nghi thức trừ ta, phải điều tra cẩn thận để chắc chắn đây là trường hợp quỷ ám chứ không phải một dạng bệnh lý (x. CĐ Nixêa 2: DS 601; 603; CĐ Trentô: DS 1822) .

    Tháng Tư năm vừa qua, Thánh bộ Giáo sĩ đã tổ chức một khóa học tại Đại học Giáo hoàng Regina (Rôma), huấn luyện chuyên biệt cho các linh mục và giáo dân để họ phân biệt giữa các trục trặc tâm lý và quỷ ám.

    Cuộc hội thảo này quy tụ nhiều chuyên viên đủ loại làm công việc liên quan, dính líu đến trừ tà, bao gồm những người trừ tà, các chuyên viên y khoa, các nhà tâm lý học, luật sư, và các thần học gia.

    Linh mục de Meo cũng nhấn mạnh, chẳng có trường hợp quỷ ám nào giống nhau cả, do vậy những người trừ quỷ cần phải được huấn luyện, đạo tạo một cách nghiêm cẩn, và việc ấy rất là can hệ.

    “Vị linh mục thực thi sứ vụ này phải biết cách giải quyết sự vụ, theo ý Chúa, bằng tình thương và với sự khiêm tốn”.

    “Vì thế, được đức giám mục cho phép, trong 13 năm qua, tôi đã mở một trường huấn luyện các nhà trừ quỷ. Tôi nỗ lực chuyên tâm đào tạo những người khởi sự thực thi sứ vụ này”.


    Linh mục cũng cho biết, tuy vậy, dù rằng việc bị quỷ ám thì ít thấy hơn là những trường hợp mắc các tật bệnh tâm lý, đa số người ta quá xa lạ, và thiếu hiểu biết một cách trầm trọng về các thực tại siêu nhiên, tinh thần (spiritual realities).

    Năm 2014, Hiệp hội các nhà trừ tà quốc tế (AIE) đã phát đi lời kêu gọi, khẳng định sự bùng phát hoạt động liên quan đến các giáo phái là một “sự kiện hết sức cấp bách mang tính mục vụ”.

    “Thường lúc đầu người ta tham dự do sự thiếu hiểu biết, nông cạn, dốt nát, cũng có thể họ tham dự như một cảm tình viên, tham dự một cách tích cực, hoặc chỉ tham dự như một quan sát viên. Thế nhưng, các hậu quả thì lúc nào cũng khủng khiếp” 
    , phát ngôn viên của AIA, tiến sỹ Valter Cascioli đã khẳng định như thế với hãng tin CNA.

    Linh mục de Meo cho biết, người ta thường dựa vào “những lời ú ớ của các tay phù thủy, thầy bói thầy chiêm” để đưa ra quyết định, hơn là cậy dựa vào “những khí cụ mà Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta”.

    Khi người ta muốn tìm cho mình những câu trả lời, hay những dấu chỉ rõ ràng, cách phòng tránh nguy cơ bị quỷ ám hữu hiệu nhất đó là một đời sống đơn sơ, thành tín, năng lãnh nhận các bí tích, vị linh mục cho biết.

    “Quan trọng là người ta phải sạch tội, người ta phải sống trong ân sủng Thiên Chúa”.

    “Giáo hội quả thực, mong muốn con cái mình cầu nguyện, không những là chính vị linh mục phải cầu nguyện, nhưng người tín hữu cậy nhờ sự can thiệp của vị linh mục này cũng phải cầu nguyện nữa, người này cũng hưởng nhờ các trợ lực, phúc ấm từ các người trong gia đình, gia tộc của mình”.


    Sách Giáo lý cũng đưa ra hướng dẫn chi tiết hơn giúp tránh bị ma quỷ tác động: phải loại bỏ bất cứ điều gì nhân danh, hay cậy thế ma quỷ, không được thực hiện bất cứ nỗ lực gọi hồn hoặc tiên tri, dự báo tương lai.

    Sách Giáo lý Công giáo số 2116 dạy rằng: “Phải loại bỏ mọi hình thức bói toán: cậy nhờ Xa-tan hay ma quỉ, gọi hồn người chết hay những cách khác ngỡ rằng sẽ đoán được tương lai (x. Ðnl 18,10; Gr 29,8). Coi tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải điều mộng, xin xăm, bói toán quá khứ vị lai, đồng bóng, là những hình thức che giấu ước muốn có quyền trên thời gian, trên lịch sử và trên cả con người, cũng như ước muốn liên kết với các thế lực huyền bí. Ðiều này nghịch lại với lòng tôn kính và thần phục chỉ dành cho Thiên Chúa.”

