24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - SỐNG TUẦN THÁNH

VietCatholic News

Có thể bạn chưa biết điều này: Chúng ta có nhiều dịp để nhận được ơn Toàn Xá trong Tuần Thánh
Đặng Tự Do
11/Apr/2019
Tất cả chúng ta có nhiều cơ hội để nhận được ơn toàn xá (plenary indulgence) trong Tuần Thánh cho bản thân chúng ta hay nhường lại cho những người thân trong luyện ngục.

Những ơn toàn xá này được liệt kê trong “Enchiridion Indulgentiarum, Fourth Edition 1999” – Sổ Bộ Ân Xá, Ấn bản thứ Tư 1999. Tài liệu này đã được Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ dịch sang Anh Ngữ và in thành sách với tựa đề “Manual Of Indulgences: Norms and Grants” (Cẩm Nang Ân Xá: Quy tắc và Ân ban), được xuất bản lần đầu tiên vào vào tháng Sáu năm 2006 và được tái bản nhiều lần. Lần cuối là lần thứ 5 vào năm 2017.

Ngày Thứ Năm Tuần Thánh:

Một ơn toàn xá được ban cho các tín hữu sốt sắng hát kinh Tantum Ergo (Đây Nhiệm Tích Vô Cùng Cao Quý) sau Thánh Lễ Tiệc Ly ngày Thứ Năm Tuần Thánh lúc cất Mình Thánh Chúa trọng thể.

Ơn toàn xá cũng được ban cho các tín hữu chầu Mình Thánh Chúa tối thiểu 30 phút. Mỗi ngày chúng ta chỉ nhận được một ơn toàn xá. Nhưng nên nhường ơn toàn xá này cho các linh hồn. Do đó, sau khi kết thúc Thánh Lễ Tiệc Ly ngày Thứ Năm Tuần Thánh, ta nên nán lại chầu Mình Thánh Chúa ít là 30 phút.

Kinh Tantum Ergo - Đây Nhiệm Tích Vô Cùng Cao Quý:
Tantum ergo sacramentum. Venerem ur cernui. Et antiquum documentum. Novo cedat ritui. Praestet fides supplementum. Sensuu m defectui. Genitori genitoque. Laus et jubilatio. Salus honor virtus quoque. Sit et benedictio. Proced enti ab utroque compar sit laudatio. Amen

Tantum ergo Sacramentum, Veneremur cernui: Et antiquum documentum, Novo cedat ritui: Praestet fides supplementum Sensuum defectui. Genitori, Genitoque, Laus et jubilatio, Salus, honor, virtus quoque, Sit et benedictio: Procedenti ab utroque, Compar sit laudatio. Amen.

Down in adoration falling, Lo! the sacred Host we hail, Lo! o'er ancient forms departing, Newer rites of grace prevail; Faith for all defects supplying, Where the feeble senses fail. To the everlasting Father, And the Son Who reigns on high, With the Holy Ghost proceeding Forth from Each eternally, Be salvation, honor, blessing, Might and endless majesty. Amen.

Tôn vinh Thánh danh Giêsu chí thánh, ẩn thân trong tấm hình rất nhỏ mọn. Này là của ăn lương thực thiên thần, đây chính thật Ngôi Lời ẩn náu mình để ban lương thực nuôi dưỡng nhân loại. Ôi kính lạy Thánh Thể Tình Yêu. Giêsu Chúa ôi, con tôn kính Chúa. Chúa yêu con trao Mình Máu Bánh Rượu. Vì thương chúng con nên đành hạ mình, đem hiến dâng nuôi hồn chúng tử hèn. Tình yêu thương nào ai đã báo đền. Ôi kính lạy Chúa Cả trời cao. Amen


Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh:
Một ơn toàn xá được ban cho các tín hữu sốt sắng tham dự việc suy tôn Thánh Giá trong nghi thức tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Ơn toàn xá cũng được ban cho các tín hữu tự mình viếng đủ 14 chặng Đàng Thánh Giá, suy niệm và đọc thành tiếng các lời nguyện ngắm có sẵn.

Ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh:
Một ơn toàn xá được ban cho các tín hữu trong Đêm Vọng Phục Sinh (hoặc vào ngày kỷ niệm Phép Rửa Tội của riêng họ), lặp lại lời thề Rửa Tội trong bất kỳ công thức hợp pháp nào đã được phê duyệt.

Chúa Nhật Phục sinh
Đức Thánh Cha sẽ đọc thông điệp Phục sinh Urbi et Orbi gởi dân thành Rôma và toàn thế giới. Sau đó, ngài ban phép lành kèm theo ơn toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô cũng như những anh chị em tín hữu trên thế giới, theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông mới trong đó có mạng lưới điện toán toàn cầu.

Đầu Tuần Thánh
Vào ngày Thứ Hai, Thứ Ba và Thứ Tư của Tuần Thánh, chúng ta nên cố gắng tham dự các Thánh lễ và rước lễ. Đó là một trong những điều cơ bản để nhận được ơn toàn xá.

