24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO -

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, Mar 13 at 12:38 AM
     

     
     
    Ảnh cùng dòng

    DỊCH VIRUS COVID-19 CÓ PHẢI LÀ DẤU CHỈ CỦA THỜI ĐẠI?

     

    Nhiều người có thể ngạc nhiên: Vì sao trước đại dịch virus Corona, Giáo Hội Công Giáo thường mời gọi tín hữu tin vào Thiên Chúa? Đó là thái độ cần thiết, bởi trải qua dòng lịch sử với nhiều biến cố, Giáo Hội nhận ra được dấu chỉ của thời đại (the signs of the times). Nơi đó, Giáo Hội đọc thấy những thông điệp Thiên Chúa đang nói với con người. Trước diễn biến phức tạp của virus Covid-19 đang bùng phát mạnh hơn trên toàn cầu, chúng ta thử xem đó có phải là dấu chỉ của thời đại.

      

    1. Thuật ngữ

     

    Với nhiều tín hữu, có thể cụm từ trên đây nghe rất lạ tai. Để tiếp cận từ này, chúng ta khởi đi từ câu đúc kết dân gian: “Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa”. Hoặc, “Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy, cơn đằng nam vừa làm vừa chơi.” Dân Việt Nam mình có biết bao câu như thế để nói về hiện tượng thời tiết, báo hiệu cho chúng ta nên ứng xử như thế nào.

     

    Trong đời sống đức tin cũng thế, dấu chỉ là một thực tại có thể thấy được, để hướng đến một thực tại khác. Dấu chỉ thời đại là những sự kiện hay hiện tượng văn hóa, xã hội, biến cố nói lên tính chất đặc thù của thời đại. Qua đó, chúng ta có thể thấy những khát vọng và nhu cầu của con người. [1] Quan trọng hơn, nơi đó người Công Giáo có thể đọc ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa.

     

    Nếu mở từng trang Kinh Thánh, chúng ta có thể thấy biết bao dấu chỉ thời cuộc trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Đó có thể là những chiến thắng vẻ vang của dân Chúa trước quân xâm lăng. Cuộc xuất hành thành công dưới sự lãnh đạo của Môsê cũng là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Người. Khi cả dân quay về với Thiên Chúa, đó là dấu chỉ cho thấy họ thực sự ăn năn. Ngược lại, khi dân xa rời Thiên Chúa, thờ thần ngoại bang, đó là dấu chỉ cho thấy dân sắp rơi vào cảnh lầm than.

     

    Sang thời Tân Ước, mỗi sách Tin Mừng đều cho thấy những dấu chỉ cần được nhận ra [2]. Chúng ta nhớ có lần Tin Mừng ghi lại đoạn Chúa Giêsu khuyên người ta cần nhận ra dấu chỉ của thời đại: “Bấy giờ, có những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc lại gần Đức Giêsu, và để thử Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ trời. Người đáp: ‘Chiều đến, các ông nói: Ráng vàng thì nắng’, rồi sớm mai, các ông nói: ‘Ráng trắng thì mưa’. Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi.” (Mt 16,1–3).   

     

    Thực ra cụm từ trên chỉ được nhắc đến vào thế kỷ XVII, nhà thần học kinh viện người Tây Ban Nha, Melchior Cano nói về lịch sử như một “nơi chốn thần học”. Sau này đức Hồng y Michael von Faulhaber (1869–1952) đã từng dùng kiểu nói: “Tiếng của thời đại, tiếng của Chúa”. Nhất là sau hai cuộc thế chiến, “dấu chỉ thời đại” trở thành cụm từ then chốt. Chẳng hạn, trong thông điệp đầu tiên của mình nơi Công Đồng Vaticano II (1962–1965), Đức Phaolô VI viết: “Phải kích thích trong Giáo Hội sự chờ đợi trong sự tỉnh thức kiên trì đối với những dấu chỉ thời đại… xác nhận tất cả những sự vật và gìn giữ điều gì là tốt trong mọi thời, cũng như trong mọi hoàn cảnh.” [3] Đòi hỏi đó không chỉ dành cho các nhà thần học, hoặc những chủ chăn của Giáo Hội; đó còn là lời mời dành cho mỗi giáo dân để biến dấu chỉ thời đại thành một khát vọng chân thành và thiết thực. (x. Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân, số 14).

     

    Ví dụ Công Đồng Vaticano II cho chúng ta một vài dấu chỉ tiêu biểu của thời đại như: khát vọng hiệp nhất (x. HN 4); vai trò của người giáo dân (x. LM 9); tình liên đới giữa các dân tộc (x. TĐ 14); quyền tự do tôn giáo (x. TD 15); lòng nhiệt thành với phụng vụ (x. PV 43).

     

    2. Dịch virus Covid-19 có phải là dấu chỉ thời đại?

     

    Nếu đọc qua những lá thư của Giáo Hội liên quan đến lần đại dịch này, chúng ta dễ dàng nghe được những lời mời gọi nguyện cầu và trở về với Thiên Chúa. Nhất là mùa dịch đang diễn ra trong Mùa Chay, lời gọi ấy lại càng thống thiết hơn. Hẳn nhiên, đó luôn là sứ mạng của Giáo Hội, để giúp con người trung tín vào Thiên Chúa. Trong cảnh dịch lan tràn như hiện nay, Giáo Hội càng nhìn thấy nơi đó một dấu chỉ lớn lao. Vì trong đau khổ và nghịch cảnh, một mặt người tín hữu dễ phớt lờ tiếng nói của Thiên Chúa trong biến cố này; mặt khác, Giáo Hội luôn giúp con người trở về với Thiên Chúa. Hoặc nói như Clive Staples Lewis [4]: “Thiên Chúa thì thầm trong những lúc ta vui, Người thì thầm trong lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn mạnh trong những đau khổ của ta. Những đau khổ đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một thế giới ngủ mê.” (x. Youcat số 51).

