24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - GIÁO HỘI ĐÔNG PHƯƠNGLM NGÔ TÔN HUẤN

   CÁC GIÁO HỘI CÔNG GIÁO ĐÔNG PHƯƠNG LÀ AI  VÀ Ở ĐÂU ?

Hỏi :

Xin cha cho biết các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương là ai và có mặt ở đâu  trong trần gian.

Trả lời :

Xưa nay, người  ta chỉ quen nói đến các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches)  tức các Giáo Hội Chinh Thống Giáo hiện chưa hiệp thông trọn vẹn (full communion) với Giáo Hội Công Giáo La Mã  sau cuộc ly giáo Đông –Tây ( East-West Schism) năm 1054.

Mặc dù có nhiều cố gắng để xích lại gần nhau vì cùng chung nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession) nhưng  Giáo Hội Công Giáo và  các  Giáo Hội Chính Thống Đông  Phương  cho đến nay  vẫn chưa thể hiệp thông  được mặc dù  đã tha vạ tuyệt thông ( anthemas=excommunications) cho nhau, sau khi  Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras I ( Constantinople Hy lạp) gặp nhau lần đầu tiên năm 1966 đem lại kết quả  cụ  thể là hai Giáo Hội đã tháo gỡ vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lich sử này.

Tuy nhiên, giữa Hai Giáo Hội anh  em  trên đây  vẫn chưa hiệp thông trọn vẹn được với nhau  cho đến nay chỉ vì trở ngại lớn là vai trò lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Rôma của Đức Thánh Cha, tức Giám Mục  Rôma mà anh  em Chính Thống Đông Phương chưa nhìn nhận và vâng phục.

Trong phạm vi bài viết này , tôi xin được giải thích rõ về   các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương( Eastern Catholic Churches) hiện đang hiệp thông trọn vẹn  và tôn trọng vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Thánh Cha, là Đấng duy nhất thay mặt Chúa Kitô ( Vicar of Christ) trên trần thế  trong vai trò và trách nhiệm cai quản Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

I-Đôi dòng lịch sử :

Như đã nói ở trên, ngoài các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương chưa hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã, còn có các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương (Eastern Catholic Churches) đang hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ  mà có lẽ ít người biết đến họ

Khi nói đến các Giáo Hội này, người ta phải nghĩ ngay trước hết đến bốn Tòa Thượng Phụ ( Patriarchates) ở phương Đông là Alexandria, Antioch, Jerusalem và Constantinople, ngoài Tòa Thượng Phụ Rome  về phái Tây, tức Giáo Hội Công Giáo La Mã. Các Tòa Thượng Phụ này đặc tránh các giáo đoàn Kitôgiáo có nghi thức phụng vụ riêng theo văn nhóa và truyền thống lâu đời  sau đây:

1-Thuộc về Giáo Hội hay Tòa Thượng Phụ Antioch là các giáo đoàn West Syrians, Maronites ( Công Giáo Li Băng) và Malankarese, Chaldeans ( Công giáo Iraq) và Armenians.

 2- Thuộc về Giáo Hội hay Tòa Thượng Phụ Alexandria là các giáo đoàn Coptic ( Công giáo Ai Cập) và  Công giáo Ethiopians

3- Thuộc Giáo Hội hay Tòa Thượng Phụ Constantinople là nhóm Kitô Giáo Đông Phương đông đảo nhất  theo nghi thức Byzantine. Ho là  những  tín  hữu Hy Lạp,, Bảo gia lợi ( Bulgarians) Georgians, Nga .., Ukrainians, Estonians, Hungarians, Rumanian, Egyptians…

4-Giáo Hội hay Tòa Thượng Phụ Rôma là cái nôi của Giáo Hội Công Giáo phương Tây,khác biệt với Phương Đông về nhiều mặt như nghi thức phụng vụ, giáo luật và kỷ luật bí tích., lễ phục , tu phục..

Các Tòa Thượng Phụ nói trên, từ đầu,  được coi là các Giáo Hội Mẹ của Kitô Giáo ( Mother Church of Christianity) trước khi xẩy ra những cuộc ly giáo (schisms) mà nghiêm trọng hơn hết là  ly giáo giữa Rome và Constantinople ( Hy Lạp) vào năm 1054 và kéo dài cho đến nay.

Cũng từ đó, Constantinople tự nhân trở thành Giáo Hội Chính Thống Phương  Đông và lan tràn qua các quốc gia trong vùng  như Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Roumania, Serbia, Cyprus, Lebanon… Bên canh các Giáo Hội  này, là các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương bắt nguồn từ 3 Toà Thượng Phụ Alexandria, Antioch và Jerusalem, tức các Giáo Hội Mẹ của Công Giáo Đông Phương. Các Giáo Hội này cũng có thời gian khá lâu đã không hiệp nhất với Giáo Hội Rôma  vì những hoàn cảnh và  lý do đặc thù, không thể nói hết ở đây trong khuôn khổ của một bài viết được. Vì thế, chỉ xin tóm tắt là khi các Giáo hội Kitô Giáo  địa phương này  trở lại hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã ( Rome ) thì họ có tên gọi chung là “ Các tín hữu qui hiệp= Uniates , nghĩa là hiệp thông trở lại với Rôma `sau thời gian ly khai vì những lý do riêng biêt.Và cũng từ đó, họ được gọi là các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương ( Easter Catholic Churches) để phân biệt với các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Easter Orthodox churches) chưa hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Rôma.

 Các Giáo hội Công Giáo Đông Phương có đặc tính chung là mỗi Giáo Hội đều có có các nghi thức phụng vụ với ngôn ngữ riêng, giáo luật riêng và kỷ luật bí tích riêng, mặc dù cùng chia sẻ  chung một niềm tin, một giáo lý, một nền tảng luân lý,  và các bí tích với  Giáo Hội Công Giáo La Mã  cũng như vâng phục Đức Thánh Cha  là  Đấng thay mặt Chúa Kitô trong vai trò và trách nhiệm  cai quản Giáo  Hội Công Giáo hoàn vũ,

Đứng đầu coi sóc các Giáo Hội địa phương nói trên  là các Thượng Phụ (Patriarch) tương đương như một Tổng Giám mục coi sóc một Giáo tỉnh ( Ecclesial Province) trong Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.

Theo Sắc Lệnh về các Giáo Hội Đông Phương ( Orientalium Ecclesiarumn) ( OE) của Thánh Công Đồng Vaticanô II, thì “ Thể chế Thương Phụ (Patriarchy) đã được thịnh hành từ lâu đời trong Giáo Hội và đã được các Công Đồng chung nhìn nhận.

Thực ra danh hiệu Thượng Phụ Đông Phương ( Eastern Patriarch) được dùng để chỉ vị Giám  mục  có thẩm quyền trên tất cả các giám mục kể cả các vị Tổng Giáo Chủ (Tổng Giám mục), trên hàng giáo sĩ và giáo dân trong địa hạt hay thuộc lễ chế của mình, chiếu theo luật định, nhưng vẫn tôn trọng quyền tối cao của  Giáo Hoàng La Mã.” (cf. OE. Số 7)

II- Các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương hiện ở đâu ?

  • Trươc hết là Giáo Hội Công Giáo Syro-Malabar

Lãnh thổ của Giáo Hội này nằm trong Tiểu Bang Kerala ở phía Tây Nam Ấn Độ. Giáo Đoàn này xuất phát từ  Cộng Đồng Kitô Giáo có nguồn gốc Tông Đồ là Thánh Thomas, nên họ cũng được gọi là các`Kitô hữu Thánh Tô Ma ( Thomas Christians) . Nhóm này đã ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã  từ năm 1653 vì không muốn chịu ảnh hưởng của Dòng Tên( Jesuits)  đang truyền giáo ở vùng này. Nhưng đến năm 1930 nhóm này đã quay trở lại và được đón nhận hiệp thống với Giáo Hội Công Giáo. Từ sau Công Đồng Vaticanoo II, họ đã bỏ ngôn ngữ Syriac trong phụng vụ và thay bằng ngôn ngữ Malayalam phổ thông hơn. Hiện Giáo Hôi Công Giáo Syro-Malabar có 3 Địa phận với  khoảng gần 300,000 tín hữu sinh hoạt trong Tiểu Bang Kerala ở miền Tây Nam Ấn Độ

Dĩ nhiên, ngoài nhóm Công Giáo với nghi thức phụng vụ riêng này , còn có Giáo hội Công Giáo của Ấn Độ ( The Catholic Church Of  India ) theo nghi thức La tinh ( Latin Rite)  hiệp thông trọn vẹn với Rôma ,và có số giáo sĩ và giáo hữu đông hơn nhóm kia.