Để được ơn toàn xá, chúng ta phải hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.
Source:National Catholic Register Here are the Plenary Indulgences Available During Holy Week

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ SÁU CN5MC-C

Thứ Sáu CN5MC-C

 

HỌC HỎI-CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13

"Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.          

Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.

Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa.

Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 5-6. 7

Ðáp: Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi (x.c. 7).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.

3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. - Ðáp.

4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 10, 31-42

"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?"

Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".

Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".

Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.

Ðó là lời Chúa.

 

CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ

 

Ngày thứ 38 của Mùa Chay hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay, hành trình Mùa Chay dẫn chúng ta, cùng với Giáo Hội, qua phụng vụ lời Chúa nói chung và Bài Phúc Âm nói riêng, vào tới tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm đã khiến Người bị loài người, qua các nhân vật lịch sử thời ấy, bao gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, sát hại, nhưng nhờ thế mầu nhiệm về Người là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa càng trở nên rạng ngời sáng tỏ, đúng với chiều hướng thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái, một mầu nhiệm làm nên tất cả lịch sử loài người.
 
Đúng thế, tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô là gì, hay nói khác hơn, tột đỉnh của mầu nhiệm Chúa Kitô là chi, nếu không phải Người là Con Thiên Chúa. Trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính giả đại diện họ đang nghe Người bấy giờ, vào đến cung thánh mầu nhiệm về Người, thì qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã dẫn họ vào tận nơi cực thánh là chính bản tính Thiên Chúa của Người.
 
Hôm qua, theo bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, Chúa Kitô đã sử dụng ngôn từ của Người để tỏ mình ra, khi dẫn dân Do Thái vào tới cung thánh của mầu nhiệm về Người, ở chỗ, Người đã tỏ mình ra cho họ thấy Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai có trước tổ phụ Abraham: "Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi", Đấng mà chính vị tổ phụ là cha của tất cả những kẻ tin hướng về: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
 
Hôm nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu từ đó, từ chỗ Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, liên quan đến nhân tính của Người, dù trên trái đất này và trong xã hội Do Thái bấy giờ, Người chỉ là một con người lịch sử, Người vẫn là Đấng có trước cả tổ phụ Abraham và là Đấng chính tổ phụ Abraham phải hướng về ấy, Đấng cuối cùng đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính giả của Người bấy giờ, vào tận nơi cực thánh của mầu nhiệm về Người là thần tính của Người.
 
Bởi vì, Đấng Thiên Sai như Người không phải chỉ là Đấng được Thiên Chúa sai đến, như các vị tiên tri trong Cựu Ước, mà là chính Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng tự mình biết Thiên Chúa: "Ta biết Ngài", như Người đã khẳng định 2 lần liền trong Bài Phúc Âm hôm qua, chứ kiến thức thần linh của Người không phải làm nên bởi những gì được Thiên Chúa tỏ mình ra bằng mạc khải thần linh của Ngài, như Ngài đã làm "bằng nhiều thể nhiều cáchvới các vị tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, hay với Moisen hoặc với các vị tiên tri xưa (xem Do Thái 1:1).
 
Thần tính của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã được chính Người tự chứng bằng ngôn từ của Người như sau: "Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa". Và chính vì chủ trương này của Người, vì lời tuyên bố mà đối với người Do Thái có vẻ vô cùng bậy bạ đầy ngạo mạn ngông cuồng ấy, mà Người đã bị họ ném đá, như Thánh ký Gioan cho chúng ta biết chi tiết này ở đầu bài Phúc Âm hôm nay
 
"Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: 'Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?' Người Do-thái trả lời: 'Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa'".
 
Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nhẫn nại nhấn mạnh đến yếu tố then chốt nhất mà Người đã từng sử dụng để chứng thực về Người quả là ấng Thiên Sai", và cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16)ở chỗ, như Người tiếp tục dẫn chứng Người không bao giờ làm theo ý của Người mà là ý của Cha là Đấng đã sai Người
 
"Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
 
Chứng từ Người tự chứng về Người thực sự vừa là Đấng Thiên Sai và vì thế cũng là Con Thiên Chúa ở chỗ chỉ làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người đã gây một tác dụng trái chiều, ở chỗ tự chứng ấy của Người đã khiến cho một số là thành phần thính giả bấy giờ vẫn không tin và không thể nào tin được, còn một số khác, ở nơi khác, lại tin vào Người, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy:
 
"Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: 'Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả'. Và có nhiều kẻ tin Người". 
 
Sở dĩ còn "có nhiều kẻ tin Người" là vì lòng họ còn cởi mở, còn tha thiết với sự thật, còn muốn biết tất cả sự thật hoàn toàn khách quan về một nhân vật mà trước khi nhân vật ấy xuất hiện, họ đã từng được nghe Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị họ coi như tiên tri nói tới là "Đấng đến sau tôi, nhưng hơn tôi vì Người có trước tôi..." (Gioan 1:30). Họ đã chấp nhận chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về Đấng cao cả đến sau ngài mà họ nhờ đó đã có thể tin vào chính Đấng đến sau đó. 
 
