24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THIÊN THẦN MICAE

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICAE (MICHAEL) ĐẦY QUYỀN THẾ

Nguồn: Internet

TLTT Michael rất linh thiêng và đầy quyền thế. Theo truyền thống thì Thánh TLTT Michael đã hiện đến với một vị giám mục người Ý vào năm 493 và thánh hoá một hang động ở gần đó. Nơi này về sau được gọi là Đền Thánh Thiên Thần tại vùng Gargano và người ta thường gọi tắt là Monte Gargano. Đây là một trong những đền thánh xưa cổ nhất được thánh hiến cho Thánh Michael. Ai ai cũng muốn đến hành hương tại nơi này. 

Thánh Michael đã nói với vị giám mục rằng:
“Ta là Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, và Ta đã chọn nơi này để hiện diện và làm cho nơi này được an toàn ."

Khi người ta đến hang đá này để thánh hiến thì Thánh Michael nói:
“Các con không cần thiết phải thánh hiến nơi này vì chính Ta đã thánh hiến nó với sự hiện diện của Ta ."

Huyền thoại nói rằng một trong những hòn đá nơi đền Thánh này có dấu chân của Thánh Michael. 

Hơn 1000 năm sau, Thánh Michael lại hiện ra nơi đền Thánh ấy, nơi mà ngài đã hiện ra và nói với một vị giám mục:
"Ta là TLTT Michael. nếu ai đụng chạm đến những hòn đá này thi họ sẽ được giải thoát ."

Kể từ đó, những viên đá nhỏ xuất phát từ hang đá Monte Gargano đã được chia cho thế giới và được gọi là: "Đá Thánh của Thánh Michael". 

Theo lời kể của nhà trừ quỷ là LM Chad Ripperger, thì những viên đá này được dùng để trừ quỷ một cách rất hữu hiệu và xua đuổi sự ám ảnh của ma quỷ. Theo truyền thống thực hành trừ quỷ thì giáo quyền dùng các xương Thánh trong nghi thức trừ quỷ. Họ cũng kêu cầu sự trợ lực của các Thánh và các Thiên Thần để cùng chống lại hành động của Satan.

Các "Xương Thánh" này bây giờ vẫn còn hiện diện tại Đền Thánh Monte Gargno. Các linh mục và giáo dân sử dụng như một á bí tích để giúp người ta yêu mến Chúa hơn qua lời cầu bầu của TLTT Michael. Có giấy chứng nhận chứng thực rằng các viên đá ấy được lấy từ đền Thánh mà chính Thánh TLTT Michael đã thánh hoá với sự hiện diện của ngài. 

Cảm nghiệm của Kim Hà:
Cách đây gần 20 năm, chúng tôi đã hướng dẫn các phái đoàn hành hương thăm Đền Thánh Padre Pio tại Redondo và Đền Thánh Monte Gargarno vì hai nơi này tương đối ở gần nhau. Thật là những nơi Thánh lý tưởng để đến cầu nguyện và lãnh nhận các ơn lành của Thiên Chúa! Không phải ai ai cũng có thể đến được vì người ta bận rộn lo cơm áo và gia đình, ngay cả người giàu có cũng không đến được vì những trói buộc của vật chất.  

Trong một thời đại xẩy ra nhiều biến cố xấu như thiên tai và nhân tai, chúng ta hãy vâng lời giáo hội mà cùng nhau kêu cầu TLTT Michael để xin ngài bảo vệ thế giới, giáo hội và gia đình của chính chúng ta.

Sau đây là một Kinh Cầu Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bằng tiếng Việt và bằng tiếng Anh:
1. Kinh Cầu Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bằng tiếng Việt
Lạy ơn Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, xin giúp chúng con trong cơn giao chiến, đánh phá sự hiểm ác mưu sâu quỉ dữ. Chúng con sấp mình nguyện xin Chúa chế trị nó cùng xin nguyên soái cơ bình trên trời lấy quyền phép Chúa mà hạ Satan cùng các quỉ dữ đang rong ruổi khắp thế làm hại các linh hồn. Xin bắt chúng giam cầm trong hỏa ngục. Amen

2. Prayer to Holy Michael the Archangel
Holy Michael, the Archangel, defend us in battle. Be our safeguard against the wickedness and snares of the devil. May God rebuke him, we humbly pray; and do you, O Prince of the heavenly host, by the power of God cast into hell Satan and all the evil spirits who wander through the world seeking the ruin of souls. Amen.

Chúng ta hãy sốt sắng đọc kinh này nhiều lần hàng ngày để xin Thánh Michael bảo vệ thế giới, các quốc gia, các giáo hội Công Giáo trên thế giới và các gia đình của chúng ta. Amen.