     

    Chắc chắn virus Corona đang ảnh hưởng không chỉ đến tính mạng nhiều người, nó còn tác động đến hầu hết khía cạnh của đời sống. Có người ví đó như cuộc chiến tranh mà toàn thế giới phải chống chọi. Mỗi tín hữu cũng không miễn nhiễm với con virus này. Cứ nhìn thành đô Rôma tráng lệ, đông đúc người hành hương, thì trước virus Corona, mọi chương trình, thánh lễ công cộng đều tạm ngưng. Điều ấy có nghĩa là người ta đang có biện pháp cực mạnh để hy vọng ngăn ngừa được sức công phá của virus.

     

    Trong bầu không khí ấy, dĩ nhiên, Giáo Hội thấy được nỗi đau đớn, hoảng sợ của người dân. Giáo Hội thấy nơi đó một lời mời gọi để con người cần hoán cải, sám hối và ăn năn nhiều hơn. Giáo Hội đang tiếp tục lắng nghe tiếng Chúa trong những biến cố của thế giới, nhất là lần đại dịch này. Phải chăng Thiên Chúa muốn nhắc cho con người về thân phận mỏng dòn, mong manh và phải chết? Phải chăng con người toàn năng có thể làm được mọi thứ, có thể tiêu diệt được địch thù đang tấn công nhân loại? Phải chăng virus Covid-19 là hệ quả của những lầm lạc và kiêu ngạo của con người? Hình như con người chia phe nhóm đấu đá, đến nỗi hậu quả là chết chóc tang thương? Hoặc là, virus này khiến thế giới bừng tỉnh về một viễn tượng thiên đường do chính con người có thể tạo nên bằng quyền lực, tranh giành và cố chấp? v.v.

     

    Danh sách câu hỏi trên đây có thể dài vô tận mà mỗi người có thể đặt ra trước con virus này. Đừng quên, Giáo Hội luôn nhớ sứ mạng của mình là chăm chú tìm kiếm, lắng nghe, khám phá tiếng nói, cũng như hoạt động của Thiên Chúa trong dòng lịch sử qua những dấu chỉ thời đại. Sẽ không thừa khi Giáo Hội thống thiết nhắc con cái mình về một dấu chỉ đang diễn ra trước mắt chúng ta. Đó là thời cơ để con người khiêm tốn hơn, nhìn nhận thân phận và vị trí của mình trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

     

    Một cách cụ thể, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhiều lần chỉ cho chúng ta nhận ra dấu chỉ của thời đại. Chẳng hạn ngài nói: “Mỗi người chúng ta đều có tự do để phân định. Nhưng để có thể phân định được, chúng ta phải biết rõ điều gì đang diễn ra.” [5] Hẳn nhiên mỗi người đều thấy điều gì đang diễn ra quanh con virus kinh khủng này. Trên mạng Internet, môi trường xung quanh, đâu đâu cũng đầy những thông tin về con virus Covid-19. Tôi phòng dịch và nhìn nhận về dịch bệnh này như thế nào?

     

    Giáo Hoàng Phanxicô chỉ cho ta một chìa khóa để nghe được dấu chỉ: “Trước hết là phải biết thinh lặng: hãy thinh lặng và quan sát. Sau đó, hãy suy tư và phản tỉnh.” [6] Đó là không gian nguyện cầu, là nhìn những gì đang diễn ra để lắng nghe tiếng Chúa. Chúa vẫn ở đó, và muốn nói nhiều điều với con người trong biến cố này. Với sự đơn sơ, chân thành cộng với việc thinh lặng, suy tư phản tỉnh và cầu nguyện, hy vọng mỗi người đọc được thông điệp của Chúa nơi hoàn cảnh không mấy yên bình này.

     

    Điều tuyệt vời cho những ai nhận ra chút dấu chỉ của thời đại là: họ không hoang mang, hoảng sợ. Ngược lại họ xác tín: “Chính Tin Mừng là Lời của Chúa Giêsu đã làm thay đổi thế giới và tâm hồn chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi tín thác vào Lời của Chúa Kitô, để mở tâm hồn đón nhận Lòng thương xót của Chúa Cha và để cho bản thân mình được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần.” [7] Gần hơn, sau khi đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho giáo dân trước dịch Covid-19, đức cha Giuse Nguyễn Năng mời gọi giáo dân “xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chữa lành và ban bình an cho nhân loại.” [8]

     

    Với quan điểm cá nhân, tôi thấy đại dịch lần này thực sự là dấu chỉ của thời đại. Nơi đó, mỗi người có thể hiểu hơn về cách Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa có thể tỏ lộ nhiều điều qua biến cố lay động toàn cầu lần này. Hay nói như Đức Giáo Hoàng Phanxicô ngày 11 tháng 3, khi ngài cầu nguyện trong biến cố này: “Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn tỏa sáng trên hành trình của chúng con như dấu chỉ của ơn cứu độ và niềm hy vọng… xin giúp đỡ chúng con biết vâng theo thánh ý Chúa Cha.” [9]