   

  • Giáo Hội Công Giáo Chaldean (The Chaldean Catholic Church) của người Kitô hữu Ỉraq

Nhóm này  phần lớn tập trung ở thủ đô Baghdag với  nghi thức phụng vụ riêng gọi la Chaldean Rite hay còn gọi là East Syrian hay  Assyro-Chaldean Rite. Nghi thức này bắt nguồn từ di sản phụng vụ cổ xưa  của  Giáo Hội Mesopotamia.trong đế quốc Ba Tư

Giáo Đoàn này hiện có khoảng 500,000. Tin hữu với 10 Địa phận ở Iraq và 4 Địa phận nữa ở Iran. Ở Hoa Kỳ, cũng có một Địa phận dành cho người Công Giáo Iraq theo nghi thức Chaldean.Giáo Đoàn này chính thức hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã sau khi Đức Thánh Cha Julius III tấn phong Giáo Mục cho Thượng Phụ Simon VIII ngày 9 tháng 4  năm 1553 để coi sóc Giáo Đoàn Chaldean ở Iraq.

  • Giáo Hội Công Giáo Maronites ( The Maronite Catholic Church)

Đây là Giáo Hội Công Giáo của người  Li Băng ( Lebanon). Giáo Hội này xuất hiện từ năm 681 và lấy tên Thánh Maron làm tên gọi chung của Giáo Đòan. Đã có thời gian dài Giáo Đoàn này không hiệp thông với Rôma. Nhưng từ năm 1182 đến nay, Giáo Đoàn này đã hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo La Mã,.Họ theo nghi thức riêng gọi là Maronite Rite  với ngôn ngữ phụng vụ là Syriac và Arabic.Nghi thức phụng vụ này không những có  ở Li Băng mà còn thấy thực hành ở Syria , Ai Cập và  Cyprus.

Một bến có quan trọng là  ngày 14 tháng 4 năm 2011, Thượng phụ Antioch coi sóc người Công giáo Maronites, đã đến Rome để viếng thăm Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI  cùng với một số giám mục và linh mục Maronites. Nhân dịp này Đức Thánh Cha đã long trọng nhắc lại với   Đức Thượng Phụ Bechara Pierre Rai về việc Giáo Hội Công Giáo Roma  hoan hỉ đón mừng anh  em Moronites Hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo như Đức Thánh Cha đã nói trong thư gửi Đức Thượng Phụ ngày 24 tháng 3 năm 2011

  • Giáo Hội Công Giáo Coptic ( The Coptic Catholic Church)

Danh xưng Copt là tiếng Arabic có nghĩa là  Ai Cập, được  dùng để chỉ những tín hữu Công Giáo hay Chính Thông Giáo Ai Cập.Do đó, Giáo Đoàn Coptic là Giáo Hội Công Giáo Ai Cập ( Egypt) đã hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Rôma từ  năm 1741, sau nhiều thăng trầm của lịch sử Ai Cập nói chung và lịch sử sống còn của Giáo hội Coptic nói riêng.Theo lịch sử truyền giáo thì Thánh  Marc-cô, thánh sử., đã thành lập Giáo Hội này cho người Kitô hữu Ai Cập. Mặt khác, danh xưng Coptic cũng được dùng để chỉ Giáo Hội Chính Thống Ai Cập ( The Coptic Orthodox Church) như đã  nói ở trên.

Giáo hữu Coptic hiện nay chỉ có vào khoảng 180,000 người ở Ai Cập và được coi sóc bởi một Thượng Phụ ( Patriarch) ở Alexandria Ngôn ngữ phụng vụ của họ là tiếng Arabic và Coptic ( tiếng Ai Cập)

Để đánh giá cao những đóng góp của các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, Thánh Công Đồng Vaticanô II, qua  Sắc Lệnh Orientalium Ecclesiarum,( OE) đã long trọng tuyên bố như sau về các Giáo hội này:   

Lịch sử, các truyền thống và rất nhiều thể chế trong Giáo Hội đều chứng minh rõ ràng rằng các Giáo Hội Đông Phương có công biết bao đối với toàn thể Giáo Hội. Vì vậy, Thánh Công Đồng không những hết lòng yêu mến và ca ngợi đúng mức gia sản tinh thần của các Giáo hội này, mà còn xác quyết đó là sản nghiệp của toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô. Do đó Thánh Công Đồng long trọng công bố rằng các Giáo Hội Đông Phương cũng như Tây Phương đều có quyền lợi  và bổn phận theo những qui luật riêng của mình và những qui luật này có giá trị nhờ ở đặc tính cổ kính đáng quí trọng, phù hợp với tập tục của tín hữu hơn và xem ra có thể mưu ích cho các linh hồn cách  hữu hiệu hơn.” (OE, số 5)

Cũng cần nói thêm là, theo lịch sử Giáo Hội, thì Phương Đông là nơi đã đóng góp cho Giáo Hội những vị đại Giáo Phụ ( Church Fathers) nổi danh như các thánh Ignatius of Antioch, thánh Ephrem, thánh  Athanasius, thánh Cyril of Jerusalem, thánh Cyril of Alexandria, thánh Gregory  of Nyssa, thánh .John Chrysostom, thánh Basil  the Great, thánh Gregory of Nazianzus và  thánh John Damascene.

Mặt khác, nền thần học Kitô Giáo ( Christian theology) và lối sống đan viện hay ẩn tu ( Monasticism) cũng xuất phát từ Phương Đông trước khi được chấp nhận và sửa đổi bên Tây Phương.Thêm vào đó, trong vòng 9 trăm năm lịch sử Giáo Hội, các Công Đồng Đại kết ( Ecumenical Councils) đều họp ở Phương Đông.

Sau hết, những kinh phụng vụ như the Kyrie, the Gloria, và Kinh Tin Kinh Nicene mà phụng  vụ Giáo Hội ngày nay đang dùng cũng là di sản thiêng liêng của Phương Đông.

Như thế đủ cho thấy là các Giáo Hội Đông Phương, từ lâu đã là một trong những thành trì kiên cố của KitôGiáo trước khi xảy ra những cuộc ly giáo( schism) ,đặc biệt là ly giáo Đông Tây giữa Constantinople và Rome năm 1054, khiến một phần quan trọng của Phương Đông ( Các Giáo Hội Chính Thống) không còn hiệp thông cho đến nay với Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, mặc dù cùng chung một niềm tin, một Phép Rửa , một Kinh Thánh, một nguồn gốc Tông Đồ.

Chúng ta tha thiết cấu xin cho Giáo Hội duy nhất mà Chúa Kitô đã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ được mau hiệp nhất để cùng thờ lậy, tôn vinh và cảm tạ  một Thiên Chúa duy nhất với  Ba Ngôi Vị trong Mầu Nhiệm Chúa Ba ngôi ( The Triune God=The Holy Trinity)

Sau hết, cũng cần nói thêm là các Giáo Hội Đông Phương, dù là Công Giáo hay Chính Thông Giáo thì đều có các bí tích hữu hiệu như  của Giáo Hội Công Giáo La Mã .. Cho nên, tín hữu Công giáo được phép tham dự các nghi thức phụng vụ và lãnh các bí tích  trong các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương.  Nhưng chỉ được tham dự phụng vụ và lãnh bí tích nơi nhà thờ Chính Thống khi không tìm được nhà thờ Công Giáo nào trong vùng cư trú của mình.

Ước mong những giải thích trên thả mãn câu hỏi đặt ra.

Lm.Phanxicô Xaviê Ngô tôn Huấn

 --------------------------------------

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LM NGÔ TÔN HUẤN

Hiểu Đạo & Sống Đạo

 

 

Có Cần Thiết Phải Thực Hành Đức Tin Trong Giáo Hội Để Được Cứu Rỗi Không?