Mầu nhiệm thần linh về một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, như được chính Chúa Kitô tỏ ra cho dân Do Thái biết vào "thời điểm viên mãn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" (Do Thái 1:1) của Người bấy giờ, một mầu nhiệm đã trở thành nguyên cớ cho cuộc khổ nạn và tử giá của Người, từ chỗ "họ tìm cách bắt Người" trong bài Phúc Âm hôm nay, đến chỗ "họ quyết định giết Người" trong bài Phúc Âm ngày mai, đã được chính Người, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, trong Bài Đọc 1 hôm nay, thốt lên có vẻ thảm não như sau:
 
"Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: 'Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó'. Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa".
 
Tuy nhiên, chính vì "Tôi tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà Người sẵn sàng chấp nhận những gì xẩy ra cho Người, vì Người là Đấng Thiên Sai, Đấng chỉ đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, dù ý của Ngài có khiến Người phải vô cùng khốn khổ đến đâu chăng nữa. 
 
Nhưng cuối cùng Người vẫn có thể "lấy lại sự sống" của Người, nghĩa là sự sống vô giá của Người không phải là đồ bỏ hay có thể bị tận diệt, mà là cái giá quí báu duy nhất bất khả thiếu để cứu chuộc nhân loại và để trở thành sự sống đời đời vô giá cho loài người nói chung và những ai tin Người nói riêng. 
 
Đó là lý do cuối Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, Người đã tỏ ra hân hoan phấn khởi mà vang lên những lời lẽ đầy hứa hẹn như sau: "Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".
 
Tâm tình của Chúa Kitô Thiên Sai trong Bài Đọc 1 hôm nay, phản ảnh Bài Phúc Âm cùng ngày, còn được tiếp tục âm vang ở Bài Đáp Ca trong ngày như sau:
 
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. 
 
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. 
 
3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. 
 
4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

MC-V.6.mp3  

------------------------------

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

CHÚA GIÊSU CÓ THỰC SỰ CHẾT NHƯ GIÁO HỘI DẠY HAY KHÔNG?

 

Hỏi:

Nhân Mùa Chay thánh  tưởng niệm sự đau khổ, chết và phục sinh của Chúa Kitô, xin cha giải thích  ba câu hỏi  sau đây:

  • Chúa Giêsu có thực sự chết như Giáo Hội vẫn dạy hay không,  vì có một Giám mục kia đã nói: “Chúa Giêsu đâu có chết. Đó chỉ là cách nói cho có vẻ bi thảm mà thôi!”
  • Những người sinh ra và chết trước khi Chúa Giêsu ra đời và hoàn  tất công cuộc cứu chuộc cho nhân loại thì  tất cả ở đâu và khi nào mới được vào Thiên Đàng?
  • Những người không được biết Chúa Kitô và Phúc Âm của Chúa thì có được cứu rỗi  hay không?

 

Trả lời:

  • Về câu hỏi thứ nhất, tôi không tin có một Giám mục hay Linh mục Công giáo nào lại dám nói như vậy. Có chăng chỉ có những vị ở ngoài Công Giáo như Anh Giáo ( Anglican Communion) và các nhánh Tin Lành như Methodist, Lutheran, Baptist, Episcopal …. Được biết, tất cả các gíáo phái ngoài Công Giáo như Anh giáo (Anglican) và Tin Lành . .đều có chức giám mục  (có cả nữ giám mục nữa!) nhưng  họ không thuộc truyền thống Tông Đồ (Apostolic succession) như các Giám mục trong Giáo Hội Công Giáo La Mã và Chính Thống Giáo Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) cho nên  họ cũng  không hiệp thông, vâng phục Giám Mục Rôma, tức Đức Giáo Hòang  là Thủ lãnh Giám mục Đoàn (Head  of College of Bíshops) và là Chủ Chăn tối cao  của Giáo Hội Công Giáo hòan vũ (Supreme Pastor of The Universal Catholic Church).

Vì thế , có thể có những “giám mục” ngoài Công Giáo   đã dạy dỗ sai lầm hay mâu thuẫn với các Giám mục Công Giáo, hiệp thông trọn vẹn với Đức Thánh Cha trong sứ vụ rao giảng Tin  Mừng Cứu Độ,  bảo vệ chân lý và đức tin Công Giáo tinh tuyền.

Trong niềm tin của Giáo Hội Công Giáo , dựa trên Kinh Thánh,( Holy Scriptures) Thánh Truyền (Tradition) và Mặc khải (Revelation) thì Chúa Giêsu là “Thiên Chúa thật, đồng bản tính với Chúa Cha  và Chúa Thánh Thần” (Kinh Tin Kinh Nicene). Nhưng Ngài cũng lá CON NGƯỜI thật, được  Đức Trinh nữ Maria sinh ra nhờ  quyền năng của Chúa Thánh Thần. Như thế, Chúa Giêsu có hai bản tính không hề tách biệt nhau: đó là Thiên Tính và nhân tính.(divine and human nature).  Ngài chính  là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (Jn 1:14.)

