24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LỄ BA VUA

  •  
    Kristie Phan
     
    Jan 8 at 10:19 AM
     
     
     
     
     
     
     
    GI TÊN   NGÀY L
     
    Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa?  Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?”
                
    Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu.  Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
     Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
    1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”
    Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng.  Gọi là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ ph��ơng Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm.  Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày lễ.
     
    Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
     
    Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin.  Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng.  Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm, và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng.  Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
     Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
     
    2)…Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”
     
    Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh.  Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
     
    Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì “Hiển Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa.  Thiện chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những mùa gặp gỡ.  Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.
     
    Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời.  Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời.  Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà.  Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
     
    Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa.  Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nê n quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai).  Bốn mùa gặp gỡ.
     
    3)…Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
     “Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm.  Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sắp tới.  Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
     
    Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn.  Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa.  Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
     
    Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh.  Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa.  Ơn cứu độ là phổ quát.  Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình.  Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
     
    Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
     
      Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây.  Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ.  Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm.  Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua.  Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới.  Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
     
    ĐGM Giuse Vũ Duy Thống (Trích trong Với Cả Tâm Tình
     
     
    31 - Three wise men 2.jpg 
     
     



    --Certified Virus Free by 4SecureMail.com ICSA-Certified Scanner--
    •  
      GỌI TÊN NGÀY LỄ.docx
      291.5kB

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LỄ THÁNH GIA

Xây dựng một gia đình hạnh phúc

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO

CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA A

Hc 3,3-7.14-17a ; Cl 3,12-21 ; Mt 2,13-15.19-23

 

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG: Mt 2,13-15.19-23

(13) Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !”. (14) Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. (15) Ông ở đó cho đến khi Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập”.(19) Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, (20) báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì chưng kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. (21) Ông liền trỗi dậy, đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, (23) và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người Na-da-rét”.

  1. Ý CHÍNH: XUẤT HÀNH TỪ AI CẬP.

Tin Mừng hôm nay muốn nói lên tư tưởng Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa bảo vệ khỏi bàn tay độc ác của bạo vương Hê-rô-đê. Người là Mô-sê Mới, dẫn đầu dân Ít-ra-en Mới, xuất hành ra khỏi Ai Cập trần gian để về miền Đất Hứa là thiên đàng đời sau.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 13-14: + Sứ thần Chúa hiện ra: Tin Mừng Mát-thêu ghi lại 4 lần sứ thần Chúa hiện ra với ông Giu-se (Mt 1,20; 2,13; 2,19; 2,22). + Báo mộng cho ông Giu-se: Sứ thần Chúa hiện đến cùng Giu-se trong giấc mộng và thay mặt Thiên Chúa ra lệnh cho Giu-se phải làm theo. + Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập: Lệnh truyền này nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa để bảo vệ Hài Nhi Cứu Thế. Ai Cập là một nước lớn nằm sát bên nước Do thái về phía Nam, và là nơi những người Do thái bị ruồng bắt thường tìm đến lánh nạn (x. 1V 11,40). Đi từ Bê-lem tới Ai Cập mất khoảng 5-6 ngày đường. + Vì Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy: Hài Nhi Giê-su được đem sang Ai Cập để trốn khỏi sự khủng bố của vua Hê-rô-đê độc ác, giống như Mô-sê ngày xưa cũng phải trốn khỏi sự ruồng bắt của Pha-ra-ô nước Ai-cập (x. Xh 2,15). + Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”: Câu này rút ra từ sách ngôn sứ Hô-sê (x. Hs 11,1), nói về cuộc Xuất hành của dân Ít-ra-en xưa. Khi đó dân Ít-ra-en đã được Đức Chúa gọi là “con Ta” (x. Xh 4,22).

– C 19-20: + Thánh gia trốn sang Ai-cập trong thời gian bao lâu: Khoảng từ vài tháng tới 3 năm. Giả sử thánh gia được triệu về ngay sau khi Ác-khê-la-ô lên kế vị (năm 750 tức khoảng năm thứ 4 đến thứ 6 sau Công Nguyên), thì thời gian ở bên Ai-cập của Thánh Gia không thể quá 3 hay 4 năm được. + Công Nguyên là gì: Công Nguyên hay Kỷ Nguyên Chung được tính bắt đầu từ năm Chúa Giáng Sinh. + Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập: Khi vua Hê-rô-đê Cả chết, ông Giu-se lại được sứ thần Chúa hiện đến trong giấc mơ ra lệnh cho ông mau đem Hài Nhi và mẹ Người trở về quê hương, vì mối nguy đã chấm dứt với cái chết của vua Hê-rô-đê. + Vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi: Câu này chính là lời Đức Chúa báo cho Mô-sê về cái chết của Pha-ra-ô Ai-cập (x. Xh 4,19). Đây là một bằng chứng cho thấy Mát-thêu muốn ám chỉ Hài Nhi chính là Mô-sê của thời Tân Ước.

– C 23: + Và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét: Thánh Gia về cư ngụ ở Na-da-rét là ứng nghiệm lời sấm đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: “Người sẽ được gọi là người Na-da-rét”. Ta có thể hiểu rằng Mát-thêu dùng danh xưng này để ám chỉ việc tự hạ của Đấng Cứu Thế. Nói Đấng Cứu Thế là người Na-da-rét cũng giống như nói Người đã bị người đời miệt thị khinh dể vậy.

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao Giu-se phải đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-Cập ? 2) Thánh Gia trốn sang Ai Cập đến khi nào về ? 3) Tại sao Giu-se lại đem Hài Nhi đến ở thành Na-da-rét ?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (14):
  3. CÂU CHUYỆN:

1) MẸ CHUYỂN NHÀ ĐỂ DẠY CON NÊN NGƯỜI:

Khi Mạnh Tử còn bé, tóc để hình trái đào, mặt mũi khôi ngô, tính ham học hỏi thắc mắc và bắt chước người khác. Mẹ của Mạnh Tử rất thương yêu con, mong cho con học hành giỏi giang, trở thành hiền tài, nên bà luôn tìm phương cách dạy dỗ con tốt nhất.