     

    3. Vài điều cần tránh khi đọc dấu chỉ thời đại

     

    Khi nói về dấu chỉ thời đại, các nghị phụ Công Đồng Vaticano II nhấn mạnh đến “sự hiện diện của Thiên Chúa và về hoạt động của Ngài.” Thật không chính xác khi thấy những dấu chỉ để quy gán cho Thiên Chúa đang trừng phạt dân. Chúa không làm ra con virus Covid-19. Ngài không tạo ra sự dữ. Xin đừng nhìn dấu chỉ thời đại này để nói rằng Chúa không thương xót con người.

     

    Covid-19 không phải là dấu chỉ cánh chung. Con người không thể biết lúc nào đến ngày cánh chung. Dấu chỉ thời đại giúp con người có thêm lý do để tin tưởng vào Thiên Chúa nhiều hơn. Thiên Chúa luôn quan phòng mọi sự. Mỗi người đều sống trong tình yêu của Ngài. Nếu hiện tại con người tin yêu Chúa, thì tương lai sẽ tốt đẹp hơn.

     

    Chiêm ngắm những gì đang diễn ra để thấy được bàn tay của Thiên Chúa. Trước dấu chỉ thời đại, người ta lại có nguy cơ đi vào lối dẫn dắt của sự dữ. Họ bi quan và thấy tuyệt vọng. Trong khi đó, Thiên Chúa mời gọi họ nhìn vào cuộc sống với niềm hy vọng lớn lao. Có Chúa là có tương lai, có bình an. Do đó, đừng để dấu chỉ thời đại dẫn bạn vào ngõ cụt.  

     

    Khi đọc dấu chỉ, chúng ta không thể đọc một mình. Chúng ta có Giáo Hội, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Xin đừng liều lĩnh suy đoán một mình. Ngược lại trong Giáo Hội, chúng ta được hướng dẫn để thấy dấu chỉ thời đại rõ hơn, khách quan hơn. Đối với Kitô hữu, để nhận ra các dấu chỉ thời đại, họ cần được Giáo Hội hướng dẫn để biết lắng nghe tiếng nói của Thần Khí và quy chiếu về Chúa Kitô [10].

     

    Đừng để tâm lý hoảng sợ, hoang mang chi phối việc đọc dấu chỉ của chúng ta. Nhất là trước biết bao thông tin tiêu cực về Covid-19, một tâm hồn bình an trong Chúa mới có thể nhận ra Chúa đang muốn nói với tôi điều gì.

     

    Khi viết về chủ đề này, Lm. Nguyễn Trọng Viễn, dòng Đa Minh, nhắc chúng ta nhớ đến sự thật này: “Nếu Thiên Chúa trong quá khứ, đã yêu thương những người thuộc về Ngài; thì Ngài không thể không yêu thương họ ngày hôm nay.”[11] Do đó, đọc dấu chỉ thời đại đòi người ta đặt cuộc đời vào vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Sẽ là sai lầm nếu thấy đau khổ hoặc sự dữ mà lãng quên tình yêu của Chúa.

     

    Tạm kết

     

    Có lẽ đề tài này quá rộng so với một bài viết ngắn trên đây. Hy vọng chút gợi ý trên để mỗi người nhìn đại dịch Covid-19 với lòng tin tưởng và hy vọng. Thiên Chúa thực sự đang “vặn loa” thật to để mời gọi con người trở về với Ngài. “Liệu tôi có biết rằng lịch sử của Chúa vẫn đang tiếp diễn hôm nay, và mãi cho đến ngày Ngài ngự đến trong vinh quang không? Tôi có đọc được các dấu chỉ thời đại và sống kiên trung với tiếng gọi của Chúa không?”[12]  

     

    Dù trong hoàn cảnh thuận lợi hoặc khó khăn, khỏe mạnh hay dịch bệnh, Giáo Hội, Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi mỗi người nhạy bén nhận ra dấu chỉ thời đại. Nó đang diễn ra trước mắt chúng ta. Ước gì mỗi người lắng nghe được tiếng nói của Chúa Thánh Thần đang lớn tiếng trong cơn dịch này.

     

    Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.
    Nguồn: 
    dongten.net

    ______________

    [1] X. Từ Điển Công Giáo, mục từ Dấu Chỉ và Dấu Chỉ Thời Đại.

    [2] Đặc biệt thánh Gioan thích dùng dấu lạ thay vì phép lạ. Theo Giuse Lê Minh Thông, O.P., điều này có ý nghĩa quan trọng trong thần học Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su là người thực hiện các dấu lạ, và chính Người cho biết ý nghĩa của dấu lạ. Chẳng hạn ý nghĩa của dấu lạ bánh hoá nhiều (Ga 6,1-15) sẽ được Đức Giê-su giải thích trong diễn từ bánh sự sống (Ga 6,25-59), v.v.

    [3] Thông điệp  Ecclesiam suam – Giáo Hội của Chúa, công bố ngày 6–8–1964.

    [4] 1898–1963, văn sĩ Anh, tác giả cuốn Ký sự Narnia.

