24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

CHÚA GIÊSU CÓ THỰC SỰ CHẾT NHƯ GIÁO HỘI DẠY HAY KHÔNG?

 

Hỏi:

Nhân Mùa Chay thánh  tưởng niệm sự đau khổ, chết và phục sinh của Chúa Kitô, xin cha giải thích  ba câu hỏi  sau đây:

  • Chúa Giêsu có thực sự chết như Giáo Hội vẫn dạy hay không,  vì có một Giám mục kia đã nói: “Chúa Giêsu đâu có chết. Đó chỉ là cách nói cho có vẻ bi thảm mà thôi!”
  • Những người sinh ra và chết trước khi Chúa Giêsu ra đời và hoàn  tất công cuộc cứu chuộc cho nhân loại thì  tất cả ở đâu và khi nào mới được vào Thiên Đàng?
  • Những người không được biết Chúa Kitô và Phúc Âm của Chúa thì có được cứu rỗi  hay không?

 

Trả lời:

  • Về câu hỏi thứ nhất, tôi không tin có một Giám mục hay Linh mục Công giáo nào lại dám nói như vậy. Có chăng chỉ có những vị ở ngoài Công Giáo như Anh Giáo ( Anglican Communion) và các nhánh Tin Lành như Methodist, Lutheran, Baptist, Episcopal …. Được biết, tất cả các gíáo phái ngoài Công Giáo như Anh giáo (Anglican) và Tin Lành . .đều có chức giám mục  (có cả nữ giám mục nữa!) nhưng  họ không thuộc truyền thống Tông Đồ (Apostolic succession) như các Giám mục trong Giáo Hội Công Giáo La Mã và Chính Thống Giáo Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) cho nên  họ cũng  không hiệp thông, vâng phục Giám Mục Rôma, tức Đức Giáo Hòang  là Thủ lãnh Giám mục Đoàn (Head  of College of Bíshops) và là Chủ Chăn tối cao  của Giáo Hội Công Giáo hòan vũ (Supreme Pastor of The Universal Catholic Church).

Vì thế , có thể có những “giám mục” ngoài Công Giáo   đã dạy dỗ sai lầm hay mâu thuẫn với các Giám mục Công Giáo, hiệp thông trọn vẹn với Đức Thánh Cha trong sứ vụ rao giảng Tin  Mừng Cứu Độ,  bảo vệ chân lý và đức tin Công Giáo tinh tuyền.

Trong niềm tin của Giáo Hội Công Giáo , dựa trên Kinh Thánh,( Holy Scriptures) Thánh Truyền (Tradition) và Mặc khải (Revelation) thì Chúa Giêsu là “Thiên Chúa thật, đồng bản tính với Chúa Cha  và Chúa Thánh Thần” (Kinh Tin Kinh Nicene). Nhưng Ngài cũng lá CON NGƯỜI thật, được  Đức Trinh nữ Maria sinh ra nhờ  quyền năng của Chúa Thánh Thần. Như thế, Chúa Giêsu có hai bản tính không hề tách biệt nhau: đó là Thiên Tính và nhân tính.(divine and human nature).  Ngài chính  là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (Jn 1:14.)

Nhưng tại sao Chúa Giêsu phải chịu chết trên thập giá năm xưa, một sự kiện  lịch sử mà không ai có thể chối cãi được?

Chúa có thực chết hay “giả vờ” chết để bi thảm hóa sự viêc như có ai đã nói?

Để trả lời câu hỏi này, trước hết, chúng ta cần nhớ lại  rằng sự chết là hậu quả đương nhiên của tội lỗi mà  con người đã mắc phạm như Thiên Chúa đã nói với Adam và Eva  xưa: “...ngày nào ngươi ăn (trái cấm) chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (St 2:17)

Thánh Phaolô cũng giải thích thêm  như sau về nguyên nhân gây ra sự chết cho con người: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự  chết đã lan tràn  tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội(Rm 5:12)

Như thế ,mọi người phải chết vì đó là hậu quả của tội lỗi. Không ai có thể tránh được hậu quả này trừ Chúa Giêsu và Mẹ Maria, tuy mang thân xác con người nhưng không hề vướng mắc  tội tổ tông và mọi tội cá nhân khác. Nhưng Chúa Giêsu đã chết trong thân xác con người của Chúa không  phải vì hậu quả của tội lỗi như mọi người trong chúng ta,  vì Chúa hoàn toàn vô tội  Người  vô tội, nhưng đã tự hiến chịu chết thay cho kẻ tội lỗi  như Thánh Phaolô đả nói rõ  như sau:

 “Thiên Chúa đã sai  chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi của chúng ta để đền tội chúng ta. Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình.” (Rm 8:3)

Đó là tất cả lý do vì sao Chúa Giêsu đã vui lòng vác thập giá, chịu mọi cực hình để cuối cùng  “đã phải nếm sự chết là để cho mọi người được cứu độ nhờ ơn Thiên Chúa”(Dt 2:9).

Chính Chúa Giêsu cũng đã xác nhận điều này trong Sách Khải Huyền (Revelation) như sau: “Ta là Đấng Hằng Sống. Ta đã chết và nay Ta sống muôn đời muôn thuở, và Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ.” (Kh1: 18)

Như thế, rõ rệt là Chúa Giêsu đã thực sự chết trong thân xác nhân loại của Ngài qua bằng chứng Kinh thánh nêu trên và   giáo lý sau đây của Giáo Hội:

   “Cái chết của Chúa Giêsu đã là một cái chết  thực sự chấm dứt sự sống con người   trần thế của Ngài. Nhưng vì sự hiệp nhất của thân xác Ngài với ngôi vị của Chúa Con, nên thân xác đó đã không trở thành một tử thi như những cái xác khác “vì thần lực của Chúa đã tránh cho thân xác Chúa Kitô khỏi bị thối nát” (Th. Toma, S.th 3,51,3). (x. SGLGHCG số 627)

Chính vì thân xác của Chúa không bị hư nát qua sự chết như mọi xác con người nên  ngày thứ nhất trong tuần khi các phụ nữ đến viếng Mộ Chúa, “họ  thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mồ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài của Chúa đâu cả” (Mt 24:3)

. Họ không thấy xác Chúa vì Ngài đã sống lại trong một thân xác sáng láng tốt lành khác thường  đến nỗi Maria  Mac-đa-la đã không nhận ra Chúa khi Người hiện ra, đứng bên cạnh bà, đang khóc  vì tưởng ai đã lấy trộm xác Chúa. (Ga: 20:11-14)

Tóm lại, với Thiên tính và địa  vị là Thiên Chúa Ngôi Hai thì Chúa Giêsu không thể chết được. Nhưng với bản tinh nhân lọai và quả thực mang thân xác con người thi Chúa đã thực sự chết  thay cho nhân loại tội lỗi trên thập giá năm xưa như Kinh Thánh Tân ƯỚc đã  ghi chép. Kinh Thánh còn cho biết thêm là sau  khi linh hồn Ngài lìa khỏỉ xác,  Chúa Giêsu đã xuống nơi gọi là “Ngục Tổ Tông” hay Âm  phủ để “rao giảng cho các vong linh bị giam cầm ở đó. (1 Pr 3: 19)

2-Trên  đây là giải đáp cho câu hỏi thứ 2  về những người đã sinh ra và chết trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời.