Bấy giờ, nhà Mạnh Tử ở gần một nghĩa địa. Ngày nào trong nghĩa địa cũng có các đám tang chôn cất người chết. Trong đám tang, Có người thì khóc thương thảm thiết, người khác đào huyệt rồi cùng nhau chôn quan tài xuống huyệt và lấp đất làm thành ngôi mộ. Bọn trẻ con gần đó rủ nhau đi xem đám ma, rồi bắt chước người lớn chơi trò đưa đám. Chúng chia nhau ra: Em đóng vai người chôn cất, em khác thì đội khăn tang theo sau quan tài khóc lóc thảm thiết. Một hôm, mẹ Mạnh Tử đang ngồi dệt vải, nghe thấy tiếng trẻ con gào khóc gần nhà và xen lẫn tiếng người hô hoán khác lạ. Bà liền rời khung cửi ra ngõ xem điều gì xảy ra và bà giật mình khi thấy bọn trẻ đang chới trò đám tang giả. Bà thấy Mạnh Tử nhà bà cũng đang bắt chước người lớn đào huyệt, chôn xác, rồi cũng có lúc giả bộ lăn lộn trên đất giống như người nhà trong các đám tang mà chúng vẫn xem. Bà mẹ lo lắng tự nhủ: “Con ta thơ dại mà lại chơi trò đào, chôn, lăn, khóc như thế này tâm trí ắt sẽ bị ảnh hưởng, còn tâm trí đâu mà học hành nữa”. Rồi bà liền quyết định dọn nhà sang ở nơi khác, để thay đổi môi trường sống cho con. Lần này Mạnh Tử ở gần khu chợ sầm uất. Hằng ngày Mạnh Tử bắt chước người lớn ăn nói chua ngoa tục tĩu và chơi trò mua bán gian xảo. Bà mẹ Mạnh Tử một lần nữa lại dời nhà đến ở gần trường học. Tại đây bà thấy con trai học theo các học trò chăm chỉ đến lớp nghe lời thầy giáo dạy dỗ. Bà liền quyết định ở hẳn lại nơi này để Mạnh Tử con bà có điều kiện học hành chăm chỉ. Về sau Mạnh Tử đã thi đỗ và trở thành người tài đức giúp ích cho đời.

2) TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIỜ KINH TỐI GIA ĐÌNH:

Một cha xứ kia đi thăm các gia đình trong xứ để kiểm tra nhân danh. Gặp một đôi vợ chồng không đọc kinh tối gia đình, cha hỏi: “Gia đình ông bà có đọc kinh chung gia đình không ?”. Họ trả lời vì không có thời giờ do con cái phải đi học thêm hay phải đi làm theo ca. Gia đình ông ta phải kiếm sống trước đã như câu “Có thực mới vực được đạo !” Bấy giờ cha xứ lại hỏi: “Nếu ông bà biết rõ là nhờ đọc kinh tối hàng ngày mà một đứa con sẽ tránh được một cơn bệnh hiểm nghèo, tránh được một tai nạn; Nhờ đọc kinh tối mà chúng mới có công ăn việc làm đều, chúng mới có đủ sáng suốt để làm được bài thi ở trường; Nhờ đọc kinh mà các linh hồn tiên nhân ông bà cha mẹ và những người thân đã chết sẽ sớm được về thiên đàng… thì ông bà có tổ chức đọc kinh gia đình hàng ngày không ?” Họ trả lời rằng: “Có thể chúng con sẽ đọc”. Cha xứ lại hỏi: “Giả như gia đình làm ăn thất bại phải mang nợ tới 100 triệu đồng, khó lòng có thể trả được cả vốn lẫn lãi, mà nếu ngày nào có đọc kinh tối gia đình 15 phút, thì sẽ được chủ nợ trừ bớt số lời 100.000 đồng, thì ông bà có đọc kinh tối chung không ?”. Bấy giờ ông kia hỏi lại: “Thưa cha, cha hỏi như vậy để làm gì ?” Bấy giờ cha xứ mới ôn tồn trả lời: “Tôi nói như vậy để cho thấy nguyên nhân gia đình ông bà không đọc kinh tối, không phải vì không có thời giờ hay vì bận làm việc, mà lý do chính là vì nghĩ rằng đọc kinh tối gia đình là điều không cần thiết, chỉ cần đi lễ nhà thờ là đủ. Tôi hỏi vậy để cho thấy việc đọc kinh cũng quan trọng không kém gì việc giữ gìn sức khỏe và sự an toàn của các người thân trong gia đình, cũng có giá trị như một số tiền thiêng liêng, giúp bớt phần phạt cho người thân là tiên nhân ông bà đã qua đời, và giá trị của việc đọc kinh cũng có thể tương đương với số tiền cần chi dùng hàng ngày”.

  1. SUY NIỆM:

1) THÁNH GIU-SE – GƯƠNG MẪU CỦA GIA TRƯỞNG:

– Mau mắn tuân giữ lời Chúa: Giu-se đã thi hành ba lệnh truyền của Chúa: Một là rước Ma-ri-a đang có thai về nhà làm vợ mình; Hai là tôn trọng lời khấn của Ma-ri-a dâng hiến toàn thân phụng sự Chúa bằng việc không ăn ở với bà. Ba là đặt tên cho con trẻ là Giê-su để nhận mình làm cha của Hài Nhi về luật pháp (x. Mt 1,24-25).