    [5] Bài giảng Đức Thánh Cha Phanxicô, ngày 23 tháng 10 năm 2015 tại nhà nguyện thánh Marta.

    [6] Như trên

    [7] Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các nạn nhân nhiễm virus corona

     [8] X. Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn: Thông báo về dịch bệnh Covid-19 ngày 06.03.2020

    [9] Đọc thêm bài Đức Thánh Cha Phanxicô xin Đức Mẹ bảo vệ thế giới khỏi virus corona

    [10] X. Hiến chế mục vụ về giáo hội trong thế giới ngày nay, số 44.

    [11] Giuse Nguyễn Trọng Viễn OP., Dấu Chỉ Thời Đại

    --------------------------------------------

     
     
     

     

     

     
     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - 33 CÂU HỎI MÙA CHAY

33 Câu Hỏi Giáo Lý Mùa Chay

1. Mùa Chay là gì ? Mùa Chay kéo dài bao nhiêu ngày, bắt đầu và kết thúc vào ngày nào ?

Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của Đức Kitô. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc trước Thánh Lễ Tiệc Ly chiều ngày thứ Năm Tuần Thánh.

2. Kinh Thánh cho ta biết con số 40 ám chỉ những biến cố lớn nào ?

Con số 40 ( ám chỉ ) gợi nhớ 40 năm dân Do Thái Vượt Qua trong sa mạc tiến về Đất Hứa (Ds 14, 33; 32, 13), lụt Hồng Thủy kéo dài 40 đêm ngày (St 7) và cuộc chay tịnh 40 đêm ngày của Chúa Kitô trong rừng vắng trước khi rao giảng ơn cứu độ (Mt 4, 2; Lc 4, 1 – 2). Các Giáo Phụ cũng coi thời gian giữ chay tương tự thời gian bốn mươi ngày ông Môsê ở trên núi Xinai (Xh 34, 28), hoặc 40 ngày ông Êlia chạy trốn ở núi Khorép (1V 19, )…

3. Mùa Chay có mấy đặc tính ?

Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng Lễ Vượt Qua của Đức Kitô, và nhất là nhớ lại hoặc dọn mình lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Mùa Chay còn là mùa chuẩn bị các tín hữu cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua bằng sự nhiệt thành nghe Lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày.

4. Mùa Chay mang ý nghĩa gì ?

Mùa Chay là thời kỳ sám hối, cầu nguyện: Hội Thánh kêu gọi mọi người quay về với Chúa, thanh tẩy tâm hồn, từ bỏ các tật xấu, hy sinh hãm mình và làm việc bác ái. Mùa Chay cũng là thời gian huấn luyện Đức Tin của các Kitô hữu cho thêm vững mạnh, và sâu xa hơn khi nhớ lại Bí Tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận. Mùa Chay còn là mùa chuẩn bị cho anh chị em Dự Tòng đón nhận sự sống thiêng liêng nhờ việc sống tinh thần của Bí Tích Thánh Tẩy.

5. Chủ đề Sứ Điệp Mùa Chay năm 2014 của Đức Thánh Cha là gì ?

Chủ đề của Sứ điệp trích từ thư thứ hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô: “Người đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta được giàu có nhờ cái nghèo của Người” (x. 2 Cr 8,9).

6. Vì sao ĐTC chọn chủ đề này?

Vì đây là chủ đề yêu thích của Đức Thánh Cha Phanxicô; ngay từ khi khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng, ngàiđã luôn nhấn mạnh đến chiều kích này của đời sống Kitô hữu.

7. Bốn phương thế Hội Thánh quen dùng trong Mùa Chay là gì ?

Bốn phương thế Hội Thánh quen dùng trong Mùa Chay là: sám hối, ăn chay hãm mình, cầu nguyện và làm các việc bác ái.

8. Sám hối là gì ?

Sám hối là can đảm và khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm mình đã phạm.

9. Việc chay tịnh giúp con người ra sao ?

Qua việc chay tịnh, con người nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên Chúa, vì chính lúc không sử dụng lương thực Chúa ban, con người mới cảm nghiệm được tính cách bấp bênh của sức lực mình. Hơn nữa, ăn chay là muốn bày tỏ cùng Thiên Chúa rằng: Nếu không có Người, chúng ta không thể làm gì được; và qua việc thực lòng nhìn nhận tính cách hư vô của mình, con người khẩn cầu Chúa tha thứ.

10. Theo luật HT, đến tuổi nào thì buộc phải giữ chay và kiêng thịt ?

Theo luật Hội Thánh, mọi người từ tuổi thành niên (tức là 18 tuổi trọn; GL 97) cho đến khi bắt đầu 60 tuổi thì buộc phải giữ chay (GL 125 ). Còn luật kiêng thịt buộc những người từ 14 tuổi trọn trở lên.

11. Giáo Hội buộc ta phải giữ chay và kiêng thịt vào những ngày nào ?

Giáo Hội buộc ta phải giữ chay và kiêng thịt vào hai ngày Thứ Tư Lễ Tro và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (x. GL 125). Việc chay tịnh của Hội Thánh vào hai ngày này nói lên ý muốn đền tội và từ bỏ tội lỗi và đó cũng là một sự chuẩn bị để mừng lễ Phục Sinh.