Kim Hà, 5/10/2018

------------------------------------------

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CUỘC ĐỜI MÔ-SÊ

  •  
    Chi Tran
    Sep 16 at 5:05 AM
     
     

    CUỘC ĐỜI MÔSÊ

    Carlo Maria Martini[1]

    Dẫn nhập

    Trong các bài sau đây, chúng ta sẽ cùng nhau suy tư và chiêm niệm về “Cuộc đời Môsê”. Cuộc đời của ông là một hành trình đức tin, cuộc đời chúng ta cũng vậy. Hơn nữa, chiêm niệm cuộc đời Môsê sẽ giúp chúng ta chiêm niệm cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta.

    Nhờ những bài suy niệm, chúng ta sẽ gặt hái thêm kiến thức phong phú về Kinh Thánh, đặc biệt là sách Xuất Hành, vì tác giả, Đức Hồng Y Martini, là một nhà chú giải kinh thánh lỗi lạc, mặc dù “Cuộc đời Môsê” được sắp xếp theo trình tự tuần Linh Thao theo thánh Inhaxiô.

                                                                   Linh mục Mỹ Sơn, Long Xuyên

     

     

    BÀI NĂM (PHẦN I)

    MÔSÊ, TÔI TỚ THIÊN CHÚA

     

    “Bà Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê về người đàn bà xứ Cút mà ông đã lấy, vì ông đã lấy một người đàn bà xứ Cút làm vợ. Họ nói: "ĐỨC CHÚA chỉ phán với một mình Mô-sê sao? Người đã chẳng phán với cả chúng ta nữa ư?" Và ĐỨC CHÚA nghe được. Ông Mô-sê là người hiền lành nhất đời.

    Đột nhiên ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê, ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am: "Cả ba hãy đi ra Lều Hội Ngộ!" Và ba người đã ra. ĐỨC CHÚA ngự xuống giữa đám mây và dừng lại ở cửa Lều. Người gọi ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am, và hai người đi ra. Người phán: "Hãy nghe Ta nói đây !

    Nếu trong các ngươi có ai là ngôn sứ, thì Ta, ĐỨC CHÚA, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến, hoặc sẽ phán với nó trong giấc mộng. Nhưng với Mô-sê tôi tớ Ta thì khác: tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó. Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn, và hình dáng ĐỨC CHÚA, nó được ngắm nhìn. Vậy tại sao các ngươi không sợ nói động đến Mô-sê, tôi tớ Ta?"

    ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với họ mà bỏ đi. Khi mây bốc lên khỏi Lều, thì bà Mi-ri-am bị cùi, mốc thếch như tuyết ; ông A-ha-ron quay nhìn bà Mi-ri-am, thì kìa bà đã bị cùi”. (Dân số 12, 1-10).

    *    *

    - Trong sách dân số (12, 7), Môsê được gọi là tôi tớ Thiên Chúa “Nhưng với Môsê tôi tớ Ta thì khác; tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó”. Danh hiệu này được lập lại trong Đệ Nhị Luật 34, 5 “Ông Môsê, tôi tớ Thiên Chúa, qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, theo lệnh của Giavê.”

    - Xh 19, 3-8 & 19,16 – 20,4: Môsê phục vụ Lời Chúa.

    - Thơ gởi các tín hữu Do Thái 3,5 cũng lập lại lời trong Dân số: “Ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách là tôi tớ để làm chứng về các điều Thiên Chúa sẽ phán truyền”.

     

    Đây là một danh hiệu cao quí. Tất cả mọi việc Môsê đã làm cho dân Israel, làm ông xứng đáng được gọi là Tôi Tớ Thiên Chúa. Chúng ta cũng vậy. Cuộc đời chúng ta có một mục đích là sống làm sao để xứng đáng được gọi là Tôi Tớ Thiên Chúa.

    + Xin ơn: Khiêm tốn phục vụ như Môsê.

    + Hiến dâng trọn vẹn để phục vụ Chúa và anh em như Môsê và như Chúa Giêsu.

    + Phục vụ mọi người không loại trừ ai và phục vụ đúng nhu cầu.

     

    A. VIỆC PHỤC VỤ CỦA MÔSÊ

    Khi Thiên Chúa gọi ông nơi bụi gai cháy đỏ, có lẽ Môsê vẫn tưởng mình sẽ dẫn dắt dân Israel như một Pharaô oai hùng, dù gặp nhiều khó khăn, thử thách. Ông nghĩ mình sẽ dẫn dắt dân bằng phủ việt của một vị vua bách chiến bách thắng. Nhưng trong thực tế, những việc ông làm lại là những việc phục vụ hết sức khiêm tốn, hết sức bình thường.