.Các vong linh mà Chúa Giêsu đã đến  để loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho họ ở ngục Tổ Tông chính là  các  linh hồn của những người lành thánh đã chết  trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu xuống trần gian để thi hành Công Trình Cứu Độ của Thiên Chúa. Họ chưa được vào Thiên Đàng ngay vì Chúa Kitô chưa hoàn tất công cuộc  cứu chuộc của  Ngài. Vì thế ,sau khi Chúa  đã hòan tất qua Hy Tế thập giá, Ngài đã xuống nơi  họ đang bị giam cầm để loan báo Tin Mừng cứu độ cho họ và dẫn đưa họ vào Thiên Quốc hưởng  vinh phúc đời đời với Thiên Chúa.

              Về điểm này, Giáo lý của Giáo Hội cũng dạy rõ như sau:

  Tân Ước đã nhiều lần khẳng định rằng Chúa Giêsu “đã phục sinh từ cõi những người chết” (Cv 3,45; Rm 6,1; 1Cr 15,20). Điều này giả thiết rằng, trước khi sống lại, Ngài đã ở trong  cõi những người chết  (She’ol=Hades=Abode  of the dead). Đó là ý nghĩa đầu tiên trong những lời giảng dạy của các Tông Đồ về  việc Chúa Giêsu đã xuống âm phủ, (tức nơi cư ngụ của những người lành đã chết từ bao đời trước đó.) Chúa Giêsu đã chết như mọi người và linh hồn của Ngài đã liên kết  với họ tại cõi người chết này. Nhưng Ngài xuống đó với tư cách là Chúa Cứu Thế đến công bố Tin Mừng cho những vong linh đang bị giam cần ở đây.’’ (x.SGLGHCG, số 632; 1Pr 3: 18- 19)

 

      3-Về câu hỏi thứ ba, xin được trả lời như sau :

Trước hết, cẳn cứ và lời Chúa trong  những câu Kinh Thánh sau đây:

                  a-   “Chỉ có một Thiên Chúa

                       Chỉ có một Đấng trung gian

                    Giữa Thiên Chúa và lòai người

                  Đó là một con người, Đức Kitô Giê su

               Đấng đã tự hiến làm giá chuộc  mọi người (1Tm 2:5-6)

 

   b-Nghĩa là,  Ngòai Người (Chúa Giêsu) ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân lọai, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4: 12)

Như thế có nghĩa là tất cả những ai đã được cứu rỗi và muốn được cứu rỗi thì đều phải nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô-Giêsu, vì chỉ môt mình Ngài là Đấng trung gian duy nhất  giữa Thiên Chúa và loài người trong việc mang lại ơn cứu độ này mà thôi. Nói rõ hơn,  những  ai đã sinh ra và chết  đi trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu sinh ra và hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân lọai của Ngài qua Hy Tế thập giá, thì đều phải nhờ công ơn cứu chuộc  vô giá này  để được vào hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Điều này cũng áp dụng cho tất cả những ai sinh ra và chết đi sau Chúa Giêsu và cho đến ngày mãn thời gian, tức là cho đến tận thế. Tất cả đều phải nhờ Danh Chúa Kitô và công nghiệp cứu chuộc của Ngài để đựợc cứu độ.

Đó là chân lý đã được mạc khải cho chúng ta qua những câu kinh thánh  trích trên đây.

Cũng liên quan đến câu hỏi thứ 3, về  trường  hợp  những người  không được biết Chúa Kitô, không được chịu phép rửa và  không biết gì về  Phúc Âm của Chúa thì sao?

Nếu họ không biết Chúa, vì không có ai rao giảng cho họ biết, thì đó không phải là lỗi của họ. Nhưng nếu họ đã  “ăn ngay ở lành” sống theo sự hướng dẫn của lương tâm để làm điều lương thiện  và tránh sự dữ, sự gian ác, thì họ vẫn có thể được hưởng ơn cứu độ của Chúa.Kitô. Cụ thể, đó trường hợp cha ông chúng ta sinh ra và chết đi trước khi Đạo thánh Chúa được rao giảng ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 16,  thì dĩ nhiên các ngài không được  biết Chúa và nghe Phúc Âm của Người. Nhưng đó không  phải vì lỗi của họ vì không có ai rao giảng cho họ biết.. Tuy nhiên,  nếu họ  đã cố gắng  sống theo tiếng nói của lương tâm, và trong thâm sâu, vẫn ước mong tìm Chân lý  tức là tìm gặp Chúa  thì  họ  cũng có thể được cứu rỗi nhờ công nghiệp Chúa Kitô như Giáo Hội dạy. (x SGLGHCG, số  847, Lumen Gentium (LG)số 16), .vì “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta,  muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”. (1 Tm 2 :4)

Ngược lại, những người đã được rửa tội, đã gia nhập Giáo Hội, đã biết Chúa Kitô và Phúc Âm của Chúa, nhưng lại không quyết tâm sống theo đường lối của Chúa và xa lánh mọi tội lỗi cùng mọi  sự dữ, và  gian ác  thì sẽ không được cứu độ vì :

không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lậy Chúa! Lậy Chúa! là được vào Nước trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa quyết tâm bước đi theo Chúa Kitô là Đường là Sự Thật và là sự Sống (Ga 14: 6)) để hoàn toàn khước từ  mọi quyến rũ của ma quỉ tinh quái, của thế gian với đầy rẫy gương xấu dịp tội , và  của xác thịt ươn hèn, luôn hướng  chiều về sự xấu, sự tội trong bản thân mỗi người chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng trên trần thế. Do đó, muốn được cứu độ thì phải thực tâm cộng tác với ơn Chúa để yêu mến Người  trên hết mọi sự và xa tránh mọi tội lỗi thì mới có hy vọng được cứu rỗi. Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai coi nhẹ việc quyết tâm sống cho Chúa và  chừa bỏ  mọi tội lỗi, vì chỉ có tội mới làm cho ta xa cách Thiên Chúa mà thôi. Amen.