12. Phụng Vụ ngày thứ Tư Lễ Tro gợi lên cho tín hữu những gì ?

Phụng Vụ ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi lên cho tín hữu ý thức về thân phận thụ tạo tội lỗi của mình. Khi nhận tro rắc lên đầu, tín hữu được nhắc nhớ: “hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”.

13. Tại sao CN thứ VI Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật Lễ Lá ?

Chúa Nhật bắt đầu Tuần Thánh gọi là Chúa Nhật Lễ Lá, vì có cuộc kiệu lá để kỷ niệm việc Chúa Giêsu long trọng tiến vào thành Thánh Giêrusalem để hoàn tất Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Tục lệ này khởi đầu tại Giêrusalem vào cuối thế kỷ thứ IV.

14. Nghi thức làm phép lá và rước lá nhắc nhở chúng ta điều gì ?

Nghi thức làm phép lá và rước lá nêu cao vương quyền của Đức Kitô, đồng thời để giúp chúng ta sống lại cảnh tượng Chúa Kitô khải hoàn tiến vào Giêrusalem. Người muốn tỏ uy quyền và vinh quang của Người để chúng ta bền vững, tin tưởng và trung thành với Người.

15. Tuần Thánh là gì ?

Tuần Thánh là tuần lễ chủ yếu của Năm Phụng Vụ, bắt đầu từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Chúa Nhật Phục Sinh.

16. Trong tuần Thánh, GH cử hành những cuộc tưởng niệm nào ?

Trong Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành cách đặc biệt hơn các biến cố trong những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu, tức là cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Người. Trong tuần lễ này, Tam Nhật Vượt Qua là những ngày quan trọng nhất.

17. Hằng năm, người Do Thái mừng lễ Vượt Qua để làm gì ?

Hằng năm người Do Thái mừng lễ Vượt Qua để tưởng nhớ lại biến cố Vượt Qua Biển Đỏ mà ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và nhắc nhở họ phải sống xứng đáng là dân riêng của Chúa.

18. Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua với mục đích nào ?

Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua để cho ta thấy trước và sống trước những thực tại của ngày cánh chung, ngày mà Chúa Kitô sẽ tập hợp tất cả chúng ta lại trong Nước của Cha Người. Mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu đã khơi mào và bảo đảm cho ta được hưởng ngày hồng phúc ấy. Hơn nữa, Hội Thánh dùng Tam Nhật Vượt Qua để đón nhận những con cái mới được sinh ra trong ân sủng, để giao hòa những hối nhân và canh tân đời sống những người đã được thanh tẩy.

19. Tam Nhật Vượt Qua có ý nghĩa gì đối với Kitô hữu ?

Tham dự Tam Nhật Vượt Qua, tín hữu được sống với Đức Kitô trong bữa Tiệc Ly, theo Người lên Núi Sọ, bước vào chốn an nghỉ của Người và chiêm ngắm Người Phục Sinh vinh hiển.

20. Tại sao Tam Nhật Vượt Qua lại là trung tâm điểm của Phụng Vụ Kitô giáo ?

Tam Nhật Vượt Qua là trung tâm điểm của Phụng Vụ Kitô giáo, bởi vì tất cả nền Phụng Vụ của Hội Thánh đều phát xuất từ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô: khổ nạn, chịu chết và phục sinh. Chúa Phục Sinh là ngày lễ Mẹ của mọi Chúa Nhật trong năm; Thánh Lễ nào cũng đều tưởng niệm và tái diễn công cuộc Vượt Qua của Đức Kitô.

21. Trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, Hội Thánh cử hành những nghi thức long trọng nào ?

Thánh Lễ Truyền Dầu được cử hành vào ban sáng do Đức Giám Mục Giáo Phận chủ tế cùng với Linh Mục đoàn để làm phép dầu Bệnh Nhân, dầu Dự Tòng và để thánh hiến Dầu Thánh. Thánh Lễ tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu được cử hành ban chiều để nhắc nhớ việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Thánh Lễ này khai mạc Tam Nhật Vượt Qua.

22. Phụng Vụ chiều thứ Năm Tuần Thánh, Hội Thánh tưởng niệm những biến cố gì liên quan đến Chúa Giêsu?

Trước hết là tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu, việc Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh Mục (x. Mt 26, 26-29), cũng như nghi thức rửa chân, biểu tượng tình yêu phục vụ của Đức Kitô (x.Ga 13,1 -20).

23. Khi cử hành nghi thức rửa chân, Hội Thánh muốn nhắc chúng ta điều gì ?

Chính vì yêu thương mà Chúa Giêsu đã hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ, như đầy tớ rửa chân cho chủ. Qua nghi thức này, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta phải noi gương Đức Kitô trong tinh thần phục vụ: “Phục vụ vì yêu thương”.

24. Kinh Thánh cho ta biết tâm trạng của Chúa Giêsu trong vườn Ghếtxêmani thế nào ?

Trong vườn Ghếtsêmani, Chúa Giêsu cảm thấy sợ sệt, buồn rầu và xao xuyến. Người đã xin Chúa Cha cho khỏi qua giờ đau khổ, khỏi phải uống chén này. Tuy nhiên, dầu sợ hãi, Người cũng sẵn sàng chết, nếu đó là Thánh ý Chúa Cha: “nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (x. Mt 26, 39; Mc 14, 35 – 36; Lc 22, 42 – 44).