– Quyết tâm bảo vệ Hài Nhi: Khi vừa được mộng báo, Giu-se đã lập tức trỗi dậy mang Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập ngay lúc đêm khuya và đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, ông lại vâng lời sứ thần trỗi dậy mang Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. Ông cũng khôn ngoan phòng tránh cho Hài Nhi khỏi bị nguy hiểm: Khi về tới Be-lem, nghe tin Ác-khê-lao đã lên kế vị vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê cũng độc ác nên ông đã lui về miền Ga-li-lê đến sống tại thành Na-da-rét.

– Tín thác vào Chúa quan phòng: Tín thác là dấu chỉ của một đức tin chân chính. Thánh Giu-se luôn lắng nghe Lời Chúa và mau mắn vâng theo với sự tín thác hoàn toàn vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa quan phòng.

2) ĐIỀU KIỆN ĐỂ XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH:

– Sống đúng vai trò của mình: Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc điều tra các ông chồng, yêu cầu họ thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia đình bạn, ai là người thực sự có quyền làm chủ ?” Kết quả cho có 80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 20% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”. Chỉ có một số ít trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua đời !” Như vậy, không lạ gì Anh quốc là nước số gia đình ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai đám cưới thì có một đám ly hôn.

– Tránh thái độ gia trưởng độc đoán: Vợ chồng cần trao đổi để nên một lòng một ý trong cách ứng xử với tha nhân, nuôi dạy con cái, mua sắm đồ dùng, và trong công việc làm ăn sinh sống. Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, và “Phu phụ hòa, gia đạo thịnh”.

– Gia đình phải có Chúa hiện diện: Thực vậy, nếu gia đình thực sự có đức tin, có lòng đạo đức, thì sẽ thương yêu và nhường nhịn lẫn nhau. Chồng thương yêu vợ, vợ yêu thương chồng, con cái thảo kính cha mẹ và anh chị em trong nhà thương yêu nhường nhịn nhau. Trong đời sống vợ chồng, chắc chắn sẽ có lúc vui lúc buồn, khi thành công lúc thất bại, và nhiều khi còn phải vác thánh giá là bệnh tật và các thói hư của nhau và phải vác đến chết để đền tội.

– Vợ chồng hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau: Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng cũng có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép Thánh giá, cha giảng phòng nói: “Ai có cây Thánh giá xin đem lên gần gian cung thánh để được làm phép. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây Thánh giá thì lại cõng bà vợ bị tê liệt lên. Tới lúc cha đến trước từng người đang cầm cây thánh giá để rấy nước thánh. Thay vì giơ cây Thánh giá lên cho cha làm phép thì ông lại cố bồng bà cụ lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ông nói: “Thưa cha, đây là cây thánh giá của con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá này cho đến cùng !” Qua lời nói của ông cụ, chúng ta hiểu người bạn đời chính là thánh giá sống động mà chúng ta phải mang từ khi lấy nhau cho đến hết. Vợ là thánh giá của chống và chồng là thánh giá của vợ. Ai cùng Chúa Giê-su trung thành vác thánh giá ấy cho đến cùng, thì sau này sẽ được sống lại với Chúa Giê-su và cùng được hưởng vinh quang Nước Trời với Người.

– Vợ chồng cùng nhau nhìn về một hướng là nuôi dạy con cái nên người: Cần ý thức con cái chính là tài sản quý giá nhất của cha mẹ, là tương lai của cha mẹ sau này, nên vợ chồng phải hy sinh mọi sự như thời giờ, tiền bạc, công việc… để lo cho con cái được sống trong bầu khí hạnh phúc và môi trường sống an toàn. Câu chuyện mẹ thày Mạnh Tử sẵn sàng dời nhà từ nghĩa trang đến gần trường học để tránh cho con khỏi bị lây nhiễm các thói hư và chăm chỉ học tập trở thành người tài đức giúp ích cho đời, là gương mẫu cho các cha mẹ hôm nay.

3) CHA MẸ CẦN LÀM GÌ ĐỂ GIÁO DỤC CON CÁI? 

Từ thời mở cửa, gia đình Việt Nam đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tiêu cực. Số cặp vợ chồng ly hôn ngày một gia tăng. Con cái không còn vâng lời cha mẹ như xưa. Nhiều gia đình tuy công việc làm ăn kinh tế có khá hơn, nhưng con cái lại bỏ bê việc học hành và sa đà vào các thói hư như : ăn chơi sa đọa, bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội như sì-ke ma túy, cướp bóc, quậy phá… làm cho cha mẹ xấu hổ và gia đình tan nát ly tán. Để bảo vệ hạnh phúc gia đình, các bậc cha mẹ hãy học tập noi gương Thánh Gia là thánh cả Giu-se và Thánh Mẫu Ma-ri-a.

 – Quan tâm chăm sóc dạy dỗ con cái: Cha mẹ không phải chỉ quan tâm đến con bằng việc cho chúng tiền bạc tiêu xài, mà quan trọng hơn là cho con tình thương, sự chăm sóc dạy dỗ ngay từ khi chúng còn nhỏ dại, và cảm thông động viên khi chúng trưởng thành. Nên nhớ rằng : Dù cha mẹ có thành công trong việc làm ăn kinh tế hay thăng quan tiến chức xã hội, mà để con cái mình sa đà vào thói hư như hút sách bài bạc… thì sự thành công kia trở thành thất bại gây cho cha mẹ nhiều nỗi ân hận đau khổ nhất. Vì thế, cha mẹ cần bảo vệ con cái mình khỏi tác hại của sách báo phim ảnh xấu trên các trang mạng internet, khỏi các bạn bè xấu… Nếu cần cha mẹ hãy đem con cách ly khỏi nanh vuốt của Hê-rô-đê gian ác của thời nay để đưa con yên tâm học tập và trở thành những người trưởng thành hữu dụng sau này.