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra. Xin chân thành  cám ơn quí độc giả.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

-------------------------------

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ TƯ CN4MC-C

Thứ Tư CN4MC - C

 

HỌC HỎI- CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Is 49, 8-15

"Ta đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Trong thời thuận tiện, Ta đã nghe lời ngươi; trong ngày cứu độ, Ta đã cứu giúp ngươi; Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để ngươi nói với tù nhân rằng: "Các ngươi hãy ra", và nói với những kẻ ở trong tối tăm rằng: "Các ngươi hãy ra ngoài sáng". Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên.

Trời hãy ca ngợi, đất hãy nhảy mừng, núi đồi hãy hân hoan chúc tụng! Vì Chúa đã an ủi dân Người và sẽ xót thương những người cùng khổ.

Nhưng Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 13cd-14. 17-18

Ðáp: Chúa là Ðấng nhân ái và từ bi (c. 8a).

Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.

3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Ðây là lúc thuận tiện. Ðây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 5, 17-30

"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:

"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy niệm

 

 

Sự Sống thông ban

 

Hôm nay, Thứ Tư trong Tuần IV Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, và được chính Chúa Kitô bắt đầu chứng thực cho dân do Thái biết bằng các cuộc đối đáp giữa Người và họ.   
 
Như đã nhận định từ hôm Thứ Hai tuần này, chiều hướng của các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho ngày trong tuần liên tục suốt 2 tuần cuối cùng IV và V của Mùa Chay, nhất là từ hôm nay trở đi, sau hai bài về 2 phép lạ Người làm như được thuật lại ở bài Phúc Âm Thứ Hai hôm kia và Thứ Ba hôm qua. 
 
Phép lạ Người chữa lành cho một nạn nhân yếu liệt 38 năm vào ngày hưu lễ ở Bài Phúc Âm hôm qua đã trở thành như đầu mối cho cuộc đụng độ bắt đầu công khai hỏa giữa Chúa Giêsu và dân Do Thái nói chung, nhất là thành phần biệt phái và lãnh đạo của họ.
 
Đó là lý do ngay sau phép lạ chữa lành cho nạn nhân yếu liệt 38 năm vào ngay ngày hưu lễ ở bài Phúc Âm hôm qua, Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm ngay sau biến cố then chốt này như sau: "Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". 

 
Chúa Giêsu đã lợi dụng chính vấn đề ngày hưu lễ cần phải nghỉ ngơi theo luật lệ và thông lệ của dân Do Thái để mạc khải cho họ thấy tất cả ý nghĩa sâu xa về việc làm đối với Đấng hiện hữu luôn sống động và năng động không bao giờ nghỉ ngơi, như chính Chúa Kitô khẳng định ở ngày đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". 


Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho việc "người Do-thái chống đối (Người) vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". Nghĩa là sở dĩ Người "hay chữa bệnh ngày sa-bát" là vì "Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Đúng thế, nếu căn cứ vào luật phải nghỉ ngày hưu lễ, tức là ngày thứ bảy, là vì ngày thứ bảy là ngày chính Thiên Chúa đã nghỉ, hoàn toàn không còn tiếp tục việc tạo dựng của Ngài như 6 ngày trước đó nữa, thì Chúa Giêsu đã làm điều sai trái, ở chỗ Người chẳng những phạm luật Moisen (cũng là luật Thiên Chúa ban cho dân do Thái qua ông) mà Người còn không đúng với ý nghĩa của ngày thứ bảy ban đầu nữa (xem Khởi Nguyên 2:2-3).


Tuy nhiên, nếu hiểu đúng nghĩa của ngày thứ bảy, thời điểm Thiên Chúa nghỉ việc tạo dựng, nhưng lại là thời điểm được thánh hóa: "Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày này..." (Khởi Nguyên 2:3). Nghĩa là ngày thứ bảy là ngày thánh trong tuần, ngày để làm những việc thiêng liêng với Chúa và lành thánh với tha nhân, xa lánh những mối bận tâm trần thế, chỉ chú tâm đến phần hồn hơn là phần xác (như làm việc xác v.v.). Đó là lý do Kitô giáo đã giữ ngày Chúa Nhật, thay ngày thứ bảy, vì là ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Kitô phục sinh. Chúa Kitô đến không phải để hủy lề luật mà làm cho nó nên tọn là như thế.


Con người ta là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên sau cùng nhưng lại là loài tạo vật được Ngài chăm chú tạo dựng một cách rất đặc biệt theo chủ ý riêng của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-28). Bởi thế, sau khi tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và tương tự như Ngài, Ngài đã tiếp tục ở với con người, tiếp tục tỏ mình ra cho họ, nghĩa là thánh hóa họ, một việc thánh hóa chỉ xẩy ra trong ngày thứ bảy là thời điểm Ngài nghỉ việc tạo dựng bề ngoài để chuyên vào việc thánh hóa bề trong, ở chỗ làm cho con người tin vào Ngài, như Chúa Giêsu đã khẳng định về công việc của Cha Người: "Công việc của Thiên Chúa đó là hãy tin vào Đấng Ngài sai" (Gioan 6:29).


Vậy Chúa Giêsu chữa lành trong ngày thứ bảy là một việc rất chính đáng, chẳng những nên làm mà còn cần phải làm nữa, vì việc chữa lành của Người hợp với mục đích của ngày thứ bảy là ngày làm việc lành thánh, ngày thánh hóa con người, để nhờ được chữa lành nạn nhân đương sự và những ai quen biết đương sự tin vào Người mà được cứu độ, đúng như bản chất việc làm của Thiên Chúa trong ngày thứ bảy là ngày thánh, ngày Ngài thánh hóa con người nơi việc tỏ mình ra của Con Ngài, Đấng Ngài muốn con người tin tưởng mà được cứu độ và thánh hóa.


Chúa Giêsu quả thực đã chí lý khi cho dân Do Thái bấy giờ biết lý do tạo sao Người hay chữa lành vào ngày thứ bảy, đó là vì "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc".Trong bài Phúc Âm hôm nay, ở đoạn ngay sau đó, Người còn cho họ biết "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy". Chẳng hạn, như Người trưng dẫn một việc quan trọng và chính yếu nhất của ngày thứ bảy là ngày thánh hóa đó là: "Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tùy ý Người", nên "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời". 