     

    1. Phục vụ “nước và bánh”

    Sách Xh 15, 22-24 thuật lại lời than trách của dân về nước uống: “Ông Mô-sê cho dân Ít-ra-en nhổ trại rời Biển Sậy. Họ ra khỏi đó, tiến vào sa mạc Sua. Họ đi ba ngày trong sa mạc mà không tìm ra nước. Nhưng khi tới Ma-ra, họ không thể uống được nước ở Ma-ra, vì nước đó đắng. Bởi thế, người ta gọi nơi ấy là Ma-ra. Dân kêu trách ông Mô-sê, họ nói: "Chúng tôi sẽ lấy gì mà uống?"

    Chương 16, 2-3 lại là lời than trách về bánh: “Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Con cái Ít-ra-en nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay ĐỨC CHÚA trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!"

     

    Những lời than trách này làm cho Môsê hiểu rằng trước khi thoả mãn những khát vọng cao siêu, ông cần thoả mãn những nhu cầu cơ bản của dân ông. Có lẽ, những ảo tưởng như một Pharaô vĩ đại bị tan vỡ nơi ông. Giờ đây, từ ngai toà vinh quang cao ngất của một thủ lãnh vĩ đại, ông bước xuống để trở thành người cung cấp bánh, thịt và nước cho dân. Ông hiểu rõ không thể điều khiển một dân tộc mà không lo lắng đến những nhu cầu cụ thể của họ.

     

    2. Phục vụ vì trách nhiệm

    Bản chất việc phục vụ của Môsê là gì?

    Sách Đệ nhị luật thuật lại lời than vãn của Môsê: “Làm sao một mình tôi gánh được những phiền hà, yêu sách và tranh tụng của anh em?” (12,1). Môsê cảm thấy mệt mỏi vì trọng trách gánh vác anh em mình. Họ chất lên đôi vai ông những gánh rất nặng. Gánh nặng đó có thể là những lầm lỗi, những khó khăn, những tan vỡ ảo mộng hằng ngày của họ. Ông học cách vác lấy những gánh nặng này và lúc ấy, ông nhận ra mình cần được người khác giúp đỡ.

     

    Khi đã trải qua nhiều năm kinh nghiệm trong việc phục vụ, chúng ta sẽ hiểu sâu xa điều nền tảng này: phục vụ trước hết là hiểu rõ nhu cầu những người ta phục vụ và đồng thời người mà ta phục vụ như thế nào thì chấp nhận họ như vậy. (không chỉ phục vụ những người tốt, hợp ý ta, những người đồng chí hướng, hạp tính tình, những người dễ chịu, hoặc những người ta cho là đáng phục vụ, v.v. mà là tất cả mọi người, nhất là những người tội lỗi, cứng cỏi, nghèo hèn, khó thương, v.v.)

     

    3. Phục vụ bằng sự “an ủi”

    Sách Xh 14, 13-14: “Ông Mô-sê nói với dân: "Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc ĐỨC CHÚA làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa. ĐỨC CHÚA sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên." Thật thú vị khi câu kế tiếp trong sách Xuất hành cho biết chính Môsê cũng run sợ không kém gì dân chúng. Chính ông cũng không biết phải làm gì vào giờ phút đó, nhưng ông vẫn giúp đỡ người khác, khích lệ họ.

     

    Ông không chỉ làm và phục vụ vì trách nhiệm. Còn một điều gì đó sâu xa hơn. Môsê biết chỉ rõ mục đích và thành công trong việc thúc giục người khác đạt mục đích ấy. Phẩm chất ơn gọi phục vụ của ông ngày một gia tăng vì ông biết và quan tâm đến những nhu cầu sâu xa của dân vào những lúc họ cần được khích lệ, cổ vũ nhất.

     


    [1] Các bài suy niệm phỏng dịch từ “Vie de Moise, vie de Jesus et existence pascale”, Éd. St.-Augustin-St-Maurice, Suisse, 1994

    --------------------------------

     

     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - KHAC BIỆT CÁC TÔN GIÁO

XIN NÓI LẠI  NHỮNG KHÁC BIỆT CĂN BẢN GIỮA CÔNG GIÁO, CHÍNH THỐNG GIÁO, ANH GIÁO VÀ TIN LÀNH

Hỏi:

Trong bài trước cha đã nói  đến các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, giáo lý, bí tích,  phụng vụ .v.v

Xin cha nói rõ hơn về những khác biệt này giữa Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo và Tin Lành.

Trả lời:

Như đã giải thích trong bài trước, Đạo Thánh  của Chúa Kitô  và Giáo Hội duy nhất  của Chúa xây trên Đá Tảng Phểrô,qua thời gian,   đã bị rạn nứt hay ly giáo ( schisms) phân chia thành  ba Nhánh Kitô Giáo là Công Giáo Roma (The Roman Catholicism )  , Chính Thống Giáo Đông Phương ( Eatern Orthodox Churches)  và Tin Lành ( Protestantism).Đây là hậu quả của những cuộc cải cách tôn giáo xảy ra vào thế kỷ XVI ở Tây Phương trên đây, từ đầu,  đều thuộc Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là KitôGiáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời gian,  đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms) trong Giáo Hội nói chung.

Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo ( Anglican Communion) do vua Henri VIII (1491-1547) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho Nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh La Mã ( Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.

Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được.. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa bốn Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.

  I-Chính Thống  (orthodoxy) khác biệt với Công Gíáo La Mã ( Roman Catholicism) ra sao?

Trước hết, danh xưng Chính Thống "Orthodoxy", theo ngữ căn (etymology) Hy lạp " orthos doxa", có nghĩa là  "ca ngợi đúng (right-praise), "tin tưởng đúng " ( right belief) . Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn Kitô đã tham dự các Công Đồng đại kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính( sound doctrines) , tinh tuyền của KitôGíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy).Do đó,trong bối cảnh này, từ ngữ  "orthodoxy" được dùng để đối nghịch với từ ngữ " heresy" có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo.

 Nhưng  sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội  Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople ( tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo LaMã ( Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau ( anthemas=excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054  giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo Hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học  và quyền bính, thì  danh xưng "Chính Thống" ( orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã tách ra khỏi  hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã. Sau này, Giáo Hội "Chính Thống" Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia,  Lithuania,  Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine...Vì thế,  ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện.Nghĩa là không có ai là  người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã.(Tây Phương)

Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ ( Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul  được coi là Thượng Phụ Đại Kết ( Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương.Cách nay 6 năm Đức Thánh Cha Bê-nê-đich tô XVI ( đã về hưu năm 2012) đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh  em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn "lôi kéo" tín đồ Chính Thống  Nga vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thông Nga hành Đạo. Dầu vậy, một biến cố mới xẩy ra trong năm qua (2016) là Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Thượng Phụ Giáo Hội Chính Thông Nga tại MỄ TÂY CƠ (Mexico), nhưng kết quả của cuộc gặp gỡ lịch sử này giữa hai vi lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga không được công bố sau đó.Nhưng đây là một dấu chỉ tích cực giữa hai Giáo Hội anh  em muốn hiệp nhất với nhau trong cùng một niềm tin vào Chúa Kitô.

Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương( The Greek Church and the Holy See=Rome)  nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh  em  này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng  đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong khi em ngài, Thánh Anrê (Andrew)  sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy lạp và sau đó phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội KitôGiáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông đồ thuần túy ( Apostolic succession).

Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tây năm 1054.

 1- về tín lý, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương- tiêu biểu ban đầu là  Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople- đã  bất đồng với Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” ( và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi  Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về  Đức Mẹ  Vô Nhiễm  Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố  với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử  năm 1966 giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople khi đó là Athenagoras I.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội  thì họ  dùng  nghi thức dìm xuống nước (immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người tân tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

Chính vì Giáo Hội Chính Thống có đủ các bí tích hữu hiệu như Công Giáo, nên giáo dân Công Giáo được phép tham dự Thánh lễ và lãnh các bí tích hòa giải và sức dầu của Chính Thống nếu không tìm được nhà thờ Công Giáo hay linh mục Công giáo khi cần..

2-Về phụng vụ, Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp  khi cử hành phung vụ  trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng vụ thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu thuộc  mọi nền văn hóa, chủng tộc khác nhau, trong đó có tiếng Viêt Nam.

3-Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ:  các Giáo Hội Chính Thông cho phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật độc thân (celibacy) lại  được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (permanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã cho đến nay.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý, bí tích và Kinh thánh. Vì thế,  giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiệp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x.SGLGHCG, số 838).

Vì Chính Thống Giáo có đủ bảy bí tích hữu hiệu, nên giáo dân Công Giáo được phép tham dự Thánh Lễ và lãnh các bí tích hòa giải và sức dầu ở  nhà thờ và các linh mục Chính Thống, nếu không tìm được nhà thờ và linh mục Công Giáo nơi mình cư ngụ.

II- Tin lành ( Protestantism)Anh Giáo ( Anglican Communion) và những khác biệt với Công Giáo.

Như đã nói trong bài trước, Tin lành, nói chung, là Nhánh KitôGíáo đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một linh mục Dòng thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy sỹ với Ulrich Zwingli  và các nước Bắc Âu sau đó.Hiện nay có hàng chục ngàn giáo phái này ở Mỹ, hoạt động với nhiều danh xưng khác nhau, nhưng cùng ít nhiều có liên hệ đến nguồn gốc thệ phản ( protestantism)nói trên. Một đặc điểm của các giáo phải Tin Lành là họ không có hệ thống giáo quyền ( Hierachy) chung như Giáo Hội Công Giáo có hàng giáo phẩm tối cao từ trung ương Roma cho đến các giáo hội địa phương ở mỗi quốc gia.Các nhánh Tin Lành hầu như độc lập với nhau về quyền bính, nhân sự, tài chính  và phương thức hành đạo.