    Về phần các người trừ quỷ, rất can hệ việc cần phải biết khiêm nhường và luôn ý thức rằng năng quyền họ có là do bởi Đức Kitô, linh mục de Meo nói thêm.

    “Về việc chuẩn bị tâm linh, cần phải giữ lòng khiêm tốn và tự ý thức rằng, dù giữ vai người trừ quỷ, mình không thực sự đánh bại ma quỷ kẻ chống lại Đức Kitô. Chúng ta được kêu mời chiến đấu nhân danh Đức Kitô”.

    (Chuyển dịch: Truyền thông Đa Minh)
    http://www.catholicnewsagency.com
     

 

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

NGOÀI GIÁO HỘI, CÓ ƠN CỨU ĐỘ KHÔNG?

 

Hỏi: xin cha cho biết nếu không gia nhập Giáo Hội Công Giáo thì có được cứu rỗi không?

 

Trả lời: Câu hỏi này gợi lại giáo lý của một số Giáo phụ (Church Fathers)  xưa kia đã dạy  rằng “ngoài Giáo Hội, không có ơn cứu độ” (No salvation outside the Church). Nghiã là,  nếu không gia nhập Giáo Hội do Chúa Kitô đã thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ thì không được cứu rỗi đời đời. Lời dạy này bắt  nguồn từ chân lý  là chính Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo Hội  trên “Tảng Đá Phêrô” như phương tiện cưú rỗi cần thiết, căn cứ vào lời  Chúa nói với Phêrô sau đây:

Còn Thầy, Thầy bảo cho  anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh  của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất  anh tháo gở điều gì, trên trời  cũng sẽ tháo gở như vậy.” ( Mt 16: 18-19)

 

Đây là Giáo Hội duy nhất Chúa Kitô đã thiết lập như phương tiện cần thiết để chuyên chở ơn cứu độ của Người trên trần thế này cho đến ngày mãn thời gian. Giáo Hội này được ví như Chiếc Tầu của ông Nô-e trong thời  Hồng Thủy, khi  loài người và mọi sinh vật trên trái đất  đã bị hủy diệt trừ người và những sinh vật được đưa lên  tầu này trước khi nước dâng lên cao và cuốn đi mọi sinh vật khác (x. St. 6-8). Giáo Hội này “tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với ngài điều khiển.” (x. Lumen Gentium, số 8))

 

A- Áp dụng cho những người đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo

 

Để gia nhập Giáo Hội Công Giáo và được coi là thành viên của Giáo Hội này đòi hỏi người ta phải chịu phép rửa và tuyên xưng niềm tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu. Nhưng phải kiên trì sống niềm tin ấy cho đến hơi thở cuối cùng thì mới được ơn cứu độ. Thánh Công Đồng Vaticanô II,  trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium,  đã nói rõ điều này như sau: “…Những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo,  được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không thể được cứu rỗi.” (LG. 14)

 

Nghĩa là, trước hết, phải gia nhập Giáo Hội qua phép rửa. Sau đó, phải sống và thực hành những cam kết khi lãnh nhận bí tích này. Đó là tin yêu một Thiên Chúa Ba Ngôi, tin công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và cam kết từ bỏ ma quỉ với mọi cám dỗ của chúng

Tuy nhiên, xác tín trên không hoàn toàn loại bỏ những ai không gia nhập Giáo Hội không vì  lỗi của họ.

 

Thật vậy, chỉ những ai đã biết Giáo Hội là phượng tiện cứu rỗi cần thiết mà không chịụ gia nhập  hay đã gia nhập mà laị không kiên trì sống đức tin trong Giáo Hội này thì mới không được cứu độ mà thôi.

 

Không kiên trì sống có nghĩa là từ bỏ Giáo Hội nửa chừng để gia nhập một Giáo hội khác hay trở thành vô thần  vì mất hết niềm tin ban đầu do những khủng hoảng gặp phải  hay vì những lôi cuốn của chủ nghĩa vật chất  hưởng thụ gây ra. Như thế, muốn được cứu độ, thì phải quyết tâm sống đức tin trong mọi hoàn cảnh và thực hành những giáo lý căn  bản  mà Giáo Hội  thay mặt Chúa để giảng dạy không sai lầm trong hai phạm vi tín lý và luân lý. Nếu sống trong Giáo Hội  mà không tuân thủ những giáo huấn căn bản của Giáo Hội, nhất là  không thực thi đức tin, đức cậy và đức mến thì “tuy thể xác họ thuộc về Giáo Hội nhưng tâm hồn họ không ở trong Giáo Hội” và như  thế, “sẽ không được cứu rỗi”.  (LG.14).