 
Cho dù việc Người làm phép lạ trong ngày hưu lễ chính đáng và chí lý mấy đi nữa, đúng như mục đích và ý nghĩa của ngày thứ bảy theo ý định thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một hành động phạm luật và sai trái, nên Người đã bị "
người Do-thái chống đối", vậy mà Người lại còn như đổ thêm dầu vào lửa qua cách xưng hô của Người với Đấng đã sai Người, mà tình hình căng thăng và đụng độ càng trở nên kịch liệt hơn nữa, đến độ họ tìm cách sát hại Người, như Thánh ký Gioan ghi nhận ở ngay câu Người nói: "Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa".
 
Thế nhưng là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tối tăm không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Chúa Giêsu đã lợi dụng cái tối tăm và lầm lạc của dân Người nơi chính tình trạng rất đạo đức tốt lành của dân mình, ở chỗ họ hết sức bảo vệ luật lệ (liên quan đến phép lạ Người làm vào ngày hưu lễ) và coi trọng phẩm vị cao cả của Thiên Chúa (liên quan đến lời Người xưng hô với Thiên Chúa), nhưng không hoàn toàn phản ảnh tất cả sự thật của mạc khải thần linh mà Người là tột đỉnh và là tất cả. 
 
Bởi thế, qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã chứng thực về Người liên quan đến mối liên hệ mật thiết với Cha của Người là Đấng đã sai Người, bằng cách Người đã nói cho họ biết rõ: Người và Cha cùng làm một việc như nhau (1); Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người và vì thế không ai có thể đến cùng Cha mà không qua Người (2), và Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho những ai tin vào Người, bằng không sẽ bị chính Người là Đấng có quyền xét xử những ai không tin vào Người (3).
 
1- Người và Cha cùng làm một việc như nhau: "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý Ngài". 
 
2- Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người và vì thế không ai có thể đến cùng Cha mà không qua Người: "Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống". 
 
3- Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho những ai tin vào Người, bằng không sẽ bị chính Người là Đấng có quyền xét xử những ai không tin vào Người: "Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".

Qua lời tự chứng của Chúa Kitô về bản thân Người trong bài Phúc Âm hôm nay, như vừa được thứ tự tóm gọn làm 3 đoạn trên đây, chúng ta thấy Người muốn chứng thực với dân Do Thái rằng: 
 
1- Người quả thực là Đấng Thiên Sai của họ, từ Cha mà đến: "Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy"; 
 
2- Nên Người chỉ làm những gì Cha là Đấng đã sai Người muốn Người làm: "Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta";  
 
3- Mà việc Người cần phải làm trên hết theo đúng như ý muốn của Cha đó là ban sự sống của Người cũng là của Cha cho loài người: "cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tùy ý Ngài... Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy";


4- Vì con người tạo vật, bởi nguyên tội, đã bị băng hoại và sống trong chết chóc, cần được hồi sinh và tái sinh: "đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống...  vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử". 
 
5- Và đường lối để được sự sống đó là nhận biết Đấng Thiên Sai và chấp nhận những gì Người mạc khải cho biết: "Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống".
 

Đúng thế, mục đích chính yếu và duy nhất Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh thần linh của Ngà
i và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27) đó là cho họ được hiệp thông thần linh với Ngài, để họ được tham phần vào sự sống thần linh của Người và với Người. 
 
Cho dù loài người, bởi nguyên tội, đã đánh mất sự sống thần linh vô cùng cao quí này từ mối hiệp thông thần linh ngay từ ban đầu ấy, Thiên Chúa vẫn tìm cách ban lại cho họ, ở một mức độ còn dồi dào sung mãn hơn nữa, nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14). 
 

Ở Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu không bao giờ bỏ rơi nhân loại được Ngài cố ý dựng nên để làm con cái của Ngài, để yêu thương họ và cho họ thông phần vào sự sống của Ngài: "
Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".
 
Chính vì Thiên Chúa luôn chăm sóc cho tạo vật vô cùng thấp hèn lại tội lỗi vô cùng khốn nạn của Ngài như thế mà Ngài "đã yêu thế gian đến ban Con Một của Ngài để ai tin vào Con thì không phải chết nhưng được sự sống" (Gioan 3:16), đúng như những gì chính Chúa Kitô đã nói về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay, một Người Con đã được báo trước trong Bài Đọc 1 cùng ngày về sứ vụ giải phóng của Người để mang lại sự sống mới cho những ai được trao phó cho Người
 
"Nên giao ước của dân, để người phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để người nói với tù nhân rằng: 'Các ngươi hãy ra', và nói với những kẻ ở trong tối tăm rằng: 'Các ngươi hãy ra ngoài sáng'. Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa, gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những người từ miền nam lên".
 
Trước một Vị Thiên Chúa yêu thương nhân hậu đối với nhân loại lầm than khốn khổ cần được cứu độ như thế, con người không thể nào không cùng với thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay dâng lên Ngài những cảm nhận thần linh chí thiết sau đây:
 
1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. 
 
2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. 
 
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

 MC.IV-4.mp3

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - PHÉP GIẢI TỘI

  •  
    Tinh CaoMar 29 at 3:57 PM
     

    ĐTC Phanxicô - Huấn Từ với Tham Dự Viên Khóa Tòa Trong

    Thứ Sáu 29/3/2019

    ở Sảnh Đường Phaolô VI

     

    Pope Francis addresses participants in a course on the internal forum organized by the Apostlic Penitentiary at the Vatican's Paul VI Hall, March 29, 2019. Credit: Daniel Ibanez/CNA.

     

    "Bí Tích Hòa Giải là một đường lối thánh hóa thực sự;

    nó là một dấu hiệu năng Chúa Giêsu lưu lại cho Giáo Hội để cửa của nhà Cha luôn mở ngỏ cho việc con người trở về với Ngài luôn khả dĩ.

    Việc Xưng Tội theo Bí Tích là cách thức thánh hóa cả hối nhân lẫn vị giải tội".

     

     

    "Chúng ta hãy luôn nhớ - và điều này sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều - trước khi đi vào tòa giải tội,

    chúng ta trước hết là các tội nhân đã được thứ tha,

    và chỉ bấy giờ chúng ta mới là những thừa tác viên của ơn tha thứ thôi"

     

     

     

     Xin chào anh em thân mến!

    Tôi xin chào anh em trong Mùa Chay này, nhân dịp khóa Tòa Trong, một khóa năm nay là khóa thứ 30.