25. Chén mà Chúa Giêsu xin Chúa Cha cho Ngài khỏi uống ám chỉ điều gì ?

Chén ở đây ám chỉ những thử thách và những đau khổ mà Đức Giêsu sắp phải chịu. Đó chính là cuộc thương khó của Ngài.

26. Trọng tâm của việc cử hành chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh là gì ? Tại sao ?

Trọng tâm của việc cử hành chiều thứ Sáu Tuần Thánh là nghi thức suy tôn và kính thờ Thánh Giá, vì nhờ Thánh Giá mà ơn cứu độ được ban cho chúng ta.

27. Trên Thập Giá, Đức Giêsu đã nói những lời nào ?

Lời thứ nhất: Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha xin Người tha cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34); Lời thứ hai:Đức Giêsu chấp nhận lời xin của tên trộm bị đóng đanh cùng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc, 23, 43); Lời thứ ba: Đức Giêsu trao gửi Thánh Gioan cho Đức Mẹ: “Thưa Bà, đây là Con Bà” (Ga 19, 26); Lời thứ tư:Đức Giêsu trao gửi Đức Mẹ cho Thánh Gioan: “Đây là Mẹ của anh” (Ga 19, 27); Lời thứ năm: Đức Giêsu than thở với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con !” (Mt 27, 46); Lời thứ sáu:Đức Giêsu phó thác linh hồn cho Chúa Cha: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23, 46); Lời thứ bảy: Đức Giêsu kêu khát và sau khi uống chút giấm chua, Đức Giêsu nói: “Thế là mọi sự đã hoàn tất”. Rồi Người tắt thở. (Ga 19, 30).

28. Khi chết trên Thập Giá, Đức Kitô muốn nói với chúng ta điều gì ?

Đức Kitô muốn nói rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng: “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13).

29. Tại sao gọi tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu chuộc ?

Chúng ta gọi tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu chuộc vì qua hy lễ của Đức Kitô, tình yêu Thiên Chúa giải thoát loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. (Rm 5, 8).

30. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu chết trên Thập Giá, chúng ta phải có những thái độ nào ?

Suy tôn: vì Chúa đã chiến thắng sự chết; Kính phục: vì Chúa đã hy sinh chịu chết; Cảm mến: vì Chúa đã dùng cái chết để tỏ lòng yêu thương ta; Tri ân: vì Chúa đã chịu chết để chuộc tội cho ta; Ngưỡng mộ: vì Chúa muốn chúng ta noi theo Người: “Ai muốn theo Ta, thì hãy bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”. Vì thế, chúng ta hãy giục lòng ăn năn tội và quyết tâm sống mỗi ngày một đẹp lòng Chúa Giêsu hơn.

31. Ngày thứ Bảy Tuần Thánh, Hội Thánh muốn chúng ta làm gì ?

Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Hội Thánh mời gọi chúng ta cùng với Mẹ Maria cầu nguyện bên Mồ Chúa, cùng Người suy ngắm các đau khổ, cái chết và việc mai táng của Chúa Giêsu trong niềm hy vọng và tin tưởng.

32. Trên hình Thánh Giá ở cây nến Phục Sinh, Linh Mục ghim năm hạt hợp hương mang ý nghĩa gì ?

Trên hình Thánh Giá ở cây nến Phục Sinh, năm hạt hợp hương chính là biểu tuợng của năm dấu đanh Chúa Giêsu (dấu đanh trên cổ tay trái, dấu đanh trên cổ tay phải dấu đanh trên cổ chân trái, dấu đanh trên cổ chân phải, và dấu đanh bên cạnh sườn Chúa Giêsu).

33. Dấu Thánh Giá mang ý nghĩa gì ?

Thánh Giá là dấu chỉ của sự cứu độ. Khi làm dấu Thánh Giá, chúng ta nhận biết mình thuộc về Chúa Kitô và bày tỏ niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta.

 

 

Chia sẻ Bài này:
 

Related posts

 
 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THÁNH TICH KHỔ NẠN CHÚA

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Jan 10 at 12:59 AM
     
     
     
     
     
     
     
     

    Chiêm ngắm thánh tích từ Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu tại Rome

    Dự tính có hơn 300 ngàn du khách có mặt tại Rome trong suốt Tuần Thánh. Nhiều người là khách hành hương muốn tìm kiếm trải nghiệm tinh thần. Họ sẽ tham dự các buổi lễ do Đức Giáo Hoàng chủ sự và thăm Santa Croce ở Gerusalemme.

    Các thánh tích từ Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu gồm có: mão gai, một phần của Thánh giá, cây đinh và bản khắc lý do về cái chết của Chúa Giêsu. Tòa Thánh muốn dùng từ “các vật để cầu nguyện” hơn là từ “thánh tích”. Vì các vật này chưa được xác thực chính xác, nhưng chúng đưa ra được sự hình dung về cuộc khổ nạn của Chúa và cái chết của ngài.

    Theo truyền thuyết thì thánh Helen, mẹ của Hoàng đế Constantine, đã đem các thánh tích này đến Jerusalem. Ngày nay, các thánh tích đã thu hút nhiều khách hành hương lặng ngắm và suy ngẫm về một thông điệp đặc biệt: “Các thánh tích cho tôi một cảm giác tĩnh lặng, thanh bình và hy vọng. Nếu Thiên Chúa đã chịu đau khổ vì tôi và vì nhân loại, tại sao tôi cũng không như vậy, chịu đựng một số đau khổ như ngài”.