 

B- Đối với những người hiện sống bên ngoài Giáo Hội Công Giáo

 

Nhưng đối với những người không biết  Chúa Kitô và Giáo Hội của Chúa không vì lỗi của họ thì lại là vấn đề khác. Về vấn đề này, giáo  lý và tín lý của Giáo Hội dạy như sau:

Thực tế những kẻ vô tình không nhận biết Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo Hội của Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong đời sống theo sự hướng dẫn của lương tâm thì họ có thể được cứu rỗi.” (x, LG. 16; SGLGHCG, số 847)

 

Nói rõ hơn, Chúa Giêsu mới xuống trần gian và hoàn tất công cuộc cứu chuộc loài người cách nay mới trên 2000 năm;  trong khi con người  đã có mặt trên quả đất này  không biết là bao nhiêu ngàn năm  rồi.

 

Như thế, có biết bao triệu triệu con người đã sinh ra và chết đi trước khi Chúa Cứu Thế ra đời  rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cũng như thiết lập Giáo Hội  làm phương tiện chuyên chở ơn cứu độ này. Họ không biết Chúa Kitô và không gia nhập Giáo Hội của Chúa qua Phép Rửa thì hoàn toàn không phải lỗi của họ, vì không có ai rao giảng cho họ biết về việc này. Như vậy, Chúa không thể bất công bắt lỗi họ về việc không nhận biết Chúa và Giáo Hội của Người.

 

Tuy nhiên, vì Thiên Chúa mong muốn cho mọi người được ơn cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tim 2:4) và vì  “Chúa Kitô-Giêsu làĐấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” nên Thiên Chúa vẫn có nhiều cách để cứu chuộc những ai không vì lỗi của họ mà không nhận biết Chúa Kitô và gia nhập Giáo Hội của Người như giáo lý  của Giáo Hội dạy trên đây.. Điều này cũng áp dụng chung cho những người tin hay không tin Chúa Kitô hiện  đang sống  tản mát trong nhiều tôn giáo hay giáo phái bên ngoài Giáo Hội Công Giáo. Đối với những anh chị em này, Giáo Hội chưa từng lên án họ mà chỉ tha thiết cầu xin để mong sớm tiến đến hiệp nhất trong cùng một niềm tin, một phép rửa, và một Giáo Hội duy nhất do chính Chúa Kitô đã thiết lập trên “Tàng Đá Phêrô”.

 

Tóm lại, Giáo Hội chỉ quan  ngại đặc biệt  cho phần rỗi của những ai đã nhận biết Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội thật của Chúa Kitô mà không chịu gia nhập hay đã gia nhập mà không kiên trì sống đức tin trong Giáo Hội  này mà thôi.

 

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

 CÔNG NGHIỆP CỨU CHUỘC CỦẢ  CHÚA KITÔ  ĐÃ ĐỦ CHO TA ĐƯỢC CỨU RỖI CHƯA?

Mùa Vọng (Advent) là thời điểm thuận tiện mời gọi mọi người tín hữu chúng ta suy niệm sâu xa về tình thương tha thứ của Chúa Cha  “ Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.”( 1Tm 2:4)

Chúa Kitô đã vâng phục Chúa Cha, đến thế gian trong thân phận CON NGƯỜI  để vui lòng chịu muôn vàn khốn khó đau khổ và hy sinh “ mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” ( Mt 20 :28). Chúa  đã hoàn tất Chương Trình Cứu Chuộc đó qua khổ hình thập giá, chết và sống lại ,và lên Trời để cho chúng ta có hy vọng được cứu rỗi và sống với Người  vĩnh cửu trên Nước Trời mai sau.