– Phải dạy cho con cái hiếu thảo với cha mẹ và biết lễ độ với người trên: Muốn việc giáo dục thành công, chính cha mẹ phải được huấn luyện các đức tính nhân bản trước rồi mới biết đường dạy dỗ con cái. Cần dạy con bằng gương sáng của cha mẹ hơn là lời nói suông: Cần nói năng trung thực, khiêm tốn phục vụ và biết giữ chữ tín khi giao tiếp với tha nhân.

– Gia Đình cần học sống Lời Chúa : Cha mẹ cần tạo thói quen lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình, bằng việc phân công cho con cái mở Kinh Thánh để đọc Lời Chúa, rồi cầu nguyện để quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy hằng ngày.

  1. THẢO LUẬN:

1) Các gia trưởng và hiền mẫu Công giáo cần học tập những gì nơi thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a để gia đình được hạnh phúc ? 2) Nguyên nhân làm cho các gia đình đổ vỡ ly hôn là gì ? Khi xảy ra ly hôn thì trong hai vợ chồng ai là người có lỗi hơn ? 3) Bạn có đồng ý với câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” không ? Tại sao ?

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho các gia đình tín hữu chúng con biết luôn “trên thuận dưới hòa”, “một lòng một ý”. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ biết cách duy trì được tình yêu ban đầu. Xin cho họ biết “cho nhiều hơn nhận”, biết “ân cần phục vụ” cho nhau, biết “quảng đại tha thứ và nín nhịn các sự yếu đuối lỗi lầm” của nhau. Biết “nói ít làm nhiều”, và “sẵn sàng vác thánh giá” là chịu đựng người bạn đời của mình”… Nhờ đó các gia đình chúng con hy vọng sẽ trở thành một thiên đàng trần gian, là dấu chỉ chúng con sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu sau này.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH –  HHTM

Chia sẻ Bài này:
 

Related posts

 
 

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CHỜ NGÀY GIÁNG SINH

  •  
    Chi Tran - Dec 1 at 11:20 PM
     
     
     

    THÁNG 12: CHỜ NGÀY GIÁNG SINH

     

    Tại nhiều nước, 4 Chúa Nhật này được biểu hiện bằng 4 ngọn nến thắp sáng cho thấy lòng mong chờ của con người được diện kiến Hài Nhi Giêsu. Theo lễ nghi Rôma, Giáo Hội trình bày những chủ đề khác nhau:

     

     

    Tháng 12 là tháng cuối cùng của năm, nhưng theo lịch Công Giáo lại là tháng khai mở một năm phụng vụ mới. Tháng này chắc hẳn ai cũng nhận thấy bầu không khí bên ngoài đang rộn ràng lễ hội. Bên cạnh đó, nhiều nơi chờ mong những ngày Giáng sinh để nghỉ ngơi và chào đón năm mới. Với người công giáo, đây không chỉ là thời gian của niềm vui, nhưng còn là những ngày của Mùa Vọng.

     

    Vọng là chờ mong, ngóng đợi. Chờ gì? Chờ Ai? Và tại sao phải chờ? Từ khi con người sa ngã, Thiên Chúa hứa ban một Đấng để đem con người trở về vườn địa đàng. Đó là khoảng thời gian dài vô tận mà con người chờ mong, van xin và hy vong. Nếu tính lịch sử dân Chúa từ thời tổ phụ Abraham năm 1900 TCN, họ đã trải qua chừng ấy năm đợi và chờ[1]. Có thể tóm tắt tâm tình chờ mong của người xưa qua lời nguyện của tiên tri Isaia (sống 700 năm trước Chúa Giáng Sinh): “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ.”

     

    Tạ ơn Thiên Chúa, vì ơn cứu độ ấy đã đến với dân người. Lịch sử ghi nhận vào khoảng giữa năm 7 và 4 TCN, có một Hài Nhi Giêsu chào đời. Từ đó, nhân loại bước sang thời Tân Ước. Để tưởng niệm biến cố trọng đại ấy, Giáo Hội hằng năm mừng kính lễ Chúa Giáng Sinh[2] vào 25 tháng 12. Gọi là tưởng nhớ vì Chúa Giêsu đã sinh ra vào một đêm giá lạnh. Ngài đã trải qua cuộc đời dương thế, đã chết, đã sống lại và lên trời. Chính Chúa Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai trong ngày tận thế. Như vậy, chờ mong không chỉ là tưởng nhớ biến cố Giáng Sinh, nhưng còn hướng về ngày Chúa Giêsu khải hoàn.

     

    Để chuẩn bị tâm hồn chiêm ngắm Thiên Chúa nơi thân xác con người, Giáo hội dành 4 tuần, được gọi là 4 Chúa Nhật mùa Vọng. Tại nhiều nước, 4 Chúa Nhật này được biểu hiện bằng 4 ngọn nến thắp sáng cho thấy lòng mong chờ của con người được diện kiến Hài Nhi Giêsu. Theo lễ nghi Rôma, Giáo Hội trình bày những chủ đề khác nhau:

     

    1. Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng: chúng ta chờ mong Thiên Chúa đến lần thứ hai. Đó là ngày cánh chung, là ngày tận thế.
    2. Chúa Nhật thứ hai: các bài đọc gợi nhớ cho chúng ta đến những lời giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài kêu gọi người ta chuẩn bị con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Đấng Thiên Sai đến.
    3. Chúa Nhật thứ ba: nhắc đến niềm vui của ngày Đấng Cứu Độ đến trần gian.
    4. Chúa Nhật thứ tư: nhắc chúng ta nhớ đến câu chuyện của Đức Mẹ và Thánh Giuse liên quan đến cuộc hạ sinh của Chúa Giêsu.