Nhưng tại sao Chúa Giêsu phải chịu chết trên thập giá năm xưa, một sự kiện  lịch sử mà không ai có thể chối cãi được?

Chúa có thực chết hay “giả vờ” chết để bi thảm hóa sự viêc như có ai đã nói?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết, chúng ta cần nhớ lại  rằng sự chết là hậu quả đương nhiên của tội lỗi mà  con người đã mắc phạm như Thiên Chúa đã nói với Adam và Eva  xưa: “...ngày nào ngươi ăn (trái cấm) chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (St 2:17)

Thánh Phaolô cũng giải thích thêm  như sau về nguyên nhân gây ra sự chết cho con người: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự  chết đã lan tràn  tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội(Rm 5:12)

Như thế ,mọi người phải chết vì đó là hậu quả của tội lỗi. Không ai có thể tránh được hậu quả này trừ Chúa Giêsu và Mẹ Maria, tuy mang thân xác con người nhưng không hề vướng mắc  tội tổ tông và mọi tội cá nhân khác. Nhưng Chúa Giêsu đã chết trong thân xác con người của Chúa không  phải vì hậu quả của tội lỗi như mọi người trong chúng ta,  vì Chúa hoàn toàn vô tội  Người  vô tội, nhưng đã tự hiến chịu chết thay cho kẻ tội lỗi  như Thánh Phaolô đả nói rõ  như sau:

 “Thiên Chúa đã sai  chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi của chúng ta để đền tội chúng ta. Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình.” (Rm 8:3)

Đó là tất cả lý do vì sao Chúa Giêsu đã vui lòng vác thập giá, chịu mọi cực hình để cuối cùng  “đã phải nếm sự chết là để cho mọi người được cứu độ nhờ ơn Thiên Chúa”(Dt 2:9).

Chính Chúa Giêsu cũng đã xác nhận điều này trong Sách Khải Huyền (Revelation) như sau: “Ta là Đấng Hằng Sống. Ta đã chết và nay Ta sống muôn đời muôn thuở, và Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ.” (Kh1: 18)

Như thế, rõ rệt là Chúa Giêsu đã thực sự chết trong thân xác nhân loại của Ngài qua bằng chứng Kinh thánh nêu trên và   giáo lý sau đây của Giáo Hội:

   “Cái chết của Chúa Giêsu đã là một cái chết  thực sự chấm dứt sự sống con người   trần thế của Ngài. Nhưng vì sự hiệp nhất của thân xác Ngài với ngôi vị của Chúa Con, nên thân xác đó đã không trở thành một tử thi như những cái xác khác “vì thần lực của Chúa đã tránh cho thân xác Chúa Kitô khỏi bị thối nát” (Th. Toma, S.th 3,51,3). (x. SGLGHCG số 627)

Chính vì thân xác của Chúa không bị hư nát qua sự chết như mọi xác con người nên  ngày thứ nhất trong tuần khi các phụ nữ đến viếng Mộ Chúa, “họ  thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mồ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài của Chúa đâu cả” (Mt 24:3)

. Họ không thấy xác Chúa vì Ngài đã sống lại trong một thân xác sáng láng tốt lành khác thường  đến nỗi Maria  Mac-đa-la đã không nhận ra Chúa khi Người hiện ra, đứng bên cạnh bà, đang khóc  vì tưởng ai đã lấy trộm xác Chúa. (Ga: 20:11-14)

Tóm lại, với Thiên tính và địa  vị là Thiên Chúa Ngôi Hai thì Chúa Giêsu không thể chết được. Nhưng với bản tinh nhân lọai và quả thực mang thân xác con người thi Chúa đã thực sự chết  thay cho nhân loại tội lỗi trên thập giá năm xưa như Kinh Thánh Tân ƯỚc đã  ghi chép. Kinh Thánh còn cho biết thêm là sau  khi linh hồn Ngài lìa khỏỉ xác,  Chúa Giêsu đã xuống nơi gọi là “Ngục Tổ Tông” hay Âm  phủ để “rao giảng cho các vong linh bị giam cầm ở đó. (1 Pr 3: 19)

2-Trên  đây là giải đáp cho câu hỏi thứ 2  về những người đã sinh ra và chết trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời.

.Các vong linh mà Chúa Giêsu đã đến  để loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho họ ở ngục Tổ Tông chính là  các  linh hồn của những người lành thánh đã chết  trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu xuống trần gian để thi hành Công Trình Cứu Độ của Thiên Chúa. Họ chưa được vào Thiên Đàng ngay vì Chúa Kitô chưa hoàn tất công cuộc  cứu chuộc của  Ngài. Vì thế ,sau khi Chúa  đã hòan tất qua Hy Tế thập giá, Ngài đã xuống nơi  họ đang bị giam cầm để loan báo Tin Mừng cứu độ cho họ và dẫn đưa họ vào Thiên Quốc hưởng  vinh phúc đời đời với Thiên Chúa.