HỏiThực tế là có rất nhiều người Công giáo ngày nay không muốn đi xưng tội, không đi lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc vì nhiều lý do. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần giữ đức tin trong lòng và đọc Kinh Thánh ở nhà là đủ, không cần phải đi nhà thờ nữa ! Như vậy có được không ?

Trả lời: Thực trạng sống Đạo của rất nhiều người Công giáo ở khắp nơi trên thế giới ngày nay (trong đó có người công giáo Việt Nam ở hải ngoại) quả thật là điều đáng buồn. Con số người đi xưng tội chiều thứ Bảy, tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc đã giảm rất nhiều theo các thống kê đáng tin cậy.

Có nhiều lý do để giải thích thực trạng này. Nào vì hấp lực của văn minh vật chất, chủ nghĩa tục hóa (secularism) và hưởng thụ khoái lạc (hedonism) đã lôi cuốn nhiều người bỏ Chúa để chạy theo những quyến rũ của "văn hóa sự chết" như Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã cảnh giác.

Đó là những người đang mê mải kiếm tiền để làm giầu bằng mọi phương tiện, bắt chấp công bằng và bác ái cũng như tìm vui trong trong việc ăn uống, nhẩy nhót (già trẻ, xồn xồn đều thích trò chơi thiếu lành mạnh này) cờ bạc, du hí ở những nơi tội lỗi, và do đó bỏ quên hay lơ là việc sống Đạo cần thiết hơn. Mặt khác, cũng vì tình trạng tha hóa về luân lý, đạo đức ngày một bành trướng ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt ở những quốc gia vốn tự nhận là thuộc về Kitô Giáo (Christian Countries) như Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Canada và Hoa kỳ… nhưng nay lại dung dưỡng hay cho phép những thực hành phản Kitô Giáo như phá thái, chết êm dịu (Euthanasia) ly dị, hôn nhân đồng tính (same sex marriage).

Lại nữa,họ cũng làm ngơ hay tiếp tay cho kỹ nghệ sản xuất phim ảnh dâm ô (pornorgraphy), và mãi dâm phát triển làm đồi trụy không những người lớn mà đặc biệt là thanh thiếu niên vì những kỹ thuật và hình ảnh kích thích dâm tính công khai bầy bán trong các tiệm DVD for Adults và trên mạng vi tính toàn cầu. Sau nữa, vì cuộc sống tương đối đễ dàng, thoải mái cộng với tự do quá trớn ở các nước Âu Mỹ đã làm cho nhiều người không còn cảm thấy cần Chúa nữa và chỉ muốn vui sồng cho thỏa thích trong giây phút hiện tại mà thôi. Cứ đi một vòng quanh những nơi tụ họp công công sẽ thấy trẻ già, trai gái, xồn xồn ôm nhau nhẩy nhót trong những chương trình gọi là "văn nghệ cuối tuần" hay "hát cho nhau nghe" trong đó chắc chắn có những người công giáo không đi lễ ngày Chúa Nhật nhưng lại có mặt đúng giờ để tham dự các cuộc vui thâu đêm suốt sáng này! Đặc biệt, còn có rất nhiêu người không đi Lễ mừng Chúa Giáng Sinh nhưng lại tích cực tổ chức và tham dự những buổi ăn uống, dạ vũ vui chơi trong đêm Giáng Sinh!  Đây quả thực là một sỉ nhục cho ý nghĩa trọng đại của ngày kỷ niệm "Thiên Chúa làm Người và cư ngụ giữa chúng ta."(Ga 1 :14). Do đó, không thể lấy cớ mừng Chúa Giáng Sinh để ăn chơi phóng túng nhân dịp này, thay vì dọn tâm hồn cho sốt sắng để cùng với Giáo Hội cảm tạ Chúa đã giáng sinh để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết đời đời vì tội.

Nhưng đáng buồn thay, là đứng trước thực trạng này, những người có trách nhiệm giáo dục luân lý và đạo đức, cách riêng hàng giáo sĩ với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, chăm lo cho phần rỗi của các tín hữu được trao phó cho mình dạy dỗ, và hướng dẫn về mặt thiêng liêng, lại không có can đảm nhìn vào sự thật và mạnh mẽ lên án những nguy cơ đe dọa cho đức tin Công Giáo dẫn đến sự thờ ơ sống Đạo của nhiều tín hữu trong Giáo Hội ngày nay. Đáng lý phải mạnh mẽ nói cho mọi tín hữu biết sự cần thiết phải tìm kiếm Thiên Chúa và Vương Quôc bình an, hạnh phúc của Người trên hết mọi vui thú và danh lợi chóng qua ở trần thế này, thay vì im lặng để được an thân, - hay đáng buồn hơn nữa – là một số người còn cộng tác với thế quyền để tìm tư lợi, bỏ quên sứ vụ rao giảng và làm nhân chứng cho Chúa trước mặt người đời.

Nhưng thử hỏi: được mọi lời lãi ở đời này mà không được cứu rỗi thì ích lợi gì ?

Nhà độc tài Gadahfi của Libya đã bị bắn chết cách thê thảm, kết thúc 42 năm cai trị sắt máu ở quốc gia Phi Châu này.

Nhưng nếu giả sử ông ta không được cứu rỗi để sống đời đời, thì thử hỏi những lợi lãi trần thế to lớn mà ông có được như 6 bà vợ chính thức, quyền uy tột đỉnh danh vọng, tiền bạc vơ vét đầy túi, đầy kho, sau 42 năm cai trị xứ giầu hỏa Libya liệu có thể bù đắp được cho sự thiệt thòi to lớn là mất sự sống hay không ?

Dầu sao đây cũng là bài học đắt giá cho những kẻ độc tài, cai trị vô nhân đạo còn sót lại trên thế giới phải suy nghĩ mà sám hối để kịp thời rút lui, kẻo chắc chắn có ngày sẽ bị quần chúng trừng trị đích đáng như số phận của Gadahfi, Mubareck, Sadam Hussein, Binladen…

Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói như sau với các môn đệ xưa: "Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mang sống mình?" (Mt 16: 26; Mc 8: 36; Lc 9 : 25)

Có ai được lợi lãi cả thế giới này đâu.? Nhưng cho dù có ai chiếm được mọi của cải và danh vọng trên trần thế này mà cuối cùng mất linh hồn thì những lợi lãi kia cũng không thể bù đắp được cho sự thiệt thòi lớn lao là mất sự sống, mất linh hồn. Đó là điều Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta đang sống trong môi trường thế giới quá bị nhiễm độc vì chủ nghĩa tục hóa (secularism) tôn thờ vật chất và chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) lôi kéo con người đi tìm mọi mọi vui thú vô luân vô đạo.

Để bào chữa cho việc thờ ơ sống Đạo, không muốn tham dự các nghi thức phụng vụ của Giáo Hội - cụ thể là tham dự Thánh Lễ các ngày Chúa Nhật và Lễ buộc - nhiều người nghĩ rằng chỉ cần tin và đọc Kinh Thánh ở nhà, hay nghe những chương trình giảng Kinh Thánh của các mục sư Tin Lành trên truyền hình là đủ, không cần phải năng xưng tội hoặc tham dự Thánh Lễ hàng tuần nữa!

Chúng ta phải nghĩ thế nào về quan niệm này của những người nói trên ?

Chắc chắn đây không phải là cách sống Đạo đúng nghĩa của người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo.

Thật vậy, trước hết là vấn đề đức tin. Thế nào là tin ? Tin có Thiên Chúa tốt lành thì phải yêu mến và giữ Luật của Người. Mà yêu mến thì phải thể hiện bằng hành động cụ thể chứ không thể nói suông ngoài miệng là tin mà không có việc làm nào bề ngoài để chứng minh.