 1-Ở góc độ thần học,

Những người chủ trương cải cách (reformations) trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu tổ chức giáo quyền (Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders) qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể,  Xức dầu thánh, chứng hôn).

Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị.Do đó, chỉ cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura).

Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ:

 “không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21).

Nói khác đi, không phải rửa tội xong, rồi cứ hát Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội: đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh Chúa thôi vẫn  ra vô ích.

 Anh em tin lành không chia sẻ quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng Kinh Thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và Kinh Thánh, họ không tin và công nhận một bí tích nào khác.Điển hình

Là bí tích hòa giải mà các giám mục và linh mục Công Giáo được phép tha tội cho các hối nhân nhân danh Chúa Kito ( in persona Christi).

Lại nữa, vì không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình  bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh thánh., Nhưng đó không phải là cử hành Bí Tích Thánh Thể ( Eucharist) như trong Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông Phương.. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ là giảng kinh thánh  vì họ chỉ  tin có Kinh Thánh ( Sola Scriptura) mà thôi.

2-  Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt nghĩa của Giáo Hội Công Giáo.

Thí dụ, câu Phúc Âm trong Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các tông đồ “ không được gọi  Ai dưới đất là Cha, là Thầy .”. anh  em Tin Lành  hiểu lời Chúa trong ngữ cảnh (context)  câu trên hoàn toàn theo nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ trích Giáo Hội Công Giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “ Cha” (Father, Père, Padre)!.

Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này,  Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “ Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha trong Chúa Kitô  vì đã sinh  ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn.” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).

Một điểm sai lầm nữa trong cách đọc và hiểu kinh thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô

kể lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các môn đệ

của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa Thầy có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy.” (Mc 3:32). Anh em tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng  Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh chị em “trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng liêng (spiritual brotherhood, sisterhood)  và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống, khác với Tin lành và Anh giáo.

Sau hết, về mặt quyền  bình, các giáo phái Tin lành và Anh giáo  đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.

Chính vì không công nhận Đức Giáo Hoàng là Thủ Lãnh Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô nên đây là trở ngại lớn cho các nhánh Tin Lành và Anh giáo  muốn hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo.

3- về bí tích:

Tất cả các nhóm Tin Lành và Anh Giáo đều không có các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession)-  và quan trọng hơn nữa,  người sáng lập của họ là người thường dân  ( Martin Luther, John Calvin..Henry VIII)  chứ không phải là chính Chúa Giêsu-Kitô, Đấng đã lập Giáo Hội của Chúa trên Đá Tảng Phêrô.( Mt 16: 18-19)  và Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phê rô và các Giám mục hiệp thông với Ngài điều khiển” như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã tuyên bố. ( x. LG. số 8). Cho nên các nhánh Tin Lành và Anh giáo  đều  không có chức linh mục và giám mục hữu hiệu để cử hành các bí tích trên.

 Đa số các nhóm Tin Lành và Anh Giáo  chỉ có phép rửa ( Baptism) mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) như nhóm Bahai Hullah và Marmonites ở Mỹ ,  thì không thành sự ( invalidly) . Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa tội với nước và công thức trên thì phải được rửa tội lại như người dự  tòng.(catechumens). Nếu họ được rửa tội thành sự thì chỉ phải tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi

III-Anh Giáo ( Anglican Communion)

Nhóm Kitô Giáo này do Vua Henry VIII của Nước Anh tự tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Roma từ năm 1534 vì  nhà vua bất mãn với Đức Thánh Cha Clemente VII, đã không cho phép ông li dị để lấy vợ khác.Nhóm này khác biệt với Giáo Hội Anh Quốc ( The Church òf England) Là Giáo Hội hiệp thông và vâng  phục Giáo Hội Công Giáo Roma do Đức Thánh Cha làm Thủ Lãnh với sự hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của các Giáo Hội Công Giáo địa phương ở khắp nơi trên thế giới.Người lãnh đạo Nhóm Anh Giáo nói trên là Vua  Nứớc Anh ( nay là Nữ Hoàng Elizabeth II).Vì không có nguồn gốc Tông Đồ, nên Anh Giáo không có các Bí Tich hữu hiệu như Công Giáo, trừ Phép Rửa mà Anh Giáo có chung với các nhóm Tin Lành và với Công Giáo.Vì  không có các Bí Tích Thánh Thể và Hòa Giải hữu hiệu  nên các linh mục Anh Giáo không thể cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn ( The Eucharist) hữu hiệu như Công Giáo được. Cho nên,  các tín hữu Công Giáo không được tham dự Lễ của các linh mục Anh Giáo để thay cho lễ của Công Giáo, cũng  như không  thể  đi xưng tội với các linh mục Anh Giáo vì họ không có Bí Tich hòa giải ( Reconciliation) hữu hiệu như Công Giáo.