    Tôi muốn nói thêm về chữ "tòa trong" này. Đây không phải là một diễn tả vô nghĩa: nó được nói một cách nghiêm chỉnh. Tòa trong là tòa trong và không thể trở thành những gì cởi mở. Tôi nói điều này là vì tôi nhận thấy có một số nhóm trong Giáo Hội, chẳng hạn những vị được bổ nhiệm, những vị bề trên đang pha trộn hai điều này với nhau và mang những quyết định ở tòa trong cho những quyết định ở tòa ngoài, hoặc ngược lại. Xin làm ơn đi, đó là một điều có tội! Nó là một thứ tội phạm đến phẩm giá của con người tin tưởng vào vị linh mục, con người bày tỏ thực tại riêng tư của mình để xin ơn tha thứ, và sau đó thực tại này được sử dụng cho một nhóm nào đó hay một phong trào nào đó, có lẽ - tôi không biết, tôi nghĩ vậy - có lẽ cho cả một tu hội mới, tôi không biết. Thế nhưng, tòa trong là tòa trong. Nó là những gì linh thánh. Tôi muốn nói điều này, vì tôi đang quan tâm đến nó. .....

    Tầm quan trọng của "thừa tác vụ thương xót" này là những gì biện minh, đòi hỏi và gần như áp đặt một thứ huấn luyện thích hợp đầy đủ, nhờ đó việc gặp gỡ người tín hữu đến xin ơn tha thứ của Thiên Chúa bao giờ cũng phải trở thành một cuộc gặp gỡ thực sự ơn cứu độ, trong đó việc đón nhận của Chúa được cảm nhận bằng tất cả quyền năng của nó, có thể biến đổi, hoán cải, chữa lành và tha thứ.

    Ba mươi năm trải qua Khóa về Tòa Trong về bí tích này của anh em cũng không bao nhiêu so với cả một lịch sử dài của Giáo Hội, cũng như với tính cách cổ kính của Tông Tòa Ân Giải là một Pháp Đình lâu đời nhất trong việc phục vụ của Giáo Hoàng: một pháp đình của lòng thương xót! Tôi muốn nói về pháp đình này như thế.

    Tuy nhiên, 30 năm, trong thời điểm của chúng ta đây, một thời điểm qua đi quá mau, cũng lâu đủ để có thể suy nghĩ và tiến đến một thứ quân bình. Ngoài ra, con số rất đông đảo tham dự viên ... năm nay, hơn 700 người! Vị hồng y chưởng ấn Tông Tòa Ân Giải đã nói rằng ngài đã ngưng việc ghi danh vì những lý do hậu cần! Nó như thể là một việc làm không còn chỗ ở Vatican vậy! Nó có vẻ như là chuyện diễu cợt! Con số tham dự viên rất đông đảo này cho thấy nhu cầu thực sự cần được huấn luyện và bảo toàn, liên quan tới các vấn đề rất quan trọng cho chính đời sống của Giáo Hội, cũng như cho việc hoàn thành sứ vụ Chúa Giêsu đã ủy thác cho Giáo Hội. 

    Trong khi nhiều người cho rằng Việc Xưng Tội, kèm theo nó là cảm quan về tội lỗi, đang bị khủng hoảng - và chúng ta không thể không thấy được một thứ khó khăn nào đó nơi con người đương đại về vấn đề này - thì việc tham dự đông đảo của các vị linh mục, mới chịu chức hay đã chịu chức, chứng thực mối quan tâm liên lỉ trong việc cùng nhau hoạt động để đối đầu và khắc phục cuộc khủng hoảng này, chính yếu bằng "các thứ khí giới của đức tin", cũng như bằng việc dấn thân phục vụ tốt đẹp hơn có thể để hiện thực sự vẻ đẹp của LTXC.

    Chúa Giêsu đến để cứu độ chúng ta bằng việc tỏ cho chúng ta thấy dung nhan nhân hậu của Thiên Chúa, cũng như bằng việc lôi kéo chúng ta đến với Ngài nơi Hy Tế yêu thương của Người. Bởi vậy, chúng ta cần phải luôn nhớ rằng Bí Tích Hòa Giải là một đường lối thánh hóa thực sự; nó là một dấu hiệu năng Chúa Giêsu lưu lại cho Giáo Hội để cửa của nhà Cha luôn mở ngỏ cho việc con người trở về với Ngài luôn khả dĩ.

    Việc Xưng Tội theo Bí Tích là cách thức thánh hóa cả hối nhân lẫn vị giải tội. Còn anh em là những vị giải tội trẻ trung thân yêu cũng sẽ sớm cảm nghiệm thấy như thế.

    Đối với hối nhân nó rõ ràng là cách thức thánh hóa, vì như đã được nhấn mạnh một số lần trong Năm Thánh Thương Xót gần đây, việc tha tội theo bí tích, khi được cử hành một cách hiệu thành, thì phục hồi cho chúng ta tính chất vô tội của phép rửa, mối hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Mối hiệp thông này Thiên Chúa không bao giờ làm lũng đoạn đối với con người, mà là con người đôi khi loại trừ bằng việc sử dụng không tốt tặng ân tự do trọng đại.

    Các vị linh mục trong giáo phận của tôi đã chọn làm câu tâm niệm "Hòa Giải, chị em của Phép Rửa" cho cuộc gặp gỡ năm nay của họ. Bí tích Thống Hối là "anh em" của Phép Rửa. Đối với linh mục chúng ta thì bí tích thứ 4 này là cách thức thánh hóa, trước hết và trên hết khi mà, như tất cả mọi tội nhân, chúng ta khiêm tốn quì xuống trước vị giải tội mà van xin LTXC cho chính chúng ta. Chúng ta hãy luôn nhớ - và điều này sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều - trước khi đi vào tòa giải tội, chúng ta trước hết là các tội nhân đã được thứ tha, và chỉ bấy giờ chúng ta mới là những thừa tác viên của ơn tha thứ thôi.

    Hơn thế nữa - điều này là một trong nhiều tặng ân do tình yêu chuyên biệt của Chúa Kitô giành cho chúng ta - là những vị giải tội, chúng ta được đặc ân liên lỉ chiêm ngưỡng thấy "các phép lạ" của những việc hoán cải. Chúng ta luôn phải nhận thấy tác động quyền năng của ân sủng, có khả năng biến đổi tâm can chai đá thành cõi lòng da thịt (cf Ez 11:19), có khả năng thay đổi một tội nhân lạc loài thành người con hối nhân trở về nhà cha của mình (xem Lca 15:11-32).

    Vì lý do ấy mà Tòa Ân Giải, qua Khóa về Tòa Trong này, đang cống hiến việc phục vụ quan trọng của Giáo Hội, bằng thiện chí mở khóa huấn luyện cần thiết cho việc cử hành đúng đắn và hiệu quả bí tích Hòa Giải, một điều kiện tiên quyết bất khả châm chước để gặt hái được hoa trái tốt đẹp của nó. Bởi vì từng lần Xưng Tội bao giờ cũng là một bước tiến mới mẻ và dứt khoát đến việc thánh hóa trọn hảo hơn; một đón nhận dịu dàng đầy lòng thương xót giúp lan rộng Vương Quốc của Thiên Chúa, Vương quốc của tình yêu, chân lý và bình an.