Một truyện vui kể rằng, ở một giáo xứ kia, Cha Xứ chợt lưu ý đến một ông già nọ vốn thường sốt sắng tham dự không những Thánh Lễ ngày Chúa Nhật mà còn siêng năng đi lễ mỗi ngày nữa... Nhưng bẵng đi một thời gian lâu, ông cụ vắng bóng ở nhà thờ. Cha Xứ lấy làm lạ, tưởng ông cụ bị đau ốm hay đã di chuyển đi nơi khác. Cha bèn đến nhà thăm ông xem sao. Đến nơi cha vẫn thấy ông ở nhà. Hỏi lý do vì sao ông vắng mặt ít lâu nay ở nhà thờ thì ông trả lời cha như sau:

"Con thấy không cần phải đi lễ, đọc kinh chung nữa. Con ở nhà đọc Kinh Thánh, lần chuỗi và nhớ đến Chúa trong lòng là đủ rồi."

Cha mỉm cười và hỏi ông: "Thế các con cháu cụ bây giờ ở đâu ?"

Ông cụ đáp: "Chúng ở xa con lắm, nhưng hàng năm cứ vào dịp Lễ Giáng Sinh và Tết thì đều trở về thăm con và cho quà tử tế."

Nghe xong cha xứ nói: "Tốt lắm, nhưng cụ làm ơn cho tôi xin địa chỉ hay số phone của các con cháu cụ đi".

- "Để làm gì thưa cha ?" ông cụ hỏi.

Cha trả lời ngay: "Để tôi viết thư hay phone cho các con cháu cụ bảo họ đừng tốn công và tiền bạc về thăm cụ nữa. Họ chỉ cần nhớ đến cụ trong lòng là đủ rồi; không cần thiết phải về thăm cho tốn thì giờ và tiền bạc nữa. Nói xong cha xứ cáo từ ra về trong khi ông cụ ngồi suy nghĩ những lời của cha vừa nói. Và mấy hôm sau, người ta lại thấy ông cụ xuất hiện ở nhà thờ như cũ.

Câu truyện trên chỉ là truyện tưởng tượng, nhưng cũng giúp minh chứng phần nào điều Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ dạy như sau về sự cần thiết phải thể hiện đức tin qua hành động cụ thể:

"Hỡi người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô dụng không ? Ông Abraham tổ phụ chúng ta đã chẳng được nên công chính nhờ hành động khi ông hiến dâng con mình là I-xa-ác trên bàn thờ đó sao?

Bạn thấy đó: đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo." (Gc 2:20-22)

Chúa Kitô đã thiết lập Giáo Hôi của Người trên trần thế và ban các bí tích như phương tiện hữu hiệu và cần thiết để thông ban ơn cứu độ của Chúa cho những ai muốn nhận lãnh qua Giáo Hội. Nhưng không phải cứ rửa tội rồi là sẽ được cứu rỗi. Cũng không thể nói khơi khơi như anh em Tin Lành rằng "tôi tin Chúa Kitô" là xong, không cần phải làm gì nữa, Tôi đã hơn một lần nói rõ là: theo Thần học và giáo lý của Hội Thánh, dựa trên Kinh Thánh và ơn mạc khải của Chúa Thánh Thần, thì muốn được cứu rỗi, nghĩa là được sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trên Thiên Nước Trời mai sau đòi hỏi chúng ta trước hết phải cậy nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô cộng thêm phần đóng góp của cá nhân con người vào ơn thánh.

Chính yếu tố cần đóng góp thêm của con người vào ơn cứu độ, mà người tín hữu không thể thờ ơ với nhu cầu tối quan trọng là phải sống và thực hành đức tin trong Giáo Hội sau khi được lãnh Phép Rửa.

Thật vậy, đức tin được ví như hạt giống gieo vào tâm hồn trẻ nhỏ hay người tân tòng khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Hạt giống này không thể tự nó lớn lên và sinh hoa kết quả được, nếu không có sự vun xới, tưới bón của những người có trách nhiệm hỗ trợ về mặt thiêng liêng là cha mẹ và người đỡ đầu đối với trẻ em, của người bảo trợ và cộng đoàn đức tin đồi với người tân tòng.

Do đó, nếu cha mẹ không lo giáo dục đức tin cho con cái trong gia đình, nhất là cho con cái được tiếp cận với một cộng đoàn đức tin – cụ thể là một giáo xứ - để con em được học hỏi giáo lý và lãnh nhận các bí tích quan trọng và cần thiết khác như xưng tội, rước lễ lần đầu, và thêm sức thì đức tin của các em sẽ không thể lớn lên được.

Đối với người tân tòng (catechumens) và những người lớn (adults) đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy từ ngày sơ sinh, thì việc nuôi dưỡng và thực hành đức tin trong Giáo hội cũng cần thiết không kém. Cụ thể, nếu không tham dự việc cầu nguyện chung với cộng đoàn đức tin là giáo xứ, và nếu không tin – hay không nhìn nhận lợi ích của bí tích hòa giải để năng đi xưng tội, nhất là không tham dự Thánh Lễ, và rước Mình Máu Thánh Chúa là "nguồn suối và đỉnh cao của đời sống Giáo Hội" thì người ta lấy gì để nuôi dưỡng và lớn lên trong đức tin ?

Đằng rằng tin có Chúa là điều quan trọng và đọc Thánh Kinh là cần thiết và bổ ích. Nhưng đức tin phải được nuôi dưỡng sung mãn với ơn Chúa thông ban qua các bí tích quan trọng như Phép rửa, Thêm sức, Hòa giải và nhất là bí tích Thánh Thể là nguồn mạch chính nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của Giáo Hội nói chung và của cá nhân mỗi tín hữu nói riêng. Vì thế, nêu không tham dự mọi cử hành phụng vụ thánh của Giáo Hội mà đỉnh cao là Thánh Lễ Tạ Ơn thì đức tin và đời sống thiêng liêng của chúng ta sẽ không thể tăng trưởng được và có đủ sức để sống đức tin ấy trước những thách đố của sự dữ, dịp tội đầy rẫy trong trần thế này, nhất là những mưu chước thâm độc của ma quỷ "Thù địch của anh emnhư sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé" (1Pr 5: 8)

Kinh nghiệm cá nhân và phổ quát chứng minh rằng muốn được thăng tiến trong bất cứ lãnh vực nào, người ta cần phải cố gắng học hỏi và trau giồi kiến thức và kỹ năng chuyên môn của lãnh vực ấy. Một lực sĩ không thể giữ được thành tích của minh nếu không chuyên cần tập luyện mỗi ngày. Chân lý này hoàn toàn đúng trong lãnh vực thiêng liêng, đạo đức. Một người siêng năng cầu nguyện nhất là tham dự Thánh Lễ và rước Minh Thánh Chúa sẽ tăng lòng yêu mến và gần Chúa hơn người làm biếng không cầu nguyện và rước Minh Thánh Chúa.Tình trạng "nguội lạnh thiêng liêng" này sẽ đưa đến sự sa sút đức tin, đức cậy và đức mến theo thời gian.

Đó chính là điều Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa:

"Và phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi." (Mt 25:29)

Nói khác đi, chính nhờ siêng năng làm việc đạo đức và hiệp thông với Giáo Hôi trong mọi cử hành phung vụ như cầu nguyện đọc kinh chung, đi Đàng Thánh Giá, chầu Thánh Thể, năng xưng tội, nhất là tham dự Thánh Lễ để được rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô, mà đời sống thiêng liêng của chúng ta được lớn lên, đưa chúng ta đến gần với Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tin có thật, Người đang yêu thương và muốn "đến và ở lại trong chúng ta" (Ga 14: 23), nếu chúng ta thực tâm yêu mến và tìm kiếm Người trên hết mọi sự ở đời này.

Như thế, yêu mến Chúa thì không thể coi nhẹ đời sống thiêng liêng, coi thường các phương tiện hữu hiệu và cần thiết là các bí tích mà Chúa Kitô đã ban cho Giáo Hội cử hành để mưu ích cho phần rỗi của mỗi người chúng ta, bao lâu còn sống trên trần gian này.

Do đó, không thể "sống Đạo" một mình mà không cần đến Giáo Hội, không tham gia đời sống bí tích và phụng vụ của Giáo Hội như thực trạng sống Đạo hiện nay của rất nhiều người.

Sau hết, liên quan đến việc đọc Kinh Thánh, có thể nói vắn tắt như sau: đọc Kinh Thánh là cần thiết và hữu ích. Tuy nhiên, không thể tự đọc mà hiểu đúng được Lời Chúa trong Kinh Thánh.