    Chắc hẳn ai cũng dễ dàng nhận ra những rộn ràng bên ngoài của tháng đặc biệt này. Nào là hang đá đèn giăng, nào là cây thông ánh nến và những buổi tập dợt, biểu diễn văn nghệ đêm Giáng sinh. Trong những tuần này, các bạn trẻ dễ dàng nghe được nhiều từ thật ý nghĩa: Hy vọng, Hòa bình, Vui mừng, Tình yêu, Chuẩn bị, Thiên sứ, Ba vua, Thánh gia, và đỉnh cao là Đêm Giáng Sinh, v.v.

     

    Có lẽ đối với nhiều người, dạo phố đêm những ngày này xem hang đá cũng là điều thú vị. Tôi biết nhiều bạn rủ những bạn không cùng tôn giáo đến thánh đường trong đêm Giáng Sinh. Thật đẹp! Nhiều mối tình cũng đơm hoa, kết trái trong những tuần lễ này. Nhiều tấm thiệp cũng được gởi tặng nhau với dòng chữ: Merry Christmas! Mừng Chúa Giáng Sinh! Nhiều bữa tiệc tùng cũng được tưng bừng mừng lễ, .v.v. Bởi đơn giản, đó không chỉ là ngày lễ của người Công Giáo, nhưng đã trở nên một văn hóa lễ hội ở nhiều nơi. Ước gì Hài Nhi Giêsu nối kết muôn người!

     

    Chút lượt qua như thế để cho thấy đây là tháng có thể là vui nhất trong năm. Vui vì Hoàng Tử hòa bình đã đến với trần gian. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”[3]. Đó là ước vọng của mỗi người chúng ta trong tháng cuối năm này. Để ước gì không chỉ hào nhoáng bên ngoài, nhưng mỗi người còn tìm được niềm vui của Chúa Hài Đồng trong chính tâm hồn mình. Được như thế, chúng ta tiễn biệt một năm với lòng biết ơn Thiên Chúa; đồng thời, qua Đêm Giáng Sinh, chúng ta chuẩn bị bước vào một năm mới. Trong hành trình ấy, chắc chắn Chúa Hài Đồng sẽ luôn là ánh sáng rọi chiếu cho mỗi người trên bước đường đời.

     

    Lạy Chúa Giêsu, tháng 12 về, Mùa Vọng đến là lòng chúng con rộn mừng chờ mong Chúa đến. Mừng sinh nhật Chúa! Mỗi mùa Giáng sinh là thời gian để mong, để mừng và để nhớ. Xin Chúa đến với từng người chúng con. Nhất là những ai đang thiếu vắng bình an, những bệnh nhân và người nghèo khó, những tâm hồn lạnh lẽo, v.v. Xin cho chúng con và cho họ được một Mùa Giáng Sinh an lành và hạnh phúc.

     

    Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

    [1] Theo ước tính của các nhà khoa học, khoảng 40 ngàn năm trước đây, Người hiện đại hay Người tinh khôn (Homo Sapiens) đã ra đời. Homo Sapiens có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Nói chung sau khi ông bà Tổ Tông phạm tội, Thiên Chúa đã thực hiện chương trình cứu độ con người.

     

    [2] Tại sao lại rơi vào ngày này cũng là chủ đề sôi nổi trong giới học giả. Một trong nhiều lý do được chúng ta biết đến đó là ngày lễ hội Mặt Trời.

     

     

     Câu thánh vịnh về mùa Giáng Sinh này đã khơi nguồn cho Hàn Mạc Tử : “Tứ thời xuân! Tứ thời xuân non nước! Phút thiêng liêng nhuần gội áng thiều quang. Thiên hạ bình, và trời tuôn ơn phước. Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.” (Nguồn Thơm)

     

     
     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - BÀI GIÁO LÝ VỀ SACH TĐCV

  •  
    Tinh Cao
    Dec 4 at 6:59 PM
     
     

    ĐTC Phanxicô

     

     Giáo Lý về Sách Tông Vụ - Bài 17

     

    Thứ Tư ngày 4/12/2019

     

     

    Epheso: đức tin phi ma thuật - Miletus: lời từ biệt di chúc

     

    2019.12.04 Udienza Generale

     

    Quyền năng của Thiên Chúa, tỏ hiện ở Epheso, đã lột mặt nạ những ai muốn sử dụng tên Chúa Giêsu để trừ quỉ,

    nhưng không có thẩm quyền thiêng liêng để làm như thế (cf Acts 19:13-17),

    và cho thấy cái yếu kém của những thứ ma thuật,

    những gì bị loại trừ bởi đa số những người chọn Chúa Kitô và từ bỏ các thứ ma thuật (cf. Acts 119:1819).

     

    Pope Francis in St. Peter's Square Dec. 4, 2019. Credit: Daniel Ibáñez/CNA.

     

    Đức tin là việc tin tưởng phó mình trong bàn tay của một Vị Thiên Chúa khả tín,

    Đấng làm cho Bản Thân Mình không được biết đến bởi những thứ thực hành huyền bí

    mà bởi mạc khải cùng với tình yêu thương nhưng không.

     

     

    "Anh em hãy lưu ý tới bản thân mình cũng như đến tất cả đàn chiên".

    Đó là công việc của một vị Mục Tử: ở chỗ tỉnh thức, canh chừng bản thân mình cũng như đàn chiên...

    Các Vị Giám Mục cần phải rất gần gũi với dân chúng, để bênh vực họ; các vị không được tách lìa khỏi dân chúng.

