1. Hôn Nhân & Gia Đình

GẶP GỠ ĐỨC KITO - NGÀY 20-11-2020

  •  
    Tuyen Pham

    Chúng ta cùng bày tỏ tình tương thân tương ái với đồng bào miền Trung bằng lời cầu nguyện, và ủng hộ tiền của để giúp đỡ bà con đang gặp đau khổ vì lũ lụt, bão gió.

    Tông Đồ Cầu Nguyện, ngày 20-11-2020 

     "       Bất cứ ai tìm kiếm sự thật, dù có chủ đích hay không, cũng đều là tìm kiếm Thiên Chúa." (thánh Têrêsa Thánh Giá)

     

    --
    •  
      TDCN 20-11-2020.docx
      26.3kB
    • TDCN 20-11-2020.jpg
      2.1MB
    • MYHN-20.11.2020.png
      1.2MB
    • TDCN 20-11-2020 Thumb.jpg
      124.3kB
    •  
      MYHN 20.11.2020.docx
      17.9kB

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - CA TỤNG HAY KÊU TRÁCH

  •  
    phung phung
     
    Fri, Sep 18 at 7:52 AM
     
                   
     
    CA TỤNG HAY KÊU TRÁCH
    TIN MỪNG MAT 20, 1-16a
     Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.
    1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”
     Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm việc trong vườn nho của mình.  Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đích thân ra khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.
     Chúng ta có nhận ra sự hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu trì của chúng ta là một ơn huệ không?  Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không?  Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn và ca tụng không?  Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau?  Nhưng khi đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành tích của chính chúng ta?
     2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)
     Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều), ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!
     Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một cách hợp lý: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho.”  Như thế, được hiện diện trong vườn nho là một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; điều này cũng đúng với những trường hợp trước, phải được nhận ra và được ngợi khen bởi những người thợ đi vào trước, kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.
     Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo hướng chúc mừng và ca tụng.  Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x. Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); loài người và mỗi người chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.
     Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ đầu đến cuối.  Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.
     3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”
    Dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:
     Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.
     Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa lành.  Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ, điều này làm bật lên sự khác biệt giữa họ và những người khác.  Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn: 
     Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.
     Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại….”  Lời kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ!  Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng con mắt ghen tị!  Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, để đi vào trong niềm vui của người ban phát và của người lãnh nhận.  Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình đang có không phải là quyền lợi, nhưng là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính bản thân mình.  Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi buồn, gây chết chóc cho mình và cho người khác.
     ****************************
    Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x. 1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa, thay vì kêu trách).
     
    Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
     
    Tho lam vuon nho 2.jpg
     
     


    --Certified Virus Free by 4SecureMail.com ICSA-Certified Scanner--
    •  
      CA TỤNG HAY KÊU TRÁCH.docx
      97.2kB

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - THỨ SÁU 14-8-2020

  •  
    Tinh Cao
     
    Thu, Aug 13 at 4:38 PM
     
     
     

    Thứ Sáu CN19TN-A
     

    TIỆC Lời Chúa VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

     

    Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 16, 1-15. 60. 63

    "Ngươi tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi, thế mà ngươi đã mãi dâm truỵ lạc".

    Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

    Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, hãy cho Giêrusalem biết tội ác ghê tởm của nó. Hãy nói: Chúa là Thiên Chúa phán cùng Giêrusalem rằng: Nguồn gốc và sinh quán của ngươi là xứ Canaan. Cha ngươi là người Amorê: mẹ ngươi là người Xêthêa. Khi ngươi sinh ra, ngày ngươi chào đời, người ta không cắt rốn, không rửa ngươi trong nước cho sạch sẽ, không xát muối và bọc khăn cho ngươi. Không ai đem lòng thương xót nhìn ngươi để làm cho ngươi một công việc nào như thế. Ngày ngươi sinh ra, vì ghê tởm ngươi, người ta đã bỏ ngươi ngoài đồng.

    Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi dẫy dụa trong máu. Ta đã nói cùng ngươi rằng: 'Hãy sống trong máu và lớn lên như cỏ ngoài đồng'. Ngươi đã nảy nở, lớn lên và đến tuổi dậy thì. Ngực ngươi nở nang, tóc ngươi rậm dài, nhưng ngươi vẫn khoả thân. Bấy giờ Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi. Lúc đó ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta lấy vạt áo trải trên mình ngươi mà che sự khoả thân của ngươi. Ta thề và kết ước với ngươi - lời Chúa phán - và ngươi đã thuộc về Ta. Ta đã tắm ngươi trong nước, rửa máu trên mình ngươi và xức dầu cho ngươi. Ta đã mặc cho ngươi áo màu sặc sỡ và xỏ giày da tốt cho ngươi, thắt lưng ngươi bằng dây gai mịn và choàng cho ngươi áo tơ lụa. Ta đã lấy đồ quý mà trang điểm cho ngươi. Ta đã đeo xuyến vào tay ngươi, đeo kiềng vào cổ ngươi. Ta đã xỏ khoen vào mũi ngươi, đeo hoa tai vào tai ngươi và đặt triều thiên rực rỡ trên đầu ngươi. Ngươi đã được trang điểm bằng vàng bạc, mặc áo bằng vải mịn, tơ lụa và hàng thêu. Ngươi ăn bột miến lọc, mật ong và dầu ôliu. Càng ngày ngươi càng xinh đẹp và tiến lên ngôi nữ hoàng. Ngươi đã lừng danh giữa các dân tộc nhờ sắc đẹp của ngươi vì ngươi thật là tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi. Chúa là Thiên Chúa phán, nhưng ngươi đã cậy sắc đẹp và lợi dụng danh tiếng của ngươi, để mãi dâm trụy lạc. Ngươi hiến thân cho bất cứ ai qua đường. Nhưng phần Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh. Ta sẽ lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu. Như thế, để ngươi phải nhớ lại mà xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn mở miệng ra nữa, khi Ta tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm. Chúa là Thiên Chúa phán".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Hoặc bài vắn này: Ed 16, 59-63

    "Ngươi tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi, thế mà ngươi đã mãi dâm truỵ lạc".

    Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

    Chúa là Thiên Chúa đã phán thế này: "Ta sẽ đối xử với ngươi như ngươi đã đối xử với Ta, ngươi đã khinh rẻ lời thề mà huỷ bỏ giao ước. Nhưng phần Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh. Ta sẽ lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu. Và ngươi sẽ ghi nhớ các đường lối của ngươi mà cảm thấy nhục khi Ta lấy các chị các em gái ngươi mà ban cho ngươi làm con, mặc dầu chúng không có chân trong giao ước của ngươi. Ta sẽ giữ vững giao ước của Ta với ngươi, và ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, và như thế, để ngươi phải nhớ lại mà xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn mở miệng ra nữa, khi Ta tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm. Chúa là Thiên Chúa phán".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6

    Ðáp: Chúa đã bỏ cơn giận của Chúa và đã an ủi tôi (c. 1c).

    Xướng: 1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi. - Ðáp.

    2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người; hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa; hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang. - Ðáp.

    3) Hãy ca tụng, vì Người làm nên những việc kỳ diệu; hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.

     

    Alleluia: 1 Ga 2, 5

    Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mt 19, 3-12

    "Vì lòng chai đá của các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

    Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: "Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly". Họ hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".

    Các môn đệ thưa Người rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".

    Ðó là lời Chúa.

     

       

    image.png

     

     

    Cảm Nghiệm /Suy Niệm SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA

     

     

    Chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng?

    Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XIX Thường Niên đưa chúng ta đến bài Phúc Âm về vấn đề chồng ly dị vợ, một bài Phúc Âm ngay sau bài Phúc Âm hôm qua về lòng quảng đại thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta.
     
    Vấn đề chồng ly dị vợ này được "những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: 'Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?'", một vấn đề đã được Chúa Giêsu dứt khoát giải quyết một cách thẳng thắn hoàn toàn có tính cách chính thống như sau:
    "Nào các ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly".
    Theo văn hóa đại đồng của chung loài người thì thường vợ theo chồng chứ không phải là chồng theo vợ, ngoại trừ văn hóa theo mẫu hệ vốn còn cái lệ "đi bắt chồng", như ở thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo tâm lý tự nhiên thì người nam theo người nữ trước khi trở thành vợ chồng. Bởi thế nên mới có chuyện trai tán gái chứ không bao giờ hay ít khi thấy gái tán trai, cho dù cũng không hiếm chuyện gái theo trai, nhưng thường xẩy ra sau khi bị trai dụ dỗ v.v. 

    Câu Chúa Giêsu khẳng định "người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình" đã chứng thực là chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng, đúng hơn là trai theo gái hơn là gái theo trai, bởi vì bản chất và khuynh hướng của thành phần nam nhân làm chồng, như Adong, là tìm kiếm bản thân mình, cho đến khi thực sự cảm nhận được bản thân mình nơi một người nữ tuụ nhiên có duyên với mình nào đó, để rồi tự nhiên cảm thấy hết sức gắn bó với nàng, đến độ chàng sống không thể không có nàng: "Cuối cùng thì đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi" (Khởi Nguyên 2:23). 