              Về điểm này, Giáo lý của Giáo Hội cũng dạy rõ như sau:

  Tân Ước đã nhiều lần khẳng định rằng Chúa Giêsu “đã phục sinh từ cõi những người chết” (Cv 3,45; Rm 6,1; 1Cr 15,20). Điều này giả thiết rằng, trước khi sống lại, Ngài đã ở trong  cõi những người chết  (She’ol=Hades=Abode  of the dead). Đó là ý nghĩa đầu tiên trong những lời giảng dạy của các Tông Đồ về  việc Chúa Giêsu đã xuống âm phủ, (tức nơi cư ngụ của những người lành đã chết từ bao đời trước đó.) Chúa Giêsu đã chết như mọi người và linh hồn của Ngài đã liên kết  với họ tại cõi người chết này. Nhưng Ngài xuống đó với tư cách là Chúa Cứu Thế đến công bố Tin Mừng cho những vong linh đang bị giam cần ở đây.’’ (x.SGLGHCG, số 632; 1Pr 3: 18- 19)

 

      3-Về câu hỏi thứ ba, xin được trả lời như sau :

Trước hết, cẳn cứ và lời Chúa trong  những câu Kinh Thánh sau đây:

                  a-   “Chỉ có một Thiên Chúa

                       Chỉ có một Đấng trung gian

                    Giữa Thiên Chúa và lòai người

                  Đó là một con người, Đức Kitô Giê su

               Đấng đã tự hiến làm giá chuộc  mọi người (1Tm 2:5-6)

 

   b-Nghĩa là,  Ngòai Người (Chúa Giêsu) ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân lọai, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4: 12)

Như thế có nghĩa là tất cả những ai đã được cứu rỗi và muốn được cứu rỗi thì đều phải nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô-Giêsu, vì chỉ môt mình Ngài là Đấng trung gian duy nhất  giữa Thiên Chúa và loài người trong việc mang lại ơn cứu độ này mà thôi. Nói rõ hơn,  những  ai đã sinh ra và chết  đi trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu sinh ra và hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân lọai của Ngài qua Hy Tế thập giá, thì đều phải nhờ công ơn cứu chuộc  vô giá này  để được vào hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Điều này cũng áp dụng cho tất cả những ai sinh ra và chết đi sau Chúa Giêsu và cho đến ngày mãn thời gian, tức là cho đến tận thế. Tất cả đều phải nhờ Danh Chúa Kitô và công nghiệp cứu chuộc của Ngài để đựợc cứu độ.

Đó là chân lý đã được mạc khải cho chúng ta qua những câu kinh thánh  trích trên đây.

Cũng liên quan đến câu hỏi thứ 3, về  trường  hợp  những người  không được biết Chúa Kitô, không được chịu phép rửa và  không biết gì về  Phúc Âm của Chúa thì sao?

Nếu họ không biết Chúa, vì không có ai rao giảng cho họ biết, thì đó không phải là lỗi của họ. Nhưng nếu họ đã  “ăn ngay ở lành” sống theo sự hướng dẫn của lương tâm để làm điều lương thiện  và tránh sự dữ, sự gian ác, thì họ vẫn có thể được hưởng ơn cứu độ của Chúa.Kitô. Cụ thể, đó trường hợp cha ông chúng ta sinh ra và chết đi trước khi Đạo thánh Chúa được rao giảng ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 16,  thì dĩ nhiên các ngài không được  biết Chúa và nghe Phúc Âm của Người. Nhưng đó không  phải vì lỗi của họ vì không có ai rao giảng cho họ biết.. Tuy nhiên,  nếu họ  đã cố gắng  sống theo tiếng nói của lương tâm, và trong thâm sâu, vẫn ước mong tìm Chân lý  tức là tìm gặp Chúa  thì  họ  cũng có thể được cứu rỗi nhờ công nghiệp Chúa Kitô như Giáo Hội dạy. (x SGLGHCG, số  847, Lumen Gentium (LG)số 16), .vì “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta,  muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”. (1 Tm 2 :4)

Ngược lại, những người đã được rửa tội, đã gia nhập Giáo Hội, đã biết Chúa Kitô và Phúc Âm của Chúa, nhưng lại không quyết tâm sống theo đường lối của Chúa và xa lánh mọi tội lỗi cùng mọi  sự dữ, và  gian ác  thì sẽ không được cứu độ vì :

không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lậy Chúa! Lậy Chúa! là được vào Nước trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa quyết tâm bước đi theo Chúa Kitô là Đường là Sự Thật và là sự Sống (Ga 14: 6)) để hoàn toàn khước từ  mọi quyến rũ của ma quỉ tinh quái, của thế gian với đầy rẫy gương xấu dịp tội , và  của xác thịt ươn hèn, luôn hướng  chiều về sự xấu, sự tội trong bản thân mỗi người chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng trên trần thế. Do đó, muốn được cứu độ thì phải thực tâm cộng tác với ơn Chúa để yêu mến Người  trên hết mọi sự và xa tránh mọi tội lỗi thì mới có hy vọng được cứu rỗi. Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai coi nhẹ việc quyết tâm sống cho Chúa và  chừa bỏ  mọi tội lỗi, vì chỉ có tội mới làm cho ta xa cách Thiên Chúa mà thôi. Amen.