Công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu KITÔ thực vô giá vì không có sự hy sinh nào, lễ vật nào cao trọng đẹp lòng Chúa Cha và có giá trị cứu rỗi  hơn  Hy Tế  cực trọng  mà Chúa Kitô đã một lần dâng trên thập giá năm xưa và nay còn tiếp tục dâng trên bàn thời ngày nay  qua tác vụ của Giáo Hội, và “ mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên Bàn Thờ , nhờ đó Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta  chiu hiến tế, ( 1 Cor 5: 7 ) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” (x.Lumen Gentium LG số 3)

Nghĩa là, xưa kia một lần Chúa Kitô đã đổ máu thực sự trên thập giá để làm hy tế dâng lên Chúa Cha để xin ơn tha tội cho nhân loại thế nào, thì nay trên Bàn Thờ ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội, mỗi khi Thánh lễ Tạ Ơn ( Euchrist) được cử hành, thì  Chúa Kitô lại hiện diện cách bí tích nơi các thừa tác viên con người ( Giám mục hay Linh mục) để diễn lại- hay làm sống lại cách bí tích-  Hy Tế thập giá của Người  với cùng  mục đích và ích lợi thiêng liêng cho chúng ta ngày nay  như xưa  Chúa tự hiến tế  trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại đáng phải phạt vì tội lỗi.

Do đó, công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô thực  đã quá đủ cho chúng ta được tha thứ tội lỗi và giao hòa lại với Thiên Chúa như Thánh Phêrô đã dạy như sau:  

Chính Chúa Kitô đã chịu chết  một lần vì tội lỗi. Đấng công chính đã chết cho kẻ bất lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa.” ( 1 Pr 3 :18)

Như thế , nếu không có công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô,  thì tuyệt đối không ai có thể   làm được việc gì đáng được cứu rỗi . Nhưng nhờ công ghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, mà con người  mới có hy vọng  được cứu rỗi để sống hạnh phúc đời đời với Chúa, sau khi phải chết đi  trong thân xác của mỗi người một ngày nào đó.

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào công nghiệp cứu chuộc  này để  không làm gì nữa về phía con người, thì  ơn cứu chuộc ấy cũng không tự động sinh  ích gì cho ai .

Sở dĩ  thế, vì Công nghiệp cứu độ của Chúa Kitô- kể cả Phép Rửa- đều không tức khắc biến đổi con người  thành hoàn hảo ngay và không còn biết gì là tội lỗi nữa.

Trái lại, dù Chúa đã chết cho tội lỗi con người và dù đã  lãnh nhận Phép Rửa  để được tái sinh trong sự sống mới, con người vẫn còn đầy rẫy tính hư nết xấu, vẫn còn khuynh hướng nghiêng chiều về sự xấu, sự tội để cho ta phải chiến đấu để lập công.Thêm vào đó  là ma quỉ, “ thù địch của anh  em như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh  em hãy đứng  vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh  em  trên trần gian đều trải qua cùng một  loại thống khổ như thế ” như  thánh  Phêrô đã dạy. ( 1 Pr  5 : 8-9).

Ngoài nguy cơ đến từ ma quỷ mà Thánh Phêrô cảnh giác trên đây, còn nguy cơ khác không kém hiểm nguy là thế gian nơi đầy rẫy gương xấu và dịp tội với tà thuyết vô thần chối bỏ Thiên Chúa, chủ nghĩa chuộng khoái lạc ( Hedonism) và tục hóa ( secularism, vulgarism) cổ võ  tôn thờ tiền bạc , của cải vật chất  và mọi vui thú vô luân vô đạo của “văn hóa sự chết”  như bộ mặt thật của thế giới ở khắp nơi ngày nay.

Mặt khác, nơi bản thân mỗi người chúng ta, không ai có thể phủ nhận những thực tại sau đây còn tồn tại trong chúng ta như Chúa Giêsu  đã nói với các môn đệ xưa :

        “ Cái gì từ trong con người phát ra , cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong , từ lòng người phát xuất  những ý định xấu : tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.Tất cả những điều xấu đó đều từ bên trong xuất phát và làm cho con người ra ô uế”.( Mc 7 :21-23)

Chính vì thực trạng trên đây còn đồn trú  nơi mỗi người chúng ta cho nên đã làm phát sinh những sự dữ như giết người, giết thai nhi, hiếp dâm, trộm cướp, bất công , bóc lột hà khắc, nghèo đói, chiến tranh, bạo động, thủ tiêu, trả thù, kỳ thị, buôn bán phụ nữ cho nô lệ tình dục, bắt cóc và buôn bán trẻ nữ để bán cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn và tội lỗi như  đang diễn ra ở khắp nơi trên thế giới vô luân vô đạo ngày nay. Đặc biệt ở các quốc gia độc tài cai trị, tự do dân chủ giả hiệu, cánh chung luận mơ hồ,  xảo trá, thì thực  trạng tha hóa, xuống cấp thê thảm  về luân lý, đạo đức cũng như suy thoái về kinh tế  phải là hậu quả tất nhiên, vì tập đoàn thống trị  chỉ cai trị để  vơ vết mọi của cải vật chất và  gửi tiền ăn cướp được  ra nước ngoài mua cơ sở làm ăn  hoặc gửi tiền ở các ngân hàng ngọai quốc để  phòng thân , trong khi  nhắm mắt bịt tai trước mọi bất công  xã hội và nghèo đói của đa số người dân đen, nạn nhân của chế độ cai trị hà khắc, vô nhân đạo..