Sau hết, nếu các linh mục và giám mục Anh Giáo trở lại Công Giáo thì họ phải được huấn luyện lại và  chiu chức lại trong Giáo Hội Công Giáo, vì Công Giáo không nhìn nhận các bí tích của Anh giáo trừ Phép Rửa.Chỉ có một đặc ân cho các linh mục Anh Giáo là họ được phép giữ vợ con sau khi được chịu chức linh mục trong Giáo Hội Công Giáo.Các tín hữu Anh Giáo thì phải tuyên xưng đức tin khi họ gia nhập Giáo Hội Công Giáo.Họ không cần được rửa tội lại vì Công Giáo nhìn nhận Phép Rửa của Anh Giáo.Chỉ có những ai không được rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi ( Trinitarian Formula) như nhóm Bahai Hullad và Marmonites  bên Mỹ  thì mới phải được rửa tội lại khi họ gia nhập Giáo Hội Công Giáo mà thôi.

Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo,Chính Thống Giáo,  Tin Lành và Anh Giáo nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo vẫn hướng về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại kết (ecumenism) mà Giáo hội đã theo đuổi và cầu nguyện  trong nhiều năm qua.

Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng  chưa hiệp thông (communion) và hiệp nhất ( unity) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng  Tông đồ Phêrô, do Đức Thánh Cha, cũng là Giám Mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô  trong trách nhiệm  coi sóc  và lãnh đạo Giáo Hội  với sự cộng tác và vâng phục trọn vẹn của Giám Mục Đoàn. (College of Bishops) hay của các Giáo Hội Công Giáo địa phương ở các quốc gia trên thế giới.

Ươc mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 --------------------------------------

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CỬA HẸP LÀ GÌ?

CN 21C : Cửa hẹp là gì ? và Cửa hẹp không là gì ?

Có một cảnh tương phản ngồ ngộ xảy ra cách đây hơn 30 năm, trong thời kỳ còn bao cấp, là thời kỳ hạn chế du nhập văn hoá từ các nước “tư bản”. Lúc đó người ta cho chiếu bộ phim tình cảm Liên Xô với tựa đề “Cánh cửa mở rộng”. Mua được một chiếc vé đã là gây cấn rồi : nào là chờ chực, xếp hàng, nào là chen lấn, đẩy xô…

Nhưng khi có vé rồi mà vào cửa thì cũng không dễ gì ! Tựa phim là “Cánh cửa mở rộng”, nhưng cánh cửa sắt của rạp không chịu mở rộng, mà chỉ hé mở một chút vừa đủ cho một người đi nghiêng qua để kiểm soát vé cho dễ. Quả là một cảnh tượng tương phản thú vị : chen nhau đi vào cửa hẹp để xem “Cánh cửa mở rộng !”

Cách đây nhiều năm lại có cảnh tương phản khác : cả ngàn học sinh chen chúc nhau để mua cho được một bộ đơn xin dự thi vào Đại Học Mở ở đường Võ Văn Tần, Saigon mà không được. Bộ hồ sơ dự thi đã hết. Báo chí đặt tựa đề cho cảnh này là : “Cánh cửa Đại Học Mở đã đóng”.

Vậy thì khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nhà Cha có nhiều chỗ lắm, (chứa bao nhiêu cũng không chật), mà sao hôm nay trong bài Tin Mừng, Ngài lại nói : Hãy đi qua cửa hẹp mà vào. Phải chăng vì Nước Trời ít chỗ, cần hạn chế : Có một cái tương phản nào đó trong tư tưởng của Chúa chăng ? Chắc chắn ta phải tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì qua hình ảnh “Cửa hẹp”. Cửa hẹp là gì ? Và Cửa hẹp không là cửa gì ?

1. Cửa hẹp không phải là :

-Nơi bán vé : Trước khi đi vào rạp xem chiếu phim, trước khi vào sân vận động xem đá bóng, trước khi lên xe, người ta thường xếp hàng, thò tay vào một ô cửa hẹp để mua vé. Tùy sức chứa của rạp, của sân, của xe, mà người ta bán một số vé tương đương với sức chứa.

Sức chứa của Nước Trời thì vô tận, nên không cần phải có ô cửa hẹp để bán vé. Ta cũng không cần phải hỏi xem Nước Trời có bao nhiêu chỗ để liệu mà tìm cách mua vé vào, như đi xe ta thường hỏi xem xe bao nhiêu chỗ 4-12-15-20 chỗ…

Sở dĩ Chúa nhắc đến cửa hẹp là nhằm trả lời cho câu hỏi của một số người : “Thưa Thầy, phải chăng những người được cứu thì ít lắm phải không ? (những người vào Nước Trời thì ít ?)