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra. Xin chân thành  cám ơn quí độc giả.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

-------------------------------

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ HAI CN5MC-C

Thứ Hai N5MC-C

 

HỌC HỎI- CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

                                                                     

Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)

"Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.

Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.

Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".

Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".

Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.

Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.

Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.

Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".

Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".

Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: "Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".

Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.

Ðó là lời Chúa.

 Hoặc đọc bài vắn này: Ðn 13, 41c-62 từ chỗ "họ lên án tử hình cho bà"

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).

Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 8, 12-20

"Ta là sự sáng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".

Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".

Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".

Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".

Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy niệm

 

 

Ngày Thứ Hai trong Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về Người.

Nếu bài Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo đều chia rẽ nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người tự mình chính thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi. Nếu tuần trước Người nói Người không tự làm chứng về mình thì tuần này Người không thể không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng chính Người.

 

Thật vậy, tuần trước, các bài Phúc Âm nói chung theo Thánh ký Gioan, cách riêng bài Phúc Âm cho Thứ Năm của tuần trước ấy, Chúa Giêsu đã không tự chứng hay chưa tự làm chứng về Người: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà là minh chứng về mình bằng 3 chứng từ khác nhau liên quan đến bản thân và nguồn gốc của Người: 
 
1- Chứng từ thần linh liên quan đến Cha là Đấng đã sai Người: "Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực"; 
 
2- Chứng từ nhân loại liên quan đến Tiền Hô Gioan Tẩy Giả: "Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật"; 
 
3- Chứng từ Thánh Kinh liên quan đến mạc khải thần linh: "Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".
 
Tuần này, ngay ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức và công khai tự làm chứng về Người và cho Người, vì tự Người và chính Người là "chân lý", là "sự thật" (Gioan 14:6), một chân lý tỏ mình ra như ánh sáng không thể nào không soi chiếu, nên ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đã ngang nhiên và trịnh trọng tuyên bố: "với những người biệt phái rằng: 'Tôi là sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
 
Tất nhiên, khi Người xưng mình ra như thế, đối với trần gian thì có vẻ như Người khoe khoang, ngạo mạn, nên một giòng điện dương khi chạm phải cùng một giòng điện dương chắc chắn không thể nào không tóe lửa, nghĩa là vì cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà thành phần bản chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người bấy giờ là "những người biệt phái" đã không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".
 
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho Người là những gì hoàn toàn chân thực và chính xác, qua chính câu Người trả lời cho thành phần không tin Người và không chấp nhận lời tuyên bố của Người: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".
 
 
Đó là lý do Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thành phần thính giả của Người biết lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người về chính bản thân Người là Đấng đã biết rõ về mình, "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", chỉ vì: 
 
"Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".
 
Trong câu này, Chúa Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ thấy được lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người là vì họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo chân lý, mà còn cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, vì theo nguyên tắc thì chứng của hai người là chứng thật, và vì thế chứng từ của Người là xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là chính bản thân Người lẫn Cha của Người là Đấng đã sai Người làm chứng cùng một điều về Người. 
 
Và chính vì Chúa Giêsu nại đến Cha của Người là một trong hai người làm chứng về Người nên Người đã được thành phần thính giả của Người thách thức đặt vấn đề: "Cha của ông đâu?", Đấng mà Người đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đã cho thành phần thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".
 
Không biết khi được Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đã cảm thấy ra sao, nhưng chắc chắn tâm can của bà đã trải qua một cảm nghiệm thần linh rất sâu xa lạ lùng: "Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm lòng tri ân cảm tạ của bà đã trào dâng lên những tâm tình càng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa hơn: "dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con", đúng như trong Bài Đáp Ca hôm nay:
 
1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. 
 
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. 
 
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
 
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. 
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

 

 MC.V-2.mp3

----------------------

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ TƯ CN4MC-C

Thứ Tư CN4MC - C

 

HỌC HỎI- CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Is 49, 8-15

"Ta đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Trong thời thuận tiện, Ta đã nghe lời ngươi; trong ngày cứu độ, Ta đã cứu giúp ngươi; Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để ngươi nói với tù nhân rằng: "Các ngươi hãy ra", và nói với những kẻ ở trong tối tăm rằng: "Các ngươi hãy ra ngoài sáng". Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên.

Trời hãy ca ngợi, đất hãy nhảy mừng, núi đồi hãy hân hoan chúc tụng! Vì Chúa đã an ủi dân Người và sẽ xót thương những người cùng khổ.

Nhưng Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 13cd-14. 17-18

Ðáp: Chúa là Ðấng nhân ái và từ bi (c. 8a).

Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.

3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Ðây là lúc thuận tiện. Ðây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 5, 17-30

"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:

"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy niệm

 

 

Sự Sống thông ban

 

Hôm nay, Thứ Tư trong Tuần IV Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, và được chính Chúa Kitô bắt đầu chứng thực cho dân do Thái biết bằng các cuộc đối đáp giữa Người và họ.   
 