Vì thế, cần thiết phải tham dự Thánh lễ để được nghe và giải nghĩa lời Chúa qua các bài đọc, đặc biệt là bài Phúc Âm. Nhưng muốn được hiểu biết thêm về Kinh Thánh thì có thể tham dự những lớp học hỏi về Kinh Thánh do những người có khả năng chuyên môn hướng dẫn ở các giáo xứ, hoặc tốt nhất đi học một khóa về Kinh Thánh ở Đại Học hay Chủng Viện. Ở Mỹ, có nhiều chủng viện thâu nhận cả học viên bên ngoài vào học các lớp Thần học và Kinh Thánh dành cho chủng sinh đang chuẩn bị làm linh mục. Nghĩa là không thể tự học Kinh Thánh để hiểu cho đúng lời Chúa được.

Tóm lại, quan niệm sống Đạo tách rời khỏi, hay không cần hiệp thông hữu hình với Giáo Hội là rất sai lầm. Là tự lừa dối mình nếu không muốn nói là tự kiêu tự đại, cho mình có đủ khả năng để tìm đến với Chúa, không cần phương tiện hữu hiệu mà Chúa Kitô đã có ý ban cho chúng ta là Giáo Hội của Chúa trên trần thế này. Với chức năng siêu phàm, Giáo Hội được ví như "con Tàu của ông Nô-e" trong thời đại ngày nay để cho những ai muốn vào sẽ được cứu sống giữa cơn phong ba của hồng thủy đang nổi lên để cuốn đi vào lòng đại dương mọi sinh vật bên ngoài con Tàu cứu nguy này.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ NĂM CN PHỤC SINH

Thứ Năm Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh

 

Bài Ðọc I: Cv 3, 11-26

"Ðấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại".

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, khi người què được chữa lành cứ theo sát Phêrô và Gioan, toàn dân bỡ ngỡ chạy đến hai ngài đang ở hành lang gọi là hành lang Salômôn. Thấy vậy Phêrô liền nói với dân chúng rằng: "Hỡi các người Israel, tại sao anh em ngạc nhiên về việc đó và nhìn chúng tôi như là chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người này đi được? Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta, đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng. Và bởi đã tin vào danh Người, nên danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết đây, được vững mạnh, và lòng tin vào Người chữa anh này hoàn toàn lành mạnh trước mặt hết thảy anh em.

"Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Ngài dùng miệng các tiên tri mà báo trước rằng Ðức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ, như thế để Thiên Chúa ban cho anh em thời kỳ thư thái, và sai Ðức Giêsu Kitô, Ðấng mà Chúa đã phán hứa cùng anh em trước, Ðấng phải về trời cho đến thời kỳ phục hồi vạn vật, như Chúa đã dùng miệng các thánh tiên tri Ngài mà phán từ ngàn xưa. Môsê đã nói rằng:

"Vì Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ cho xuất hiện giữa anh em các ngươi một tiên tri như ta, các ngươi hãy nghe tất cả những điều Ngài sẽ nói với các ngươi. Vậy, tất cả những ai không chịu nghe theo vị tiên tri đó, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.

"Và tất cả các tiên tri, từ Samuel và các vị kế tiếp, đều đã nói và tiên báo về ngày này. Anh em là con cháu các tiên tri và con cháu của giao ước mà Chúa đã thiết lập với các tổ phụ chúng ta, khi Người phán cùng Abraham rằng: "Chính nơi dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc". Chính vì anh em trước tiên mà Thiên Chúa đã cho Con của Ngài xuất hiện và sai đi chúc phúc cho anh em, để mỗi người từ bỏ tội ác".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 8, 2a và 5. 6-7. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Nhân loại là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.

2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.

3) Nào chiên, nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 117, 24

Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 24, 35-48

"Ðấng Kitô phải chịu thương khó như vậy, rồi mới được tôn vinh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.

Người lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy". Ðó là lời Chúa. 

 

Suy niệm

"Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: 'Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ'".

 


 

Thánh ký Luca, qua đoạn trên đây, đã thuật lại sự kiện lần đầu tiên Chúa Kitô hiện ra với chung các tông đ sau khi Người từ trong cõi chết sống lại. Tuy nhiên, Đấng Phục Sinh vẫn còn phải chứng thực Người quả thật là Thày của các vị và là Đấng đã thực sự bị đóng đanh nữa, bằng cả các dấu hiệu bề ngoài là chân tay của Người và ăn uống trước mặt các vị, lẫn soi sáng tâm trí bề trong của các vị để các vị nhờ đó mới có thể chân nhận rằng những lời Thánh Kinh về Người đã được hoàn toàn ứng nghiệm:

 

"Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: 'Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây'. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: 'Ở đây các con có gì ăn không?' Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: 'Ðúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh'. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh".

 

Ở đây chúng ta thấy các tông đồ có khác, là nam nhân thiên về lý trí và lý sự nên khó tin hơn thành phần nữ giới tự bản chất sống theo cảm tình và trực giác, thành phần đã chẳng cần phải chứng minh gì cả đã tin ngày Đấng hiện ra với mình là Chúa Kitô, như trong bài Phúc Âm Thứ Hai (với chung các phụ nữ) và Thứ Ba (với riêng Chị Mai Đệ Liên) Bát Nhật tuần này cho thấy.

 

Đối với các vị nam nhân tông đồ này, Chúa Giêsu đã chẳng những cho các vị "xem tay chân Thày" mà còn "ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ" (nghĩa là ăn thật nên còn dư), mà còn mở lòng mở trí cho các vị hiểu được Thánh Kinh do chính Người dẫn chứng về Người nữa. Nhờ đó, các vị mới có thể làm chứng về Người, bằng một đức tin không phải thuần lý hay thuần thiêng có vẻ duy tín hay cuồng tín một cách dị đoan hoặc hoang đường nhưng có chứng cớ cụ thể hiển nhiên đàng hoàng không thể chối cãi.

 

Đó là lý do ở cuối bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã bảo các tông đồ được Người hiện ra chứng thực rằng Người cho dù đã bị chết nhưng sống lại rằng "các con là chứng nhân về những điều này", nghĩa là về những gì các vị được Người tỏ ra cho thấy, và vì thế chứng tỏ những gì chính các vị đã thấy và đã nghe về Người, cả trước và sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết.

 

Chúa Kitô khổ nạn, tử giá và được mai táng trong mồ vào chiều Thứ Sáu ấy đã hiện ra với chung các môn đệ và riêng các tông đồ lần đầu tiên này không phải chỉ để chứng thực về bản thân Người là Đấng đã bị bàn tay hận thù sắt máu của con người giết chết nhưng Người đã sống lại, hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết, mà còn để sai các vị đi "bắt đầu từ Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria" (Tông Vụ 1:8) mà làm chứng về Người là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái, và đi "cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8) mà làm chứng cho Người là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại:


"P
hải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy". Phải chăng Bí Tích Hòa Giải (xem cả Gioan 20:21 cùng với Bí Tích Rửa Tội - xem Mathêu 28:19) được Chúa Giêsu thiết lập sau khi Người phục sinh từ trong kẻ chết mà theo luật Giáo Hội hằng năm Kitô hữu Công giáo buộc phải "xưng tội một năm ít là một lần trong Mùa Phục Sinh" chứ không phải trong một mùa nào khác, cho dù là Mùa Chay vốn được coi là mùa thống hối ăn năn hoán cải?

 

Nếu trong biến cố khổ nạn và tử giá, Chúa Kitô đã chứng thực mình quả là Đấng Thiên Sai, đến không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Cha là Đấng đã sai Người, đến độ cho dù có thể Người vẫn không xuống khỏi thập giá, trái lại, "mặc dù là Con, Người đã biết tuân phục nơi những gì Người chịu" (Do Thái 5:8), thì trong biến cố phục sinh, Chúa Kitô được Chúa Cha, Đấng mà Người phó thần trí của Người cho trước khi chết (xem Luca 23:46), qua quyền năng của Thánh Thần là Đấng đã làm cho Người sống lại từ kẻ chết (xem Roma 8:11), chứng thực Người đúng là "Chúa và Thiên Chúa" (Gioan 20:28).