     

     

     

    Xin chào anh chị em thân mến!

     

    Cuộc hành trình của Phúc Âm không ngừng tiếp tục trong Sách Tông Vụ, và Phúc Âm này đã băng ngang qua thành Epheso để biểu lộ tất cả những mục tiêu cứu độ của mình. Nhờ Thánh Phaolô mà đã có chừng 12 người lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu và cảm nghiệm thấy sự thông ban của Thánh Thần là Đấng tái sinh họ (cf. Acts 19:1-7). Thế rồi sau đó đã xẩy ra một số phép lạ qua vị Tông Đồ này: bệnh nhân được khỏi và kẻ bị ám được giải thoát (cf Acts 19:11-12). Điều này xẩy ra là vì vị môn đệ ấy giống như Thày của ngài (cf Lk 6:40) và giúp Người hiện diện bằng việc thông đạt cho anh em mình cùng một sự sống mới ngài đã lãnh nhận từ Người.

     

    Quyền năng của Thiên Chúa, tỏ hiện ở Epheso, đã lột mặt nạ những ai muốn sử dụng tên Chúa Giêsu để trừ quỉ, nhưng không có thẩm quyền thiêng liêng để làm như thế (cf Acts 19:13-17), và cho thấy cái yếu kém của những thứ ma thuật, những gì bị loại trừ bởi đa số những người chọn Chúa Kitô và từ bỏ các thứ ma thuật (cf. Acts 119:1819). Một cuộc đảo ngược thực sự đối với một thành phố như Epheso, một thành phố là trung tâm nổi tiếng về việc thực hành ma thuật! Bởi vậy mà Thánh Luca đã nhấn mạnh đến tính cách bất tương hợp giữa niềm tin vào Chúa Kitô và ma thuật. Nếu anh chị em chọn Chúa Kitô thì anh chị em không thể tìm kiếm một ma thuật viên nào: đức tin là việc tin tưởng phó mình trong bàn tay của một Vị Thiên Chúa khả tín, Đấng làm cho Bản Thân Mình không được biết đến bởi những thứ thực hành huyền bí mà bởi mạc khải cùng với tình yêu thương nhưng không. Có lẽ một số anh chị em sẽ nói với tôi rằng: "Đúng thế, thứ ma thuật này là một điều cổ hủ rồi: ngày nay điều ấy không còn xẩy ra ở nền văn minh Kitô giáo nữa". Thế nhưng, hãy cẩn thận nhé! Tôi hỏi anh chị em thế này: có bao nhiêu anh chị em đi xem bói toán, bao nhiêu anh chị em đi xem chỉ tay nơi những tay thày bói hay bài bói. Về vấn đề "Tại sao anh chị em tìm kiếm những tay ma thuật, những tên thày bói, đi tìm kiếm những loại người ấy chứ?" Câu trả lời là: "Tôi tin vào Chúa Giêsu Kitô nhưng tôi vẫn muốn đến với họ để tìm kiếm may lành". Này nhé, ma thuật không phải là Kitô giáo đâu đấy! Những điều được thực hiện để tiên đoán tương lai, hay tiên đoán nhiều điều, hoặc để thay đổi hoàn cảnh của cuộc sống ấy, đều không phải là Kitô giáo. Ân sủng của Chúa Kitô mang lại cho anh chị em tất cả mọi sự: hãy cầu nguyện và phó thác bản thân mình cho Chúa.

     

    Việc lan truyền Phúc Âm ở Epheso làm hư hại đến thương vụ của những người làm thợ bạc - một vấn đề khác nữa -, thành phần thực hiện các tượng nữ thần Artemis và việc tôn sùng nữ thần này (cf. Acts 19:23-28).

     

     Sau đó Thánh Phaolô đã rời Epheso đi thẳng tới Gierusalem và đến Miletus (cf. Acts 20:1-6). Ở đây ngài triệu tập Các Vị Trưởng Lão của Giáo Hội ở Epheso - các vị tư tế: họ sẽ là các vị linh mục - để ủy thác cho họ các thứ gửi gấm về "mục vụ" (cf Acts 20:17-35). Chúng ta đang ở đoạn cuối hành trình thừa tác vụ tông đồ của Thánh Phaolô, và Thánh Luca cống hiến cho chúng ta bài từ biệt của ngài, một thứ di chúc thiêng liêng được vị Tông Đồ này ngỏ cùng những người mà, sau khi ngài ra đi, sẽ cần phải hướng dẫn cộng đồng Epheso. Và đó là một trong những trang tuyệt vời nhất của Sách Tông Vụ: hôm nay tôi khuyên anh chị em hãy mở Tân Ước ra, Thánh Kinh, đoạn 20 và đọc lời từ biệt của Thánh Phaolô với những vị trưởng lão tư tế của thành Epheso - và ngài cũng làm như thế ở Miletus. Đó là cách để hiểu được Vị Tông Đồ này từ biệt ra sao, cũng như các vị tư tế ngày nay cần phải từ biệt như thế nào, và tất cả Kitô hữu cần phải từ biệt làm sao. Nó là một đoạn tuyệt vời nhất.