Như đã nhận định từ hôm Thứ Hai tuần này, chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho ngày trong tuần liên tục suốt 2 tuần cuối cùng IV và V của Mùa Chay, nhất là từ hôm nay trở đi, sau hai bài về 2 phép lạ Người làm như được thuật lại ở bài Phúc Âm Thứ Hai hôm kia và Thứ Ba hôm qua. 
 
Phép lạ Người chữa lành cho một nạn nhân yếu liệt 38 năm vào ngày hưu lễ ở Bài Phúc Âm hôm qua đã trở thành như đầu mối cho cuộc đụng độ bắt đầu công khai hỏa giữa Chúa Giêsu và dân Do Thái nói chung, nhất là thành phần biệt phái và lãnh đạo của họ.
 
Đó là lý do ngay sau phép lạ chữa lành cho nạn nhân yếu liệt 38 năm vào ngay ngày hưu lễ ở bài Phúc Âm hôm qua, Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm ngay sau biến cố then chốt này như sau: "Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". 

 
Chúa Giêsu đã lợi dụng chính vấn đề ngày hưu lễ cần phải nghỉ ngơi theo luật lệ và thông lệ của dân Do Thái để mạc khải cho họ thấy tất cả ý nghĩa sâu xa về việc làm đối với Đấng hiện hữu luôn sống động và năng động không bao giờ nghỉ ngơi, như chính Chúa Kitô khẳng định ở ngày đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". 


Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho việc "người Do-thái chống đối (Người) vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". Nghĩa là sở dĩ Người "hay chữa bệnh ngày sa-bát" là vì "Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Đúng thế, nếu căn cứ vào luật phải nghỉ ngày hưu lễ, tức là ngày thứ bảy, là vì ngày thứ bảy là ngày chính Thiên Chúa đã nghỉ, hoàn toàn không còn tiếp tục việc tạo dựng của Ngài như 6 ngày trước đó nữa, thì Chúa Giêsu đã làm điều sai trái, ở chỗ Người chẳng những phạm luật Moisen (cũng là luật Thiên Chúa ban cho dân do Thái qua ông) mà Người còn không đúng với ý nghĩa của ngày thứ bảy ban đầu nữa (xem Khởi Nguyên 2:2-3).


Tuy nhiên, nếu hiểu đúng nghĩa của ngày thứ bảy, thời điểm Thiên Chúa nghỉ việc tạo dựng, nhưng lại là thời điểm được thánh hóa: "Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày này..." (Khởi Nguyên 2:3). Nghĩa là ngày thứ bảy là ngày thánh trong tuần, ngày để làm những việc thiêng liêng với Chúa và lành thánh với tha nhân, xa lánh những mối bận tâm trần thế, chỉ chú tâm đến phần hồn hơn là phần xác (như làm việc xác v.v.). Đó là lý do Kitô giáo đã giữ ngày Chúa Nhật, thay ngày thứ bảy, vì là ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Kitô phục sinh. Chúa Kitô đến không phải để hủy lề luật mà làm cho nó nên tọn là như thế.


Con người ta là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên sau cùng nhưng lại là loài tạo vật được Ngài chăm chú tạo dựng một cách rất đặc biệt theo chủ ý riêng của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-28). Bởi thế, sau khi tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài, Ngài đã tiếp tục ở với con người, tiếp tục tỏ mình ra cho họ, nghĩa là thánh hóa họ, một việc thánh hóa chỉ xẩy ra trong ngày thứ bảy là thời điểm Ngài nghỉ việc tạo dựng bề ngoài để chuyên vào việc thánh hóa bề trong, ở chỗ làm cho con người tin vào Ngài, như Chúa Giêsu đã khẳng định về công việc của Cha Người: "Công việc của Thiên Chúa đó là hãy tin vào Đấng Ngài sai" (Gioan 6:29).


Vậy Chúa Giêsu chữa lành trong ngày thứ bảy là một việc rất chính đáng, chẳng những nên làm mà còn cần phải làm nữa, vì việc chữa lành của Người hợp với mục đích của ngày thứ bảy là ngày làm việc lành thánh, ngày thánh hóa con người, để nhờ được chữa lành nạn nhân đương sự và những ai quen biết đương sự tin vào Người mà được cứu độ, đúng như bản chất việc làm của Thiên Chúa trong ngày thứ bảy là ngày thánh, ngày Ngài thánh hóa con người nơi việc tỏ mình ra của Con Ngài, Đấng Ngài muốn con người tin tưởng mà được cứu độ và thánh hóa.


Chúa Giêsu quả thực đã chí lý khi cho dân Do Thái bấy giờ biết lý do tạo sao Người hay chữa lành vào ngày thứ bảy, đó là vì "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc".Trong bài Phúc Âm hôm nay, ở đoạn ngay sau đó, Người còn cho họ biết "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy". Chẳng hạn, như Người trưng dẫn một việc quan trọng và chính yếu nhất của ngày thứ bảy là ngày thánh hóa đó là: "Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tùy ý Người", nên "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời". 