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan thuật lại lần hiện ra với chung các tông đồ lần đầu tiên này còn cho biết thêm các chi tiết sau đây:

 

1- Sau khi nhận ra Chúa căn cứ vào tác động tự chứng của mình (như Phúc Âm Thánh Luca hôm nay thuật lại), "các môn đệ hoan hỉ khi thấy Chúa" (Gioan 20:20);

 

2- Được các môn đệ nhận biết rồi Chúa Kitô Phục Sinh mới sai phái các vị ra đi như Người để tiếp tục sứ vụ của Người và thay Người: "Như Cha đã sai Thày thế nào, Thày cũng sai các con như thế" (Gioan 20:21);

 

3- Sau cùng, để các vị có thể thực hiện sứ vụ thừa tác viên được chính Chúa Kitô Phục Sinh sai phái như thế, sứ vụ "rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân", như trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay, Người đã phải thông Thánh Linh của Người cho các vị bằng hơi thở từ chính thân xác phục sinh tràn đầy Thánh Linh của Người: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh" (Gioan 20:22).

 

Vì chỉ có nhờ Thánh Linh, các vị mới có thể trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người và cho Người, khi các vị có cùng một tâm tình, ngôn từ, tác hành và phản ứng như chính Chúa Kitô, Đấng "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư trầm" (Luca 19:10). Chính vị Thánh ký Luca này cũng là tác giả của Sách Tông Vụ, trình thuật lại hoạt động của Thánh Linh qua chứng từ truyền giáo của các tông đồ nói chung và của vị tông đồ dân ngoại Phaolô nói riêng, như chúng ta đọc thấy trong suốt Mùa Phục Sinh 7 tuần lễ ở Bài Đọc 1 được Giáo Hội cố ý sắp xếp như vậy.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

 

 PS.BatNhat-5.mp3

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CÓ MA QUỶ KHÔNG?

CÓ MA QUỶ KHÔNG, CHÚNG Ở ĐÂU VÀ CÓ THỂ LÀM HẠI CON NGƯỜI RA SAO ?

 

Hỏi:

 Xin cha giải thích về sự có mặt của  ma quỉ  cám dỗ con người trên trần thế này.

Trả lời:

Nói về ma quỉ (devils, ghosts) chúng ta cần phân biệt  phân biệt hai loại sau đây:

1-Trước hết là có những hiện tượng kinh dị mà nhiều người đã gặp thấy  và  tin đó là có hồn ma  người chết hiện về  để nhát đảm người còn sống. Cụ thể , cách nay trên 60 năm, trong làng của cha mẹ tôi ở  thuộc tỉnh Hâ nam , mẹ tôi đã kể cho tôi nghe về  một bà kia ốm đau đã lâu ngày , chữa chậy tồn nhiều tiền mà không khỏi bênh, nên sinh buồn phiền chản nản sao đó. Cho nên hôm lễ kính Thánh Cả Giuse- ngày 19 tháng 3- .Quan Thầy của làng. Bà đã xua các con cháu đi lễ hết và ở nhà một mình, bà đã treo cổ tự tử trong nhà. Người con  gái lớn đang đi lễ ở nhà thờ bỗng cảm thấy có gì không yên trong lòng nên đã bỏ dở lễ về nhà thì thấy mẹ đang treo cổ chết.Chị đã tháo giây cho bà lăn xuống , bế đặt lên giường rồi tri hô lên là mẹ tôi trúng gió chết !. Thoạt đầu dân làng cũng tin như vậy, vì bà này đã ốm đau lâu ngày. Nhưng sau khi đem bà đi chôn ở nghĩa trang của làng, thì lạ thay có đàn chim lạ đông vô số  kể, to và đen như quạ bay ở đâu về đậu từ nghĩa trang nơi chôn bà kia đến nóc nhà bà ở . Một sự sợ hãi  đã lan rộng khắp trong  làng đến nỗi không ai dám ra ngoài về đêm! Và từ đó dân làng đều tin bà kia đã tự tử chết dù con cái bà dấu không nói ra  cho ai biết.Chưa hết, một tối kia, bà già mẹ chồng bà kia đang ẵm cháu nằm trong giường chưa ngủ, thì con ma đã hiện về, mở cửa phòng rôi lên tiếng cười nghe  rất ghê sợ. Nó tiến lại giường bà mẹ chồng nắm,  giỡ mùng lên và đưa  tay lạnh lẽo sờ vào mặt bà  và nói : con về thăm mẹ đây ! bà già sợ hãi mắng nó rằng : mày xéo đi ,kiếp nào về kiếp đó.Đừng về đây làm khổ cho con cháu mày nữa ! Nghe thế, con ma lại lặng lẽ  đi ra vào trong đêm tối. Bà già kia đã đem chuyện hải hùng này kể cho mẹ tôi,có tôi ngồi đó nghe ! eo ơi sợ quá, tôi chỉ nghe kể lại mà đã thấy sợ hãi vô cùng. Chưa hết, còn chuyện lạ nữa là mỗi năm trước ngày Lễ kính Thánh Giuse, ngày 19 tháng 3, đàn chịm lạ kia lại bay về làng , đậu từ nghĩa trang chôn bà tự tử kia đến nóc nhà của bà ấy ở. Sau Lễ, chúng lại bay đi khỏi làng ! chính tôi- khi ấy- đã cùng đám trẻ trong làng đi đánh đuổi những con chim kia bay về làng trước ngày Lễ Kính Thánh Giuse.Nhưng từ 65 năm nay sống xa quê hương, tôi không biết đàn chim kia còn bay về làng mối năm nữa không. Tôi đự định về thăm VN trong năm nay và sẽ về quê ở làng Doãn, Huyện Bình Lục, Tỉnh Hanam để hỏi những người lớn tuổi trong làng về hiện tượng ma quái nói trên.   .

Ở Mỹ cũng có hiện tượng tương tự. vì  có những nhà  được gọi là “Haunted houses” (có ma ám ảnh) không ai dám ở vì tin là có ma hiện ra nhát người sống. Bản thân tôi, khi còn làm phó xứ ở một giáo xứ kia, có một giáo dân người Mễ-Tây Cơ  một hôm đã đến xin tôi làm phép nhà cho bà ta vì bà nói thỉnh thoảng về  đêm ,bà nghe có tiếng la hétvà tiếng nước chảy từ  phòng tắm kế bên phòng ngủ của bà ,  mặc dù  trong nhà chỉ có hai vợ chồng già và không ai sử dụng phòng tắm về đêm! Tôi đã đến làm phép nhà cho bà và sau đó  không thấy bà nói gì về việc sợ hãi kia nữa.

Như vậy, chắc chắn có những “hiện tượng bất thường” xảy ra mà người ta gán cho là có ma quỷ  xuất hiện dưới nhiều hình thức  để nhát đảm hay quấy phá người sống. Giáo Hội không đưa ra một giải thích rõ nào về những hiện tượng này, mặc dù  tin có chuyện ma quỷ ám hại con người  nên cho đến nay, Giáo Hội vẫn sử dụng phép  “trừ   quỷ, trừ tà”  (Exorcism) được Giáo Quyền địa phương trao cho một linh mục nào thi hành khi cần đến.

Xưa kia, khi còn đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần “trừ quỉ” nhập vào làm khổ nhiều người. Điển hình là trường hợp có người kia đã bị một lũ quỷ nhập và hành hạ rất khốn đốn. Chúa đã trừ chúng ra khỏi nạn nhân và  cho chúng nhập vào đàn heo và lao xuống vực thẳm chết.hết. (Lc 8: 26-31). Lại nữa, “các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên: Ông là Con Thiên Chúa. Nhưng Người đã cấm ngặt  chúng  không được tiết lộ Người là ai.” (Mc 3:  11-12).