    (Theo Romereports)

    “Theo Báo Công giáo và Dân tộc, website: cgvdt.vn”

     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO -7 ƠN CHÚA THÁNH THẦN

  •  
    nguyenthi leyen - Feb 17 at 10:57 PM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

     

    BẢY ƠN CHÚA THÁNH THẦN
     
    1. Ơn Khôn Ngoan:
    Giúp ta phân biệt điều phải, điều trái.
    2. Ơn Hiểu Biết:
    Giúp ta hiểu biết sâu xa hơn những điều Chúa và Giáo Hội dạy.
    3. Ơn Biết Lo Liệu:
    Giúp ta giải quyết mọi khó khăn trong đời sống.
    4. Ơn Sức Mạnh:
    Giúp ta chu toàn việc bổn phận và vượt qua mọi khó khăn.
    5. Ơn Thông Minh:
    Giúp ta nhận ra thánh ý Chúa.
    6. Ơn Ðạo Ðức:
    Giúp ta tin yêu Chúa và giúp đỡ anh em.
    7. Ơn Kính Sợ Thiên Chúa:
    Giúp ta tôn kính sự công bằng và quyền phép Chúa và sợ làm phiền lòng Ngài.
    BẢY ƠN CHÚA THÁNH THẦN[1]
    Định nghĩa: Ân huệ Thánh Thần là những phẩm chất thường tại Chúa ban cho linh hồn một trật với ơn Thánh sủng và các nhân đức thiên phú, để tăng cường tài năng của ta, khiến ta nên mềm mại, hầu hấp thụ các ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, kích động và thực hành các nhân đức khó nhất và cao nhất (L.Lalle ment, Cha Phạm Châu Diên dịch).
    Có bảy ơn huệ (dựa vào Isaia 10,2-3).
    - Khôn ngoan - Hiểu biết - Thông mình - Biết lo liệu - Sức mạnh - Đạo đức - Kính sợ Đức Chúa Trời.
    Trong bảy ân huệ này có bốn ơn trợ giúp trí năng ta (ơn Khôn ngoan, Hiểu biết, Thông mình, Biết lo liệu) và ba ơn trợ giúp ý chí (Sức mạnh, Đạo đức, Kính sợ), nhờ vậy, ta biết xử thế đúng tinh thần Phúc Âm, biết tiến đức mỗi ngày.
    Thí dụ: Đứng trước một vấn đề tranh chấp nghề nghiệp, nhờ ân huệ Thánh Thần giúp, ta biết giải quyết theo đường lối Phúc Âm (bác ái và công bằng), khác hẳn với những kẻ chỉ chuyên dùng sức mạnh, quyền lực thế gian.
    Thí dụ: Ta đi xưng tội: xét mình (phải dùng trí năng), giục lòng ăn năn tội (phải dùng ý chí). Vậy, muốn lãnh Bí tích Giải tội nên, phải cần tới các ân huệ Thánh Thần trợ giúp.
    1 - ƠN KHÔN NGOAN
    Bản chất – Ơn khôn ngoan (don de sagesse) giúp trí năng dựa vào những nguyên lý tối thượng (lẽ thật cao vời) để nhận ra Thiên Chúa, nhận ra những mầu nhiệm cao cả trong trạng thái chiêm niệm hoan lạc.
    Thí dụ: Thánh Tôma dựa vào sự hiện hữu, trật tự của vũ trụ để khám phá ra nguyên nhân đệ nhất tạo dựng vũ trụ là Thiên Chúa. Suy nghĩ về cuộc đời Chúa Kitô, Thánh Gioan đã lấy tình yêu làm trung điểm diễn tả mọi hoạt động của Chúa.
    Nhu cầu – Vô tri bất mộ, không hiểu thì không mến, ơn khôn ngoan giúp ta hiểu biết Chúa nhiều, càng yêu mến Chúa nhiều. Muốn được Thánh Thần ban ơn này, ta phải lãnh nhận phép Rửa tội, Thêm sức, năng cầu nguyện với Thánh Thần và suy gẫm đề tài: Thiên Chúa là nguyên nhân tạo thành mọi sự, hoặc một ưu phẩm của Ngài như Chúa là Tình Yêu.
    2 - ƠN HIỂU BIẾT
    Bản chất – Ơn hiểu biết (don d’intelligence) giúp ta hiểu biết các lẽ đạo, nhận biết các mầu nhiệm.
    Nhu cầu – Ơn này rất cần thiết cho mọi tín hữu vì nghĩa vụ phải sống đạo và truyền đạo. Có hiểu mới sống đúng tinh thần, mới nói cho kẻ khác hiểu được. Muốn tăng triển ơn này, phải yêu mến các chân lý trong đạo, năng học hỏi giáo lý.
    3 - ƠN THÔNG MINH
    Bản chất – Ơn thông mình (don de science) giúp trí năng hiểu biết mối tương quan giữa Thiên Chúa và vạn vật, biết xử dụng những của đời này cho hợp với thánh ý Chúa, biết tìm những phương thế giúp ích phần rỗi và tránh những cản trở quấy rối tâm hồn ta.
    Nhu cầu – Ơn này giúp ta giải thoát khỏi những ràng buộc vật chất, xử dụng của đời này để “mua” lấy nước Thiên đàng mà thôi. Để phát triển ơn này ta nên suy nghĩ về giá trị hữu hạn của vật chất, sự chóng qua đời này.
    4 - ƠN BIẾT LO LIỆU
    Bản chất – Ơn biết lo liệu (don de conseil) giúp ta cân nhắc tính toán để phân định điều nên, lẽ thiệt, điều phúc việc tội. Có khi Chúa Thánh Thần ban ơn này cho ta một cách đặc biệt khiến ta thấy ngay (trực giác) điều phải nói, việc phải làm. Các Thánh Tử đạo luôn được ơn này khi đứng trước tòa án.
    Nhu cầu – Trong đời sống có khi ta gặp những trường hợp liên quan tới phần rỗi mà phải giải quyết ngay. Ơn này sẽ giúp chúng ta tìm ra giải pháp hợp đạo lý. Linh mục ngồi tòa, Cha linh hướng cần ơn này lắm. Muốn phát triển ơn này, ta phải biết nhận mình hèn kém, cần ơn Chúa giúp, rồi cố gắng học hỏi Phúc Âm để biết giải quyết mọi việc đúng ý Chúa.
    5 - ƠN SỨC MẠNH
    Bản chất – Ơn sức mạnh (don de force) giúp ta thêm can đảm khiến ta có đủ nghị lực để chịu đựng hoặc đối phó với mọi tình thế thể theo ý Chúa. Các vị tử đạo có thể có gan can đảm tự nhiên, nhưng không đủ, phải có ơn này trợ giúp mới vui vẻ, sung sướng bước ra pháp trường.
    Nhu cầu – Trong đời sống của ta, ta gặp bao nhiêu nguy nan thử thách, phải có ơn sức mạnh mới giữ vững được Đức tin. Để vun trồng ơn này, ta phải nhận biết sức mình có hạn và dựa vào Thiên Chúa các đạo binh, vào sức mạnh của Chúa.
    6 - ƠN ĐẠO ĐỨC
    Bản chất – Ơn đạo đức (don de piété) nâng đỡ tâm tình yêu mến Chúa, yêu mến việc đạo đức, phát triển đức thờ phượng, tôn trọng những người những vật đã được thánh hiến (linh mục, thánh đường …).
    Nhu cầu – Lòng mộ mến Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa là điều cần thiết phải đi đôi với những việc tôn thờ bên ngoài. Ơn này giúp ta sống hiếu thảo như người con đối với Thiên Chúa và biết dùng miệng lưỡi cao rao danh Chúa. Ta nên dùng những đoạn Thánh Kinh nói về tình phụ tử giữa Thiên Chúa và ta để suy gẫm và phát triển ơn này.
    7 - ƠN KÍNH SỢ
    Bản chất – Ơn kính sợ (don de crainte) nâng đỡ tâm tình kính sợ và yêu mến Thiên Chúa. Sợ, vì Thiên Chúa Chí Thánh. Công thẳng: mến, vì Ngài tốt lành hằng thương yêu tha thứ ta.
    Nhu cầu – Không phải vì Thiên Chúa là Cha chúng ta, nên đôi lúc ta có những cử chỉ “suồng sã” (không chuẩn bị tâm hồn, ăn mặc lôi thôi trong nhà thờ…) trái lại, ta phải sợ Ngài vì Ngài là Đấng thưởng phạt và mến Ngài vì Ngài là Cha nhân lành. Nên suy gẫm về vẻ uy nghi, cao sang của Thiên Chúa, phép công thẳng của ngài và ơn Ngài kêu gọi ta tới làm nghĩa tử.