 
Cho dù việc Người làm phép lạ trong ngày hưu lễ chính đáng và chí lý mấy đi nữa, đúng như mục đích và ý nghĩa của ngày thứ bảy theo ý định thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một hành động phạm luật và sai trái, nên Người đã bị "
người Do-thái chống đối", vậy mà Người lại còn như đổ thêm dầu vào lửa qua cách xưng hô của Người với Đấng đã sai Người, mà tình hình căng thăng và đụng độ càng trở nên kịch liệt hơn nữa, đến độ họ tìm cách sát hại Người, như Thánh ký Gioan ghi nhận ở ngay câu Người nói: "Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa".
 
Thế nhưng là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tối tăm không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Chúa Giêsu đã lợi dụng cái tối tăm và lầm lạc của dân Người nơi chính tình trạng rất đạo đức tốt lành của dân mình, ở chỗ họ hết sức bảo vệ luật lệ (liên quan đến phép lạ Người làm vào ngày hưu lễ) và coi trọng phẩm vị cao cả của Thiên Chúa (liên quan đến lời Người xưng hô với Thiên Chúa), nhưng không hoàn toàn phản ảnh tất cả sự thật của mạc khải thần linh mà Người là tột đỉnh và là tất cả. 
 
Bởi thế, qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã chứng thực về Người liên quan đến mối liên hệ mật thiết với Cha của Người là Đấng đã sai Người, bằng cách Người đã nói cho họ biết rõ: Người và Cha cùng làm một việc như nhau (1); Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người và vì thế không ai có thể đến cùng Cha mà không qua Người (2), và Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho những ai tin vào Người, bằng không sẽ bị chính Người là Đấng có quyền xét xử những ai không tin vào Người (3).
 
1- Người và Cha cùng làm một việc như nhau: "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý Ngài". 
 
2- Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người và vì thế không ai có thể đến cùng Cha mà không qua Người: "Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống". 
 
3- Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho những ai tin vào Người, bằng không sẽ bị chính Người là Đấng có quyền xét xử những ai không tin vào Người: "Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

Qua lời tự chứng của Chúa Kitô về bản thân Người trong bài Phúc Âm hôm nay, như vừa được thứ tự tóm gọn làm 3 đoạn trên đây, chúng ta thấy Người muốn chứng thực với dân Do Thái rằng: 
 
1- Người quả thực là Đấng Thiên Sai của họ, từ Cha mà đến: "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy"; 
 
2- Nên Người chỉ làm những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn Người làm: "Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta";  
 
3- Mà việc Người cần phải làm trên hết theo đúng như ý muốn của Cha đó là ban sự sống của Người cũng là của Cha cho loài người: "cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý Ngài... Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy";


4- Vì con người tạo vật, bởi nguyên tội, đã bị băng hoại và sống trong chết chóc, cần được hồi sinh và tái sinh: "đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống...  vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử". 
 
5- Và đường lối để được sự sống đó là nhận biết Đấng Thiên Sai và chấp nhận những gì Người mạc khải cho biết: "Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống".
 

Đúng thế, mục đích chính yếu và duy nhất Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh thần linh của Ngà
i và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27) đó là cho họ được hiệp thông thần linh với Ngài, để họ được tham phần vào sự sống thần linh của Người và với Người. 
 
Cho dù loài người, bởi nguyên tội, đã đánh mất sự sống thần linh vô cùng cao quí này từ mối hiệp thông thần linh ngay từ ban đầu ấy, Thiên Chúa vẫn tìm cách ban lại cho họ, ở một mức độ còn dồi dào sung mãn hơn nữa, nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14). 
 

Ở Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu không bao giờ bỏ rơi nhân loại được Ngài cố ý dựng nên để làm con cái của Ngài, để yêu thương họ và cho họ thông phần vào sự sống của Ngài: "
Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".
 
Chính vì Thiên Chúa luôn chăm sóc cho tạo vật vô cùng thấp hèn lại tội lỗi vô cùng khốn nạn của Ngài như thế mà Ngài "đã yêu thế gian đến ban Con Một của Ngài để ai tin vào Con thì không phải chết nhưng được sự sống" (Gioan 3:16), đúng như những gì chính Chúa Kitô đã nói về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay, một Người Con đã được báo trước trong Bài Đọc 1 cùng ngày về sứ vụ giải phóng của Người để mang lại sự sống mới cho những ai được trao phó cho Người
 
"Nên giao ước của dân, để người phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để người nói với tù nhân rằng: 'Các ngươi hãy ra', và nói với những kẻ ở trong tối tăm rằng: 'Các ngươi hãy ra ngoài sáng'. Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên".
 
Trước một Vị Thiên Chúa yêu thương nhân hậu đối với nhân loại lầm than khốn khổ cần được cứu độ như thế, con người không thể nào không cùng với thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay dâng lên Ngài những cảm nhận thần linh chí thiết sau đây:
 
1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. 
 
2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. 
 
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

 MC.IV-4.mp3