    Chính việc Hòa Giải là một sự thiện được đức khôn ngoan của Giáo Hội luôn canh giữ với tất cả quyền lực về luân lý và pháp lý của mình đối với ấn tín bí tích này. Cho dù không phải lúc nào tâm thức tân tiến cũng hiểu được thì vẫn là những gì bất khả châm chước đối với tính cách linh thánh của bí tích ấy cũng như đối với lương tri của hối nhân; thành phần cần phải tin tưởng rằng, bất cứ lúc nào, việc hoán cải về bí tích sẽ luôn giữ kín nơi tòa giải tội, giữa lương tâm của con người hướng về ân sủng, với Thiên Chúa qua môi giới cần thiết là vị linh mục. Ấn tín bí tích là những gì bất khả châm chước và không một quyền lực trần gian nào, dù cho mình, có thẩm quyền trên ấn tín bí tích này.

    Các vị linh mục trẻ trung, các vị linh mục tương lai và các Vị Ban Xá Giải thân mến, tôi tha thiết xin anh em hãy luôn lắng nghe việc Xưng Tội của tín hữu một cách độ lượng, hãy cùng bước đi với họ đường lối thánh hóa là bí tích này, để chiêm ngưỡng thấy "các phép lạ" hoán cải do ân sủng tác động trong tòa giải tội kín đáo, những phép lạ mà chỉ có anh em và các thiên thần chứng kiến thấy. Và chớ gì trước hết anh em hãy thánh hóa bản thân mình, khiêm tốn và trung thành thực thi thừa tác vụ Hòa Giải.

    Xin cám ơn việc phục vụ của anh em! Và xin nhớ cầu cho tôi nữa nhé.

     

    http://w2.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2019/march/documents/papa-francesco_20190329_penitenzieria-apostolica.html

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu  

     

    Pope Francis hears confessions during World Youth Day in Panama

    "Cho dù không phải lúc nào tâm thức tân tiến cũng hiểu được

    thì vẫn là những gì bất khả châm chước đối với tính cách linh thánh của bí tích ấy cũng như đối với lương tri của hối nhân...

    Ấn tín bí tích là những gì bất khả châm chước và không một quyền lực trần gian nào, dù cho mình, có thẩm quyền trên ấn tín bí tích này".

     

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To post to this group, send email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHoV44cA4Tj5FeyJ22g6dvXf4FX4F1u2btZzrhGUQYUVZg%40mail.gmail.com.
    For more options, visit https://groups.google.com/d/optout.
     

HOC4 HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ HAI CN4TN-C

Thứ Hai CN4MC-C

 

 HỌC HỎI - CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Is 65, 17-21

"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18

Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.

 

Phúc Âm: Ga 4, 43-54

"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.

Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.

Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy niệm

  

 

Hôm nay, Thứ Hai trong Tuần IV Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa bắt đầu có chiều hướng càng sát nghĩa hơn bao giờ hết với chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) của chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh. Bởi vì, từ hôm nay, dọc suốt 2 tuần liền của thời điểm cuối cùng của Mùa Chay, Giáo Hội cố ý chọn đọc cho các ngày thường trong tuần toàn là các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, không còn Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, Marco hay Luca như ba tuần trước đây nữa. 
 
Tại sao? Tại vì chỉ có Phúc Âm của Thánh Gioan, cuốn Phúc Âm cuối cùng trong 4 cuốn Phúc Âm được Giáo Hội công nhận trong sổ bộ Thánh Kinh Tân Ước, cuốn Phúc Âm về thần tính của Chúa Kitô và về Giáo Hội, mới có những đoạn Chúa Giêsu tỏ thần tính của mình ra, hay nói cách khác, Người tỏ nguồn gốc thần linh của Người ra, vừa bằng phép lạ hay dấu lạ vừa bằng chính lời tự chứng của Người liên quan đến ý Cha là Đấng đã sai Người. 
 
Tuy nhiên, đa số dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo dân Do Thái bấy giờ nói riêng đã không thể chấp nhận chứng từ cùng chứng cớ rất chân thực bất khả chối cãi của Người, cho đến giờ của Người, tức cho đến thời điểm họ có thể thực hiện mưu đồ sát hại Người, theo đúng như dự án cứu độ của Thiên Chúa và công cuộc cứu độ của Người, Đấng đã "tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy nó lại" bằng Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm là tột đỉnh của chung phụng niên và của riêng Tuần Thánh, đặc biệt là của Tam Nhật Thánh!
 
Hai bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan đầu tiên cho 2 tuần cuối cùng của Mùa Chay liên quan đến 2 phép lạ Chúa Giêsu làm, phép lạ trước, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người làm ở Galilêa, vùng đất miền bắc xa xôi, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống, còn phép lạ sau, trong bài Phúc Âm ngày mai, Người làm ở ngay Giêrusalem xứ Giuđêa ở miền nam, một phép lạ xẩy ra ở ngay giáo đô của dân Do Thái, do đó, đã trở thành nguyên cớ dẫn đến cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và dân của Người, nhất là với thành phần lãnh đạo ở đó bấy giờ. 
 
Phép lạ được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, "là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa", tiếp theo phép lạ Người đã hóa nước thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana trước đó để tỏ mình ra cho các môn đệ và làm cho các vị tin vào Người là phép lạ đầu tiên (xem Gioan 2:11). Nếu phép lạ thứ nhất liên quan đến hôn nhân thì phép lạ thứ hai này liên quan đến gia đình. Bởi thế mà cuối Bài Phúc Âm Thánh ký Gioan đã cho biết tác dụng xuất phát từ phép lạ Chúa Giêsu thực hiện: "nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin".
 
Tuy nhiên, sở dĩ Giáo Hội chọn bài Phúc Âm về phép lạ Chúa Giêsu làm cho "một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt", không phải để cho chúng ta thấy cái cân xứng giữa hai phép lạ: phép lạ thứ nhất Người làm cho các môn đệ tin Người và phép lạ thứ hai Người làm cho dân chúng tin Người, mà chính là để cho chúng ta thấy rằng thành phần dân ngoại dễ tin vào Người hơn là chính dân của Người, như phép lạ trong bài Phúc Âm ngày mai chứng thực.
 
Đó là lý do ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Gioan đã ghi nhận lòng khao khát thần linh và thái độ mộ mến của dân chúng đối với Đấng Thiên Sai của chính dân Do Thái: "Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: 'Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình'. Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ".
 