     

    ________________________________________
    [1] Trích, Lm Fx Tân Yên, Phụng Vụ Bí Tích, 1996, trang 96-99
    *****************************************************************
    ? NẾU BẠN VỪA ĐỌC XONG, THEO BẠN, BẠN ĐANG THIẾU ƠN NÀO?
    ? ƠN HUỆ NÀO CỦA CHÚA THÁNH THẦN BẠN ĐANG CẦN NHẤT?

     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LỄ BA VUA

  •  
    Kristie Phan
     
    Jan 8 at 10:19 AM
     
     
     
     
     
     
     
    GI TÊN   NGÀY L
     
    Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa?  Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?”
                
    Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu.  Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
     Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
    1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”
    Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng.  Gọi là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ ph��ơng Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm.  Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày lễ.
     
    Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
     
    Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin.  Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng.  Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm, và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng.  Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
     Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
     
    2)…Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”
     
    Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh.  Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
     
    Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì “Hiển Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa.  Thiện chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những mùa gặp gỡ.  Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.
     
    Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời.  Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời.  Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà.  Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
     
    Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa.  Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nê n quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai).  Bốn mùa gặp gỡ.
     
    3)…Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
     “Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm.  Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sắp tới.  Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
     
    Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn.  Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa.  Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
     
    Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh.  Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa.  Ơn cứu độ là phổ quát.  Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình.  Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
     
    Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
     
      Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây.  Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ.  Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm.  Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua.  Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới.  Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
     
    ĐGM Giuse Vũ Duy Thống (Trích trong Với Cả Tâm Tình
     
     
    31 - Three wise men 2.jpg 
     
     



    --Certified Virus Free by 4SecureMail.com ICSA-Certified Scanner--
    •  
      GỌI TÊN NGÀY LỄ.docx
      291.5kB