Quỷ la lên khi bị Chúa trừ ra khỏi các nạn nhân của chúng và không cho phép chúng nói Người là ai (Lc  4: 40-41).Tin Mừng Thánh Matthêu cũng thuật lại trường hợp một người bị quỷ ám khiến cho  mù  lòa  và câm. Chúa đã trừ quỷ ra khỏi anh ta khiến anh lại  được trông thấy và nói được. (Mt 12: 22-23). Đặc biệt, Chúa đã trừ 7 quỷ ám hại một phụ nữ tên là  Maria Ma-đa-la. (Lc 8 : 2) . Bà này sau đó đã đi theo Chúa cho đến khi Người chết trên thánh giá. Bà cũng là phụ nữ đầu tiên đã đến viếng Mộ Chúa sáng ngày thứ nhất trong tuần và đã được gặp Chúa hiện ra và bảo đi loan báo tin mừng Chúa Phục Sinh cho các môn đệ Người. (Mt 28:  1-10; Ga 20: 11-18)

Thánh Phaolô cũng nhân danh Chúa Kitô để trừ  quỷ nhập vào một phụ nữ chuyên nghề bói toán, đồng bóng:

        “Nhân danh Đức Giêsu-Kitô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này. Ngay lúc ấy quỷ thần liền xuất.ra” (Cv  16: 18)

Nhưng  phải nói ngay là, những trường hợp quỷ nhập và ám hại người sống nói trên, kể cả  những chuyện  ma quỷ  hiện hình  để quấy phá  người sống, tất cả  chỉ  có tác dụng làm cho người  ta sợ hãi, khốn khổ về thể xác mà thôi, chứ không có gì phải lo sợ về phần hồn.

  Điều đáng lo sợ về phần hồn, hay phần rỗi của mọi người chúng ta là có  loại ma quỷ  không hiện hình để phá phách, hay ám hại ai  về thể xác,  nhưng  vô hình cám dỗ con người với nhiều chiến lược tinh xảo  khiến  cho rất nhiều người  đã và đang ngã theo chúng để làm những sự dữ, sự tội như chúng ta thấy rõ bộ mặt của chúng trong cách sống của biết bao người ở khắp nơi trên trần thế xưa và nay. Đó là những kẻ đang giết người, giết thai nhi, hãm hiếp phụ nữ. oán thù muốn làm hại người khác. Đặc biệt đó là những kẻ đang buôn bán phụ nữ, bắt cóc trẻ nữ để bán cho bọn ma cô tú bà hành nghề mãi dâm và ấu dâm (child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi ở nhiều nơi trên thế giới tục hóa, vô luân vô đạo này.Tất cả những kẻ đã và đang làm những sự dữ nói trên đều đã bị chi phối hay cám dỗ bởi thứ ma quỉ gọi là Satan và bè lũ

2- Đó là  Quỷ Satan và bè lũ:

Loại  “ma quỷ”  này không  hiện ra để  làm  cho ai phải khiếp sợ, nhưng lai vô hình ám hại con người cách đáng sợ hơn,với những mưu chước  cám dỗ  rất tinh vi và thâm độc để mong lôi kéo con người ra khỏi  tình yêu của Thiên Chúa, làm nô lệ cho chúng để mất hy vọng được cứu rỗi.

Đó chính là loại ma quỉ mà Thánh Phêrô đã cảnh cáo và ví chúng như “ sư tử đói rảo quanh tim mồi cắn xé.”(1 Pr 5: 8)

Đây là thứ quỷ mà   Kinh Thánh và  Giáo lý của Giáo Hội  nói về “một Thiên Thần đã sa ngã để trở thành quỷ Satan” và kéo theo các Thiên Thần khác  nổi lên chống lại Thiên Chúa và  không hề ăn năn sám hối xin tha thứ để vĩnh viễn là những kẻ phản loạn, muốn lôi kéo con người đi theo chúng để chống lại Thiên Chúa là tình yêu, công bình và thánh thiện. (x. SGLGHCG số 391-394)

Thánh Gioan, trong Sách Khải Huyền, đã gọi loại ma quỷ hay Sa-tan này  là Con Mãng  xà, tức Con Rắn xưa:

       “Bấy giờ tôi thấy một Thiên Thần từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một dây xích lớn. Người bắt lấy Con Mảng Xà, tức là Con Rấn xưa, cũng là ma quỷ hay Sa-tan, và xích nó lại một ngàn năm.” (Kh 20: 1-20)

Nói rõ hơn, loại ma quỷ này được xem như “những Thiên Thần đã sa ngã” vì đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa và  đã  bị đạo binh thiên quốc của Tổng lãnh Thiên thần Mi-ca-e  đánh bại.

Đây mới là loại “ ma quỉ” mà chúng ta phải  khiếp sợ và đề phòng để không sa vào cạm bẫy của chúng  như Thánh Phêrô đã ân cần nhắc nhở  chúng ta sau  đây:

     “Anh  em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh  em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr  5: 8)

Như sư tử đói rảo quanh tìm mồi ăn sống nuốt tươi  thế nào, thì ma quỷ cũng ngày đêm rình rập để cướp lấy linh hồn chúng ta bằng  mọi mưu chước cảm dỗ như vậy.

Như thế, loại ma quỷ này  mới  chính là  kẻ thù nguy hiểm nhất mà chúng ta phải tỉnh thức đề phòng, và  nương nhờ ơn Chúa  để chống lại chúng  hầu  được sống trong tình thương của Chúa và có hy vọng được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Quỷ Satan và bè lũ “rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây”  như chính Satan đã trả lời Thiên Chúa khi nó muốn thách đố Thiên Chúa về lòng tin và yêu mến của ông Gióp trong cơn thử thách nặng nề. Chúa cho phép nó được  đụng chạm đến của cải, tài sản của ông Gióp nhưng không được đụng đến mạng sống của ông. (Gióp 1: 9: 12)

Chính vì mục đích của chúng là lôi kéo con người ra khỏi tình thân với Chúa nên Quỷ Satan và bè lũ đã và đang xô đẩy  quá  nhiều người xuống vực thẳm hư mất đời đời, vì  đã dại dột  nghe theo chúng để phạm những tội ghê gớm như giết người hàng loạt, phá thai không  gớm  tay, hận thù, trộm cướp, ham mê khoái lạc (Hedonism) và dâm ô thác loạn, chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ tiền bạc và của cải  vật chất, buôn bán phụ nữ và trẻ nữ để bán cho bọn ma cô tú bà hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn, và tội  lỗi, trong khi  dửng dưng trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao người không may mắn ở khắp nơi trên thế giới. Đặc biết ở các quốc gia độc đảng, độc tài, tham quyền cố vị  để vơ vết của cải, làm giầu cho bản thân và phe nhóm, trong khi nhắm mắt bịt tai trước những bất công xã hội và suy thoái nặng nề về  luân thường đạo lý. Tắt một lời: thế giới đang sống với văn hóa của sự chết vì Satan đang thống trị  quá nhiều  người ở khắp nơi trên thế gian tục hóa, vô luân vô đạo  ngày nay.

Từ thuở đầu tiên, chính quỷ Satan, trong hình thù  con Rắn,  đã cám dỗ bà Eva ăn trái cấm trong Vườn  Địa Đàng, khiến con người đã mất tình thân với Thiên Chúa và mang sự chết vào trần gian như ta đọc thấy trong Sách Sáng Thế., và Thư Rôma của Thánh Phaolô. ( x. St 3: 1-6; Rm  5: 12 )

Sau này, cũng chinh quỷ Satan  đã dám đến cám dỗ Chúa Giêsu ba lần trong rừng vắng, nơi Chúa ăn chay cầu nguyện. Chúa đã đánh bại và quát mắng nó: “ Satan kia xéo đi.” (Mt 4 : 10)

Chúa  đã đánh bại Satan với Thần khí của Thiên Chúa như lời Người  đã nói với  dân chúng chứng kiến việc Người trừ quỷ ra khỏi một nạn nhân bị nó làm cho câm và mù mắt:

       ...còn nếu Tôi dựa vào Thần Khí  Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” (Mt 13: 28)

Sau này, cũng  Satan đã “nhập vào Giuđa” sau khi  môn đệ này ăn miếng bánh Chúa trao cho trong đêm Tiệc Ly cuối cùng.  Và y đã ra đi trong đêm tối để thi hành việc trao nộp Chúa cho bọn Thượng tế và kỳ mục Do Thái. (Ga 13 : 27)

Trước đó, Chúa cũng đã nói với Phêrô  về  hiểm họa cám dỗ của Satan như sau:

       “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh  em như người ta sàng gạo.” (Lc  22: 31)

Sàng  như sàng gạo, nghĩa là cám dỗ mãnh liệt cho ta sa ngã. Vì thế, Chúa đã nhắc thêm cho Phêrô và các môn đệ Người  phải luôn  tỉnh thức mà cầu nguyện như sau:

         “Anh  em hãy canh thức mà cầu nguyện  kẻo sa chước cám  dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” (Lc 14: 38 )

Chúa  phải nhắc các môn đệ Người và tất vả chúng ta như vậy vì  Người biết rằng Satan  và  bè lũ luôn rình rập từng giây từng phút  để cám dỗ con người phạm tội nghịch cùng Thiên Chúa như chúng luôn thù nghich Thiên Chúa và không muốn cho ai thuộc về Thiên Chúa nữa.