"Chính Người đã nói: 'Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình'" ở câu Phúc Âm này không phải ám chỉ dân chúng ở Nazarét quê quán của Người đã đối xử với Người được Thánh ký Luca thuật lại (xem 4:14-30), mà là ám chỉ chung dân Do Thái là dân tộc của Người theo huyết nhục trần gian. Tuy nhiên, thành phần dân tộc của Người ít là cũng đưc chia làm hai loại hay hai hạng, hạng bình dân cởi mở và hạng trí thức lẫn quyền lực. 
 
Hình như dân Do Thái ở Galilêa thuộc miền bắc xa xôi, xa giáo đô Giêrusalem và sống chung với nhiều người dân ngoại đã có được một tinh thần cởi mở và phóng khoáng hơn là những người Do Thái ở Giuđêa nói chung và ở giáo đô Giêrusalem nói riêng. Bởi thế nên, Thánh Gioan đã cho thấy dân Do Thái ở Galilêa đã cởi mở hơn với Chúa Giêsu: "Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ".
 
Sự kiện "dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ" đây có nghĩa là họ rất cảm phục Người, vì Người chỉ là một người Galilêa tầm thường như họ mà đã dám làm những gì không ai có thể làm và dám làm như Người. Chẳng hạn như Người đã chẳng những dám đánh đuổi đám buôn bán trong đền thờ mà còn dám thách thức những người Do Thái chính qui ở đó bấy giờ đã ngỏ ý muốn thấy dấu lạ Người làm để chứng tỏ thẩm quyền thực sự của Người trong việc Người thanh tẩy đền thờ là nhà của Cha Người như thế (xem Gioan 2:13-23).
 
Chính vì tấm lòng cởi mở của chung dân Do Thái ở Galilêa như vậy mà hầu như các phép lạ Người làm đều xẩy ra ở Galilêa, hơn là ở Giuđêa. Phép lạ thứ hai Người làm ở Galilêa trong Bài Phúc Âm hôm nay lại xẩy ra ở Cana là "nơi Người đã biến nước thành rượu", một phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện cho người con trai của một viên chức triều đình (royal officer), không biết là người Do Thái hay dân ngoại, nhưng có thể nắm chắc là dân ngoại, bởi vì cuối bài Phúc Âm Thánh ký Gioan đã ghi chú thêm chi tiết: "ông và toàn thể gia quyến ông đều tin", như trường hợp của gia đình viên đại đội trưởng Roma Cornelio (xem Tông Vụ 10:1-48).
 
Trong Phúc Âm của Thánh Gioan, thường Chúa Giêsu tự động làm phép lạ để tỏ mình ra cho người ta tin vào Người, hơn là người ta phải có đức tin đã rồi Người mới làm phép lạ, như thường xẩy ra hầu hết ở bộ Phúc Âm Nhất Lãm. Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người lại đề cập đến đức tin như là một điều kiện cần thiết trước khi Người làm phép lạ. 
 
Nhưng người đề cập đến đức tin không phải chỉ với riêng viên chức triều đình đang van xin mà là cho chung những người ở đó bấy giờ: "các ông". Như thể Người nhắc nhở hết mọi người rằng hãy tin sẽ được, như viên chức triều đình vẫn đang gắn bó tin tưởng vào Người bấy giờ: "xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Bởi thế, sau khi nghe "Chúa Giêsu bảo ông: 'Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi'. Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về". 
 
Quả thật, ông đã tin sao thì được đúng như vậy, như bài Phúc Âm ở đoạn cuối cho thấy: "Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: 'Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt'. Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: 'Con ông mạnh rồi'". 
 
Ngay trong cách thức Chúa Giêsu chữa lành ở bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan hôm nay, chỉ bằng ý muốn là xong, là phép lạ xẩy ra, chứ Người không cần phải hiện diện, phải đến tận nơi, phải đụng chạm, phải tỏ cử chỉ đặc biệt nào đó..., cũng là cách Chúa Giêsu muốn tỏ thần tính của Ngưòi ra, một tỏ mình thần linh chẳng những làm tan biến đi tất cả những gì là yếu hèn bệnh hoạn mà còn mang lại sự sống sinh động nữa.
 
Nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay quả thực đã phản ảnh ý nghĩa tỏ mình ra của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay qua việc Người tỏ thần tính của Người ra nơi phép lạ chữa lành bằng ý muốn toàn năng vô cùng hiệu lực của Người, một phép lạ cho thấy ý muốn cứu độ của Thiên Chúa trong việc tiêu diệt tội lỗi và sự chết mà ban cho con người sự sống và hạnh phúc:
 
"Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".
 
Theo chiều hướng của Bài Phúc Âm và Bài Đọc 1 hôm nay, Bài Đáp Ca được Giáo Hội chọn đọc cùng ngày đã chất chứa tâm tình thần linh của thánh vịnh gia cũng là của những tâm hồn thực sự nhận thức được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và cứu độ của con người nói chung và của bản thân mình nói riêng:
 
1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. 
 
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. 
 
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

 MC-IV-2.mp3

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LỄ TRUYỀN TIN ĐỨC MẸ

Ngày 25 tháng 3

Lễ Truyền Tin Cho Ðức Mẹ

Lễ Trọng

 

Bài Ðọc I: Is 7, 10-14

"Này trinh nữ sẽ thụ thai".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa". Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).

Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

2) Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

4) Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 10, 4-10

"Ở đoạn đầu cuốn sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý Chúa".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, máu bò và dê đực không thể xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật". Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia hoặc Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 1, 14ab

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 26-38

"Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".

Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà.

Ðó là lời Chúa.

 

Maria là một Tân Evà đã tự nguyện tuân phục Thiên Chúa
 

Nhận định về biến cố Truyền Tin, Công Đồng Chung Vaticanô II đa đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị của việc Mẹ Maria đa tỏ ra ưng thuận chấp nhận nhưng lời từ vị sứ giả của Thiên Chúa. Không giống như nhưng gì đa xẩy ra ở các trình thuật Thánh Kinh tương tự, vị thiên thần đa thực sự đợi chờ việc ưng thuận của Mẹ Maria: “Vị Cha của nguồn mạch xót thương muốn việc Nhập Thể phải được mở lối bằng việc ưng thuận về phía của người mẹ tiền định, để, như một người nư đa góp phần vào việc mang lại sự chết thế nào thì một người nư cung phải đóng góp vào sự sống như vậy” (Lumen Gentium, 56).