Trước thực trạng trên đây, là người có niềm tin  Thiên Chúa cực tốt cực lành, người tín hữu chúng ta phải sống cách nào để cho ơn cứu độ của Chúa Kitô không trở nên vô ích cho chính mình ?

Thât vậy,.như đã nói ở trên, Chúa Kitô chết trên thập giá và Phép Rửa đều không tức khắc thay đổi chúng ta thành những con người mới vẹn toàn và không bao giờ phạm tội nữa.

Sự thật trái lại là  chúng ta  vẫn yếu đuối trong nhân tính, với những khuynh hướng xấu còn để lại cho ta phải chiến đấu cho đến giây phút cuối cùng của đời mình. Ma quỷ , đich thù của chúng ta , triệt để khai thác bản chất yếu đuối  trên với sự tiếp tay của thế gian để  cố đẩy chúng ta ra  khỏi  tình yêu của Thiên Chúa, và làm mất hy vọng được cứu độ nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô.

Mặt khác, sở dĩ  con người ở khắp mọi nơi đã và đang làm những sự dữ, sự xấu như giết người, cướp của, dâm loạn, xảo trá, căm thù … là vì con người vẫn còn có tự do mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người xử dụng và phải chiu trách nhiệm trước Thiên Chúa giầu tình thương nhưng rất công bình khi phán xét con người.Chúa  không phán xét loài vật  sống thuần với bản năng mà chỉ phán đoán con người có lý trí và ý muốn tự do (  intelligence and free will) mà thội. Có tự do nên người ta  có thể chọn sống theo đường lối của Chúa để được cứu độ hay khước từ Chúa để sống theo thế gian, theo văn hóa của sự chết chổi bỏ Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, khiến mất hy vọng được cứu độ mà vào Thiên Đàng để hưởng vinh phúc đời đời với Chúa. Đó là thực trạng của con người ở khắp nơi nói chung  và của rất nhiều tín hữu ngày nay nói riêng. Đó là  những người chỉ có tên là Kitô hữu hay Công giáo, nhưng thực chất lại sống phản lại danh xưng đó.

Phản lại vì đã chọn lựa sống theo đường lối gian tà của thế gian, chạy theo những quyến rũ của tiền bạc, danh  lợi  phù phiếm, làm tay sai cho tập đoàn cai trị để  hưởng tư  lợi, đánh mất lương

tâm vì không dám bênh vực  cho chân lý, cho luân lý đạo đức, cho công bằng bác ái  và cho phúc lợi của mọi công dân.    

Chính vì con người còn có tự do để chọn lựa  yêu mến Chúa hay yêu mến thế gian và buông mình chiều theo những quyến rũ của xác thịt, ma quỷ và  trần thế ,  nên xưa kía Thiên Chúa đã nói với dân Do Thái qua miệng ông Môisê  như sau; 

     “ Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh  em chọn : hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh  em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh  em mà tôi truyền cho anh  em hôm nay.Anh  em sẽ bị nguyền rủa nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh  em, nếu anh  em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh  em phải đi, mà theo những thần khác anh  em không biết.” ( Đnl 12 : 26-28)

Nhưng vì dân Do Thái đã nhiều lần tự do chọn bất tuân mệnh lệnh của Chúa để sống  theo ý riêng của họ, nên Thiên Chúa đã nổi giận trách mắng họ như sau :

       “ Bốn mươi năm trường,  dòng giống này làm Ta chán ngán

                    Ta đã nói : đây là dân tâm hồn lầm lạc

                      Chúng nào biết đến đường lối của Ta

                         Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng

                    Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta”. ( Tv 95 (94) : 10-11)

Tuy Chúa nổi giận với họ, nhưng khi họ biết sám hối ăn năn, Chúa lại tha thứ, vì “ Người có giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương thương suốt cả đời.”( Tv 30 (29) :6)

Sau này khi đến trần gian để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đã nói với các môn đệ Người như sau :

     “ Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa! , Lậy Chúa! là được vào nước Trời cả đâu,  ! nhưng chỉ những ai thi hành  muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi.” ( Mt 7 :21)