Chúa không trả lời “phải, ít lắm” để rồi ta thất vọng khi nghĩ rằng chắc mình lọt sổ thôi. Chúa cũng không trả lời “nhiều lắm,” để rồi ta buông thả vì nghĩ rằng thế nào mình cũng thuộc số người được cứu.

Những người hỏi con số : số ghế số chỗ trong Nước Trời là những người không biết ất giáp gì về Nước Chúa, bởi lẽ Nước Trời đâu phải là quota, là hạn ngạch, định mức, là sức chứa, số ghế. Cứ đi vào cửa hẹp là đến Nước Trời. Nhưng cửa hẹp không phải là nơi bán vé vào Nước Trời, thì cửa hẹp cũng không phải là nơi soát vé.

-Nơi soát vé : Cũng có rất nhiều người trong chúng ta, hiện nay, vẫn nghĩ rằng mình đã nắm trong tay được vé vào Cửa Trời. Xin thưa ngay: Cửa trời không có lối đi hẹp để soát vé đâu. Những chiếc vé mà ta nghĩ rằng thánh Phêrô, kẻ giữ cửa sẽ hỏi, ta có trong tay, như : chứng chỉ Rửa tội, Thêm sức, có dấu đỏ, dấu nổi đàng hoàng… ; tờ Phép Lành Toà Thánh mà nhiều gia đình có với lời ghi chú xưa “là bảo đảm cho phần rỗi đời đời” ; Rước lễ 5 ngày thứ bảy đầu tháng với lời hứa của Đức Mẹ, 9 ngày thứ sáu đầu tháng với lời hứa của Thánh Tâm ; lại còn chuỗi Thương Xót hằng ngày… Đã ba lần bảy lượt lãnh được ơn toàn xá khi làm việc này việc nọ, khi hành hương chỗ này chỗ kia; những chiếc vé đó tốt, nhưng nên nhớ không có cửa hẹp để soát vé đó đâu, để rồi mình ỷ y như khi mua được vé xe lửa, vé xem phim, vé tàu bay là an tâm, đến giờ ta chìa vé ra để vào.

Cửa hẹp cũng chẳng phải là nơi ta chìa ra tờ lý lịch trong sạch ba đời, dòng dõi các thánh tử đạo vẻ vang… ; hay lá thư tay của những ô dù ông cha này, giám mục nọ ở trong dòng họ để rồi được cho qua. Vậy cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói ở đây là gì ?

2. Cửa hẹp là gì ?

   Xin được lấy lại cảnh tương phản về bộ phim “Cánh cửa mở rộng” nói trong mở đề để gọi Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói ở đây là “Cửa mở rộng.” Mở rộng tức là mở luôn luôn, mở cho mọi người. Cửa hẹp không phải là nơi để hạn chế : hạn chế thời gian (mở buổi sáng, đóng buổi chiều ; hạn chế con số (1 tỉ rưỡi thôi nhé !) ; hạn chế tầng lớp (người nghèo mới được vào)... Không phải ! Cửa hẹp là cửa mở rộng. Ai muốn vào cũng được. Vào giờ nào cũng được. Điều kiện duy nhất của nó là vì nó hẹp, nên muốn vào phải bỏ lại những hành trang cồng kềnh.

-Những hành trang cồng kềnh đó, là tội lỗi của chúng ta. Ta không bỏ lại ta không vào được cửa hẹp.

-Những hành trang cồng kềnh đó, là những thú vui trần gian. Ta không biết từ bỏ, ta không lách qua được cửa hẹp.

-Những hành trang cồng kềnh đó, là lòng tham danh lợi lộc. Ta không từ bỏ, ta không chui lọt qua khung cửa hẹp.

-Những hành trang cồng kềnh đó, là những mối thù nặng nhẹ với anh chị em trong nhà hay ngoài mái ấm gia đình. Ta không từ bỏ, khi đi qua cửa hẹp, sẽ bị vướng mắc, như chiếc áo rộng dính vào ốc này vít kia của cánh cửa hẹp, khiến ta không thể dễ dàng đi qua được trơn tru.

Có hai người lính trẻ đang nói chuyện với nhau về việc tin theo Chúa Kitô. Một người nói: “Tôi không thể nói hết cho anh biết, tin theo Chúa Kitô thì quí giá biết ngần nào.” Người kia đáp: “Tôi cũng nghĩ đến đó, nhưng tôi thấy tin theo Ngài thì phải từ bỏ nhiều quá. Quả thật tôi đang tính toán đây.” Một sĩ quan đi ngang, nghe vậy, đặt tay trên vai người lính trẻ vừa nói câu trên, mà rằng : “Anh ơi, anh tính giá của sự tin theo Chúa Kitô sao ? Thế anh có bao giờ tính giá phải trả khi không tin Chúa Giêsu  không ?…

Thánh Phaolô đã tính giúp chúng ta trong Pl 3, 8-9 : “Tôi coi tất cả mọi sự là thua lỗ, bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu, Chúa tôi, vì Người tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.”