    Ở phần huấn dụ, Thánh Phaolô phấn khích thành phần lãnh đạo cộng đồng mà ngài biết rằng ngài đang nhìn thấy họ lần cuối cùng. Và ngài đã nói gì với họ? "Anh em hãy lưu ý tới bản thân mình cũng như đến tất cả đàn chiên"Đó là công việc của một vị Mục Tử: ở chỗ tỉnh thức, canh chừng bản thân mình cũng như đàn chiên. Vị Mục Tử cần phải canh chừng, vị linh mục coi xứ cần phải canh chừng, cần phải tỉnh thức, các vị trưởng lão cần phải canh chừng, các vị Giám Mục và Giáo Hoàng cần phải canh chừng. Các vị cần phải canh chừng để gìn giữ đàn chiên, và cũng canh chừng cả bản thân mình nữa, hãy khảo sát lương tâm các vị xem để các vị thầy rằng nhiệm vụ canh chừng này được hoàn trọn. "Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình", Thánh Phaolô đã nói như thế. Ngài đã yêu cầu các vị Giám Mục gần gũi bao nhiêu có thể với đàn chiên, thành phần được cứu chuộc bởi giá máu châu báu của Chúa Kitô, và hãy tức thời bênh vực đàn chiên cho khỏi "các con sói" (câu 29). Các Vị Giám Mục cần phải rất gần gũi với dân chúng, để bênh vực họ; các vị không được tách lìa khỏi dân chúng. Sau khi ủy thác công việc này cho thành phần lãnh đạo ở Epheso, Thánh Phaolô trao phó họ cho bàn tay của Chúa và gửi gấm họ "cho lời của ân sủng Người" (câu 32), men làm cho tất cả được tăng trưởng và là đường lối thánh thiện của Giáo Hội, bằng cách mời gọi họ, như ngài, hãy làm việc bằng bàn tay của họ, để không trở thành gánh nặng cho những người khác, hãy giúp đáp những ai yếu kém và hãy cảm nghiệm thấy rằng "trao ban thì hơn là nhận lãnh" (câu 35).

    Anh chị em thân mến, chúng ta xin cùng Chúa hãy canh tân đổi mới trong chúng ta tình yêu đối với Giáo Hội cũng như đối với kho tàng đức tin được Giáo Hội gìn giữ, và hãy làm cho tất cả chúng ta đồng trách nhiệm trong việc gìn giữ đàn chiên, ở chỗ nâng đỡ các vị Mục Tử bằng lời cầu nguyện, nhờ đó các vị thể hiện tính cách vững mạnh và dịu dàng của Vị Mục Tử Thần Linh.

    https://zenit.org/articles/popes-general-audience-on-st-pauls-ministry-in-ephesus/

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu  

     ------------------------------

     

     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - ĐTC/ BÀI GIAO LÝ

  •  
    Tinh Cao
    Nov 6 at 2:20 PM
     
     

    ĐTC Phanxicô

     

     Giáo Lý về Sách Tông Vụ - Bài 15

     

    Thứ Tư ngày 6/11/2019

     

     

    "Vị Thần Vô Danh" - Đức Tin Hội Nhập

     

     

     

    "Thánh Phaolô đã đến Nhã Điển, đến chính trung tâm của nước Hy Lạp ...

    Thánh Phaolô không nhìn thành phố Nhã Điển này và thế giới dân ngoại bằng lòng hận thù, mà bằng ánh mắt đức tin".

     

    Pope Francis at the General Audience

     

    "Thánh Phaolô đã chọn cái nhìn có thể thúc đẩy ngài tạo nên một cửa ngõ giữa Phúc Âm và thế giới dân ngoại.

    Ở Nghị Viện ấy, tâm điểm của một trong những cơ cấu danh tiếng nhất của thế giới cổ xưa,

    ngài đã cống hiến một mẫu gương vượt trội về vấn đề hội nhập văn hóa của sứ điệp đức tin"

     

    Pope Francis greets pilgrims in St. Peter's Square Nov. 6, 2019. Credit: Daniel Ibanez/CNA

     

    "Chúng ta hãy xin Thánh Linh cho chúng ta khả năng biết hội nhập văn hóa sứ điệp đức tin một cách khéo léo,

    gợi lên cho những ai chưa biết Đức Kitô một cái nhìn chiêm ngắm,

    được tác động bởi một tình yêu thương sưỡi ấm cả những cõi lòng cứng cỏi lạnh lùng nhất".

     

    Xin chào anh chị em thân mến!

    Chúng ta tiếp tục "cuộc hành trình" của chúng ta theo Sách Tông Vụ. Sau những thử thách trải qua ở Philiphi, Thessalonica và Beroea, Thánh Phaolô đã đến Nhã Điển, đến chính trung tâm của nước Hy Lạp (Cf. Acts 17:15). Thành phố này, một thành phố đã sống trong bóng tối tăm của một thời vinh quang xa xưa, mặc dù có bị suy yếu về chính trị, vẫn đóng vai trò trọng yếu về văn hóa. Ở đây, Vị Tông Đồ "khi thấy thành phố này đầy những ngẫu tượng thì tinh thần của ngài bị sôi động" (17:16). Tuy nhiên, "cái tác dụng" này trước một thế giới ngoại đạo ấy, thay vì khiến ngài bỏ đi, lại thúc đẩy ngài kiến tạo một cây cầu nối đối thoại với nền văn hóa ấy.

    Tông Đồ Phaolô đã muốn làm quen với thành phố này, nên ngài bắt đầu lui tới với những nơi chốn và những con người đáng kể nhất. Ngài đã đến hội đường, tiêu biểu cho đời sống đức tin; ngài đã ra Công trường, tiêu biểu cho đời sống phố phường; và ngài đã đến Nghị Viện, tiêu biểu cho đời sống chình trị và văn hóa. Ngài đã gặp gỡ những người Do Thái, những triết gia phái Epicurean và Stoic, cùng nhiều người khác nữa. Ngài đã gặp tất cả dân chúng, ngài đã không khép kín, ngài đã nói chuyện với tất cả dân chúng. Nhờ đó Thánh Phaolô đã quan sát về văn hóa, ngài đã quan sát môi trường của Thành Nhã Điển, "bắt đầu từ một cái nhìn ngắm nghía" để khám phá thấy rằng "thần linh ở trong nhà của họ, trên đường phố của họ và nơi các Công trường của họ" (Evangelii Gaudium, 71). Thánh Phaolô không nhìn thành phố Nhã Điển này và thế giới dân ngoại bằng lòng hận thù, mà bằng ánh mắt đức tin. Điều này khiến chúng ta tự vấn về cách thức chúng ta nhìn vào các phố phường của chúng ta, ở chỗ chúng ta có quan sát chúng một cách lãnh đạm lạnh lùng, một cách khinh khi miệt thị hay chăng? Hay bằng đức tin, một đức tin nhận biết con cái của Thiên Chúa giữa những đám đông vô danh.