Thi hành “ý muốn của Cha Thầy”có nghĩa là  tự ý chọn sống theo đường lối của Chúa Cha là đường ngay chính dẫn đến sự sống đời đời.Chúa Giêsu chính là con Đường đó như Người  đã nói với các môn đệ : Chính Thầy là con đường , là sự thật và là sự sống.” ( Ga 14: 6)

Do đó, bước đi theo Chúa Giêsu và quay lưng lại với thế gian, là bảo đảm chắc chắn cho phần rỗi của mọi người chúng ta.Chúa đã hy sinh chịu chết trên Thánh giá  để cứu chuộc cho mọi người và cho chúng ta hy vọng chắc chắn về ơn cứu độ như lời Chúa trong thư Do Thái sau đây:

      “Chúng  ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn chìm sâu vào bên trong bức màn Cung Thánh. Đó là nơi Đức Kitô đã vào như người tiên phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật  Men-ki-xê-đê”. ( Dt 6:19-20)

Nhưng cho được chắc chắn bước  vào “ Cung Thánh” với Chúa Kitô, nghĩa là được cứu độ để vào Nước Trời thì trước hết chúng ta phải cậy nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô, vì nếu không có công nhiệp này thì không ai có thể được cứu rỗi.

Nhưng , như đã nói ở trên, cậy nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô không thôi chưa đủ mà còn phải cộng tác với ơn cứu độ bằng quyết tâm bước đi theo Chúa Kitô,  là  Đường là sự Thật và là sự Sống.( Ga 14:6) Phải quyêt tâm từ bỏ tội lỗi và mọi gian tà thì mới có thể  đi theo Chúa và được cứu độ. Đây là một cuộc chiến rất cam go cho những ai muốn chọn Chúa và khước từ thế gian và ma quỷ, là những thế lực luôn tìm cách ngăn cản con người đến với Thiên Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Chúa Giêsu đã căn dặn các Tông Đồ xưa  hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào vì tôi nói cho anh  em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” ( Lc 13: 24).

Công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô có thể  tạm ví như một dòng  suối nước  chảy liên lỉ và vô tận.Nhưng  ai khát nước, thì  phải cúi xuống múc lấy nước mà uống , vì nước kia không có chức năng phải nhẩy  lên từ dòng suối để chẩy vào miệng kẻ khát đang nằm bên bờ suối nước.

Nếu không có suối nước thì con người phải chết khát vì không tìm được nước ở đâu mà uống.Nhưng nằm bên dòng nước cuồn cuộn chảy kia mà không cúi xuống múc lấy nước để  uống thì vẫn chết khát như thường, vì nước không khi nào nhẩy lên bờ để chảy vào miệng ai..

Như vậy, cúi xuống để múc nước từ dòng suối là nỗ lực của mỗi cá nhân cộng tác với ơn Chúa để được cứu độ. Không có nỗ lực này thì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô  sẽ vô ích cho những  ai  ỷ có công nghiệp này  rồi  cứ  sống buông thả theo  những đòi hỏi bất chính của xác thịt, cám dỗ của ma quỷ và gương xấu của thế gian, thay vì phải chiến đấu với ơn Chúa nâng đỡ để chống lại mọi khuynh hướng xấu ,  mọi cám dỗ của ma quỷ và mời mọc quyến rũ của thế gian với đầy rẫy gương xấu và dịp tội. Không thể miệng nói Lậy Chúa, lậy Chúa mà tay lại chém giết người, chân lại bước đi vào nhưng nơi tội lỗi như sòng bài, nhà điếm, nơi ăn chơi thác loạn…

Tóm lại, công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là vô giá (invaluable, priceless) và quá đủ cho con người được cứu độ.Tuy nhiên Chúa vẫn đòi hỏi con người phải có thiện chí muốn nhận ơn cứu độ của Người bằng quyết  tâm sống theo đường lối của Chúa, yêu mến Người trên hết mọi sự , yêu thương tha nhân như chính mình, và xa lánh mọi tội lỗi vì chỉ có tội mới ngăn cách và đẩy xa chúng ta ra  khỏi  tình thương, khoan dung và tha thứ.của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời.Amen.

Tóm lại, phải cậy nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và thiện chí muốn cộng tác với ơn cứu chuộc này thì mới đủ cho ta được cứu rỗi để vào Nước Trời hưởng phúc Thiên Đàng.

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, DMin.( Doctor of Ministry)

------------------------------------------