Theo Chúa vào Nước Trời là phải đi qua cửa hẹp. Cửa hẹp không phải là nơi bán vé, nơi soát vé, nhưng cửa hẹp là cửa luôn mở mọi lúc, mở với mọi người, miễn là ta biết từ bỏ hành trang cồng kềnh.

Trong lời hứa Rửa tội, Giáo Hội bắt chúng ta tuyên hứa từ bỏ trước khi tuyên xưng tin, thì hãy từ bỏ những hành trang cồng kềnh… để ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Chúa chúng ta qua Kinh Tin Kính. Amen

Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

 

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CẨN TRỌNG VỚI MA QUỶ

Cẩn trọng với ma quỷ

Vừa qua, Bộ Giáo lý Đức tin của Tòa Thánh lưu ý gần đây xuất hiện nhiều cuộc tụ họp để trừ quỷ do giáo dân tự tổ chức và điều khiển, cho dù có mặt giáo sĩ ở đó. Triển khai tinh thần này, vào tháng 4.2018, giáo phận Đà Lạt cũng đã ra thông cáo nhắc lại quy định của Giáo luật : “Không ai có thể trừ tà cách hợp pháp cho những người bị quỷ ám, trừ khi có phép đặc biệt và minh nhiên của Đấng Bản Quyền địa phương. Đấng bản quyền địa phương chỉ ban phép trừ tà cho một linh mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn” (GL, điều 1172).

Mặt khác, người giáo dân không được sử dụng những nghi thức trừ quỷ trong sách Nghi thức Trừ tà của thánh Giáo Hoàng Lêô 13 và càng không được phép dùng toàn bộ nghi thức trong sách này. Giáo hội cũng lưu ý các giám mục cần phải nhắc nhỏ các tín hữu về vấn đề này khi cần thiết và cũng được mời gọi tỉnh táo để các tín hữu không có năng quyền đúng phép không được điều hành những cuộc tụ họp có mục đích trừ quỷ, trực tiếp nói với quỷ và tìm cách hiểu biết căn tính lý lịch của quỷ.

Thực ra, không phải không có trường hợp quỷ nhập vào người. Phúc Âm cũng đã có trình thuật về việc Chúa xua đuổi quỷ khỏi một kẻ bị thần ô uế ám. Đã nhiều lần bị cùm, bị xích, song anh ta bẻ xích phá cùm, chẳng ai trói anh ta lại được.  Suốt ngày đêm anh ta ở nơi đám mồ mả trên đồi, la hét và lấy đá rạch mình. Chúa đã đuổi thần ô uế và cho phép nó nhập vào đàn heo khoảng 2.000 con, sau đó đàn heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó (x. Mc 5, 1-20).

Tuy nhiên không dễ có trường hợp quỷ nhập vào người và xúi giục làm điều xấu xa khác người, nhưng lại thường gặp những biểu hiện cám dỗ từ ma quỷ.

ĐTC Phanxicô trong bài giảng tại nhà nguyện Marta ngày 8.5.2018 đã nói: “Có thể nói rằng, ma quỷ là kẻ thua cuộc nhưng rất nguy hiểm, vì ma quỷ có biệt tài quyến rũ con người. Ma quỷ biết cách dùng lời nào dùng cách nào để quyến rũ, và khổ nỗi là chúng ta lại thường thích để cho ma quỷ quyến rũ.  Ma quỷ quyến rũ, biết cách chạm vào sự hư danh phù vân, biết cách khơi dậy sự tò mò, và thế là chúng ta sa vào cơn cám dỗ. Do đó, chúng ta phải rất cẩn thận với chước cám dỗ của ma quỷ. Để đối diện với cơn cám dỗ và chiến thắng cám dỗ, hãy làm như Chúa Giêsu, đó là tỉnh thức, cầu nguyện và ăn chay”.

Ngoài cám dỗ về hư danh phù vân, ma quỷ còn luôn tìm cách rủ rê, lôi cuốn các tín hữu xa rời đức tin Kitô giáo với những đam mê trần tục, xa rời đạo đức, vô cảm với tha nhân… Chắc chắn các cơn cám dỗ muôn mặt của ma quỷ luôn đeo đẳng mọi tín hữu mỗi phút giây trong cuộc đời.

Giáo luật quy định nghiêm nhặt việc tụ họp tự phát trừ quỷ bởi dễ làm các tín hữu yếu đuối sai lạc đức tin và gây hoang mang cho các đồng đạo, nhưng cũng không hề cấm các tín hữu cầu nguyện xin Chúa giải thoát khỏi mọi sự dữ như Chúa Giêsu đã dạy (x. Mt 5,13).

HOÀNG ANH

 “Theo Báo Công giáo và Dân tộc, website: cgvdt.vn”.