Hiến chế Lumen Gentium đa nhắc lại sự tương phản giưa tác hành của Evà và tác hành của Mẹ Maria, một tác hành đa được Thánh Irênê diễn tả thế này: “Như nhân vật trước là Evà đa bị nhưng lời của một thiên thần dụ dỗ làm cho bà bỏ Thiên Chúa bằng việc bất tuân phục lời của Ngài thế nào, thì nhân vật sau là Mẹ Maria đa lanh nhận tin mừng từ lời loan báo của một thiên thần một cách cởi mở đối với Thiên Chúa bằng việc tuân phục lời Ngài như vậy; như nhân vật trước bị dụ dỗ đến độ tỏ ra bất tuân phục Thiên Chúa thế nào thì nhân vật sau tỏ ra thâm tín tuân phục Thiên Chúa như vậy, bởi thế, Trinh Nư Maria đa trở nên người bênh chưa cho trinh nư Evà. Và như loài người đa bị chết bởi một trinh nư thế nào thì cung được giải thoát bởi một Vị Nư Trinh như vậy; thế là việc bất phục tùng của một trinh nư đa được cân đối lại bằng việc phục tùng của một Vị Nư Trinh” (Adv. Haer., V, 19, 1).

2-Trong việc nói lên lời “xin vâng” toàn vẹn của mình đối với dự án thần linh, Mẹ Maria hoàn toàn tự do trước nhan Thiên Chúa. Đồng thời Mẹ cung cảm thấy bản thân mình có trách nhiệm đối với tương lai nhân loại, một tương lai có liên hệ đến lời thân thưa của Mẹ. 
Thiên Chúa đặt định mệnh của tất cả loài người vào tay của một người nư trẻ trung. Lời “xin vâng” của Mẹ Maria là căn bản cho việc hoàn tất dự án mà Thiên Chúa đa yêu thương sửa soạn cho việc cứu độ thế giới. 
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo tóm tắt một cách ngắn gọn và đầy đủ giá trị quyết liệt của việc Mẹ Maria ưng thuận đối với toàn thể loài người trong dự án cứu độ thần linh như sau: “Trinh Nư Maria ‘cộng tác vào việc cứu độ loài người bằng đức tin tự do và bằng đức tuân phục’. Mẹ đa ‘nhân danh tất cả bản tính loài người’ thưa tiếng xin vâng. Bằng việc tuân phục của mình, Mẹ đa trở nên một Tân Evà, mẹ của sinh linh” (số 511).

 

 3-Bằng việc làm của mình, Mẹ Maria đa nhắc nhở mỗi một người chúng ta về trách nhiệm nghiêm chỉnh trong việc chấp nhận dự án của Thiên Chúa đối với cuộc đời của chúng ta. Trong việc hoàn toàn tuân phục ý định cứu độ của Thiên Chúa, một ý định được bộc lộ qua lời nói của thiên thần, Mẹ đa trở nên một mẫu gương cho nhưng ai Chúa tuyên bố cho biết là có phúc, vì họ “nghe lời Thiên Chúa và tuân giư” (Lk 11:28). Để trả lời cho người đàn bà trong đám đông chúc tụng Mẹ Người có phúc, Chúa Giêsu đa tiết lộ lý do thực sự làm cho Mẹ Maria được diễm phúc, đó là việc Mẹ gắn bó với ý muốn của Thiên Chúa, một nỗi gắn bó khiến Mẹ chấp nhận vai trò Thiên Chúa Thánh Mẫu.


Trong Thông Điệp Redemptoris Mater, Tôi đa cho thấy là vai trò làm mẹ thiêng liêng mới mẻ được Chúa Giêsu nói tới ấy chẳng qua chỉ liên quan đến một mình Mẹ mà thôi. Thật vậy, “không phải hay sao, Mẹ Maria là người đầu tiên trong số ‘nhưng ai nghe lời Thiên Chúa và thực hiện’? Thế nên, niềm hạnh phúc Chúa Giêsu nói tới khi trả lời cho người đàn bà trong đám đông không thực sự ám chỉ về Mẹ hay sao?” (số 20). Bởi vậy, theo một ý nghĩa nào đó, Mẹ Maria đa được công nhận là người môn đệ đầu tiên của Con Mẹ (x cùng nguồn vừa dẫn), và bằng mẫu gương của mình, Mẹ mời gọi tất cả mọi tín hưu hay quảng đại đáp lại ơn Chúa.


4-Công Đồng Chung Vaticanô II đã cắt nghĩa việc toàn hiến của Mẹ Maria cho con người Chúa Kitô cũng như cho công cuộc của Chúa Kitô như thế này: “Như một nữ tỳ của Chúa Mẹ đã toàn hiến bản thân mình cho con người của Con mình cũng như cho công cuộc của Con mình, với tư cách phụ giúp Người cũng như đóng vai trò cùng với Người trong việc phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc, nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng” (Lumen Gentium, 56).


Đối với Mẹ Maria, việc Mẹ hiến thân cho con người của Chúa Giêsu cũng như cho công việc của Chúa Giêsu nghĩa là việc Mẹ hiệp nhất với Con Mẹ, việc Mẹ dấn thân nuôi dưỡng Con Mẹ phát triển về phương diện loài người cũng như việc Mẹ cộng tác với công cuộc cứu độ của Người.


Mẹ Maria thực hiện khía cạnh cuối cùng trong việc hiến thân cho Chúa Giêsu này với tư cách “phụ giúp Người”, tức với thân phận phụ thuộc, thân phận là hoa trái của ân sủng. Tuy nhiên, đây là một việc cộng tác thực sự, vì việc cộng tác này được thực hiện “cùng với Người”, và kể từ biến cố Truyền Tin việc cộng tác ấy cho thấy Mẹ tích cực tham phần vào công cuộc cứu chuộc. Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhận định: “Bởi thế, các Nghị Phụ thực sự thấy Mẹ Maria không phải chỉ được Thiên Chúa sử dụng một cách thụ động, mà là chủ động cộng tác vào công cuộc cứu độ loài người bằng đức tin và đức tuân phục. Như Thánh Irênêô nói, vì nhờ vâng phục, Mẹ ‘đã trở nên căn do cứu độ cho chính bản thân Mẹ cũng như cho toàn thể loài người’ (Adv. Haer. III, 22, 4)” (cùng nguồn vừa dẫn).


Liên kết với việc Chúa Kitô chiến thắng tội lỗi gây ra do nhị vị cha mẹ nguyên tổ của chúng ta, Mẹ Maria đã xuất hiện như là “mẹ sinh linh” thực sự (cùng nguồn vừa dẫn). Tự nguyện tỏ ra vâng phục chấp nhận dự án thần linh, vai trò mẫu thân của Mẹ đã trở nên nguồn mạch sự sống cho toàn thể loài người.


(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 11/9/1996, 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ngày 18/9/1996)

 

LeMeThaiLoi.mp3  

--------------------------------