Tóm lại, ma quỷ là một thực thể không thể chối cãi được. Chúng có mặt cách vô hình trên trần gian, sau khi đã phản nghịch cùng Thiên Chúa và bị trục xuất ra khỏi Thiên Đàng  như  Kinh Thánh và giáo lý của Giáo Hội  dạy. Chúng quả thực là kẻ thù đáng sợ cho mọi người tín hữu chúng ta, vì âm mưu thâm độc của chúng muốn lôi kéo chúng ta ra khỏi tình thương và  tình thân với Chúa, khiến ta mất hy vọng được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Do đó, muốn được  cứu rỗi, muốn thuộc vể Chúa  để hưởng Thánh Nhan  Người trên cõi vĩnh hằng, chúng ta không thể coi thường sự có mặt của ma quỉ hằng tỉnh thức và rình rập bên ta ngày đêm để cám dỗ ta làm những gì trái nghích với tình thương, công bình và thánh thiện của Thiên Chúa là  Cha cực tốt cực lành; Đấng giầu lòng  yêu thương nhưng gớm ghét mọi tội lỗi, vì tội lỗi là do ma quỷ  gây ra  như  Thánh Gioan Tông Đồ đã dạy dưới đây:

             “Ai phạm tội thì là người của  ma quỷ 

               Vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi  đầu

               Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện

               Là để phá hủy công việc của ma quỷ.”  ( 1Ga 3:8)

Vậy chúng ta phải luôn tỉnh thức, luôn cầu nguyện  và đề phòng để không sa chước cám dỗ của ma quỷ, là kẻ triệt để  khai thác sự yếu đuối của bản tính con người và gương xấu của thế gian, của  môi trường xã hội để mong  xô chúng ta xuống vực thẳm  hư mất đời đời cùng với chúng.. Cho nên, muốn được cứu rỗi để vào Nước Thiên Chúa mai sau, tất cả chúng ta , những người may mắn có  được đức tin, phải cương quyết chống lại Satan và bè lũ để  không phạm tội và mất hy vọng được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Chúa Kitô đến trần giân để hy sinh mạng sống mình làm “giá chuộc cho muôn người” ( Mt 20:28) nhưng Chúa không tiêu diệt hết mọi tội lỗi và kẻ gây ra tội lỗi là ma quỉ. Do đó, muốn được cứu rổi để vào hưởng hạnh phức Nước Trời với Chúa sau khi hoàn tất hành trình con người trên trần thế này, chúng ta chớ quên sự có mặt của tội lỗi và ma quỉ để phải  liên lỉ chiến đấu chống lại chúng với ơn Chúa phù giúp cho đến phút sau cùng của mỗi người chúng ta trên trần gian này.Phương pháp hữu hiện để chiến thắng tội lỗi và ma quỉ là phải siêng năng cầu nguyện vì “ không có Thầy anh  em không làm gì được.”( Ga 15:5)  Nghĩa là không có ơn Chúa phù giúp thì chúng ta không dễ vượt qua mọi cám dỗ của ma quỉ, của xác thịt yếu đuối và lôi cuốn mạnh  mẽ của thế gian với quá nhiều gương xấu và dịp tội.

Tóm lại, tội lỗi và ma quỉ có mặt trong trần gian và ở quanh mỗi người chúng ta để mong lôi kéo chúng ta ra  khỏi tình thương và thân tình với Chúa khiến mất hy vọng được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô.Do đó, muốn chiến thắng ma quỉ và tội lỗi, mọi người tín hữu chúng ta phải luôn cầu nguyện, nhất là năng rước Mình Thánh Chúa để được tăng sức mạnh thiêng liêng trong cuộc chiến chống tội lỗi và ma quỉ là kẻ gây ra mọi tội lỗi qua các cơn cảm dỗ liên lỉ và tinh quái của chúng.Amen.

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - TÔNG HUẤN CHRISTUS VIVIT

15 câu trích từ Tông huấn "Christus vivit"

nguyenthi leyen chuyển

4/8/2019 4:01:41 PM

 
 

Christusvivit.jpg

1. Những gì tách biệt chúng ta với tha nhân đều khiến cho tâm hồn ta nên già cỗi. (số 13)

 

 2. Nếu bạn đánh mất sức sống nội tâm, ước mơ, sự nhiệt tình, sự lạc quan và độ lượng của bạn, thì Đức Giêsu đứng trước bạn như Ngài đã từng đứng trước người con trai đã chết của bà góa, và với sức mạnh phục sinh, Ngài thúc giục bạn: “Này anh bạn trẻ, ta truyền cho anh hãy chỗi dậy!” (số 20)

 

 3. Tuổi trẻ không chỉ là một giai đoạn thời gian; nó là trạng thái của tâm hồn. (số 34)

 

 4. Đức Maria không đòi hỏi một hợp đồng bảo hiểm! Mẹ đã mạo hiểm và vì thế Mẹ đã nên mạnh mẽ … (số 44)

 

 5. Trích dẫn Tôi tớ Chúa Carlo Acutis: “Mọi người được sinh ra như một bản gốc, nhưng nhiều người chết như một bản sao” (số 106)

 

 6. Ở mỗi thời khắc, bạn được vô cùng yêu mến. (số 112)

 

 7. Tình yêu của Thiên Chúa liên quan đến … tương lai hơn là quá khứ (số 116)

 

 8. Thiên Chúa không làm rối tung lên nếu bạn chia sẻ những vấn đề của bạn với Ngài. (số 117)

 

 9. Hãy để Ngài cứu bạn! (số 119)

 

 10. Bạn phải luôn lập lại điều này: Tôi không phải hàng đấu giá; tôi không có giá bán. Tôi tự do! Hãy yêu thương với sự tự do này mà Đức Giêsu hiến dâng cho bạn.  (số 122)

 

 11. Bạn đừng nên thánh và hoàn thiện mình bằng cách sao chép người khác … Bạn phải khám phá mình là ai và triển khai cách nên thánh riêng của mình, mặc ai nói hay nghĩ gì. (số 162)

 

 12. Đừng là người ngoài cuộc. Hãy dấn thân! Đức Giêsu đã không là người ngoài cuộc. (số 174)

 

 13. Tôi xin bạn hãy nổi lên chống lại nền văn hóa xem mọi sự là tạm thời và nhất là cho rằng bạn không thể có trách nhiệm, không thể có tình yêu chân thật. Tôi đặt niềm tin tưởng vào bạn và chính vì thế tôi thúc giục bạn hãy lựa chọn kết hôn. (số 264)

 

 14. Tôi xin bạn đừng bao giờ từ bỏ ước mơ, đừng bao giờ hoàn toàn từ bỏ một ơn gọi và đừng bao giờ chấp nhận sự thất bại. Hãy tìm cách giữ lấy ít nhất một phần hoặc hay những cách chưa hoàn hảo lắm để sống những điều mà bạn phân định rằng đó là ơn gọi đích thực của bạn. (số 272)

 

 15. Đức Giêsu đang đi giữa bạn như Ngài đã từng đi ở Galilê. Ngài đi qua những con đường của chúng ta và lặng lẽ dừng lại nhìn vào mắt chúng ta. Lời kêu gọi của Ngài thật hấp dẫn và thích thú. (số 277)

 

Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ

(WGP.Qui Nhơn 08.04.2019/ aleteia.org)