    Thánh Phaolô đã chọn cái nhìn có thể thúc đẩy ngài tạo nên một cửa ngõ giữa Phúc Âm và thế giới dân ngoạiỞ Nghị Viện ấy, tâm điểm của một trong những cơ cấu danh tiếng nhất của thế giới cổ xưa, ngài đã cống hiến một mẫu gương vượt trổi về vấn đề hội nhập văn hóa của sứ điệp đức tin, ở chỗ ngài đã loan báo Chúa Kitô cho những con người tôn thờ ngẫu tượng, không phải bằng cách tấn công họ, mà bằng cách biến ngài trở thành "vị giáo chủ, thành vị xây dựng các chiếc cầu" (Homily at Saint Martha’s, May 8, 2013). Thánh Phaolô sử dụng cái chốt, từ một bàn thờ trong thành phố giành cho "một vị thần vô danh" (17:23) - có một bàn thờ ghi hàng chữ "cho vị thần vô danh" - ngoài ra không có hình ảnh gì hết, chỉ có mỗi câu ghi chú đó thôi. Bắt đầu từ "việc tôn sùng" giành cho vị thần vô danh này, và để thấu cảm với thành phần thính giả của mình, vị tông đồ này đã loan báo rằng Thiên Chúa là Đấng "sống giữa thành phần công dân" (Evangelii Gaudium, 71), và "Ngài không muốn ẩn khuất khỏi những ai đang thành tâm tìm kiếm Ngài, cho dù họ tìm kiếm một cách lần mò" (Ibid). Chính vì sự hiện diện này mà Thánh Phaolô tìm cách tỏ cho biết "những gì quí vị tôn thờ mà không biết thì tôi loan báo cho quí vị đây" (17:23).

    Để tỏ cho thấy căn tính của vị thần được dân thành Nhã Điển tôn thờ này, vị Tông Đồ đã bắt đầu từ việc tạo dựng, tức là từ đức tin thánh kinh vào vị Thiên Chúa mạc khải, đến ơn cứu độ và phán xét, tức là đến chính sứ điệp Kitô giáo. Ngài cho thấy tình chất bất tương xứng giữa cái cao cả của Vị Hóa Công với các chùa chiềng được bàn tay con người làm nên, rồi ngài giải thích rằng Đấng Hóa Công luôn tỏ mình ra để ai cũng có thể thấy Ngài. Bởi vậy, theo một diễn tả tuyệt vời của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, Thánh Phaolô "loan báo Đấng con người vô thức mà lại biết, đó là Đấng Được Nhận Biết Một Cách Vô Thức / the Unknown-Known" (Benedict XVI, Meeting with the World of Culture at the College of the Bernardines, September 12, 2008). Thế rồi vị tông đồ mời gọi tất cả mọi người hãy vượt ra ngoài "những thời kỳ vô thức", và hãy dứt khoát hoán cải trước phán quyết sắp xẩy ra. Như thế là Thánh Phaolô thực hiện việc loan báo cứu độ và ám chỉ Đức Kitô, dù không đề cập đến Người, bằng việc diễn tả Người như là "một con người được Thiên Chúa chỉ định, và để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho vị này sống lại từ cõi chết." (17:31)

    Vấn đề trục trặc là ở chỗ này. Lời của Thánh Phaolô, cho tới lúc bấy giờ vẫn còn làm cho thính giả của ngài dễ thở - bởi đó là một khám phá hay ho đối với họ -, đã đụng phải một tảng đá vấp phạm, đó là Cái Chết và Sự Phục Sinh của Đức Kitô dường như là những gì "nực cười" (1 Corinthians 23), và đã khơi lên niềm khinh thị và mỉa mai. Bởi vậy Thánh Phaolô đã bỏ đi: nỗ lực của ngài đường như bị thất bại; tuy nhiên, có một số lại gắn bó với lời của ngài và chấp nhận đức tin, trong số đó có một nam nhân là Dionysius, phần tử của Nghị Viện ấy, và một nữ nhân là Damaris. Ở Nhã Điển này Phúc Âm cũng đâm rễ và tiến triển với 2 tiếng nói: tiếng của nam nhân và tiếng của nữ nhân!

    Hôm nay chúng ta cũng hãy xin Thánh Linh dạy cho chúng ta biết xây dựng các cây cầu nối với các nền văn hóa, với những ai không tin hay có niềm tin khác với chúng ta. Bao giờ cũng phải xây dựng những cây cầu nối, bao giờ cũng phải vươn tay ra, chứ đừng hung hăng. Chúng ta hãy xin Thánh Linh cho chúng ta khả năng biết hội nhập văn hóa sứ điệp đức tin một cách khéo léo, gợi lên cho những ai chưa biết Đức Kitô một cái nhìn chiêm ngắm, được tác động bởi một tình yêu thương sưỡi ấm cả những cõi lòng cứng cỏi lạnh lùng nhất.

    https://zenit.org/articles/holy-father-continues-journey-through-acts-of-the-apostles/

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu  

     

    ---------------------------------