    Bởi thế chồng yêu vợ là yêu bản thân mình: "Ai yêu thương vợ mình là yêu thương chính bản thân mình" (Epheso 5:28). Bởi "cả hai đã nên một thân xác... họ không còn là hai, nhưng là một thân xác", như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, và vì thế khi vợ chồng ly dị nhau thì họ chẳng những "phân ly những gì Thiên Chúa đã ràng buộc nối kết" họ lại với nhau mà tự họ cũng phản bội lẫn nhau nữa, nhất là khi chính bản thân họ không bị ràng buộc bởi cổ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy như xưa, trái lại, họ hoàn toàn tự do yêu nhau và lấy nhau... như văn hóa của thời đại quá văn minh tân tiến về cả khoa học kỹ thuật lẫn nhân quyền hiện nay, đến độ con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đó khi chính chúng nó tự quyết lập gia đình với nhau và làm đám cưới với nhau theo kiểu của chúng, kể cả chuyện đồng tính hôn nhân.

    C
    ó lẽ thành phần đặt vấn nạn với Chúa Kitô đã đoán trước được câu trả lời của Người rồi nên đã từ đó đi thẳng vào vấn đề họ muốn thử Người, với vấn nạn chính yếu thứ hai: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?", một vấn nạn cũng được Chúa Kitô không ngần ngại vạch trần sự thật cho họ biết về chính bản thân họ rằng:
     
    "Vì lòng chai đá của các ông mà Moisen đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại tình".
     
    Không ngờ vấn đề Người quả quyết như vậy đã đụng đến chính thành phần bỏ mọi sự mà theo Người, kể cả vợ con của các vị, nên các vị đã bồi thêm một câu vừa như để hỏi Người vừa như để than thân trách phận thay cho thành lập lập gia đình như sau: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ". 
     
    Thế nhưng, Chúa Giêsu đã lợi dụng ngay câu than vãn này của các vị để nói đến chính đời sống độc thân theo Người của các vị: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu".
     
    Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy giáo huấn của Chúa Kitô về vấn đề hôn nhân gia đình là thế này: 1- hôn nhân theo dự án thần linh của Thiên Chúa chỉ xẩy ra giữa một người nam và một người nữ mà thôi; 2- hôn nhân là do chính Thiên Chúa xe duyên kết nghĩa nên đôi phối ngẫu không được tự ý ly dị nhau, trừ trường hợp ngoại tình; 3- ai tự ý ly dị vợ chồng mình mà lấy người khác là phạm tội ngoại tình và ai lấy người ly dị cũng phạm tội ngoại tình; 4- ly dị vợ chồng là do con người gây ra chứ tự bản chất của hôn nhân là những gì bất khả phân ly. Đó là lý do chúng ta thấy Giáo Hội Công Giáo cứu xét rất kỹ lưỡng và cẩn thận giúp thực hiện việc học hỏi dự bị hôn nhân trước khi ban bí tích hôn nhân, cũng như trong việc giải hôn hay tiêu hôn khi cần
     
    Tuy luật lệ về đời sống hôn nhân ngặt nghèo như thế, đến độ người ta cảm thấy "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ", nghĩa là đừng lập gia đình, nhưng theo bản tính tự nhiên và phái tính xu hướng về nhau hầu như bất khả chống cưỡng, liên quan đến cả tình cảm lẫn tình dục của mình, con người, hầu hết vẫn không thể nào, không sớm thì muộn, không trước thì sau, không tiến tới đời sống lứa đôi trong hôn nhân gia đình, nếu chính thức, bằng không cũng khó lòng mà tránh được cảnh ăn ở với nhau ngoài hôn nhân một cách nào đó. 
     
    Dầu sao thực tế cũng cho thấy 3 trường hợp ngoại lệ được Chúa Giêsu kể đến trong bài Phúc Âm, đó là: thứ nhất, tự bẩm sinh là hoạn nhân (như sinh ra mang giới tính ái nam ái nữ, hoặc tự nhiên bị bất lực về sinh dục v.v.), thứ hai là bị trở thành hoạn nhân (như đã xẩy ra cho thành phần nam nhân được hầu cận gần gũi hoàng hậu hoặc công chúa hay cung phi của vua chúa ngày xưa), và thứ ba là tự ý làm hoạn nhân vì lý tưởng phụng vụ cao cả (như nam nữ tu sĩ khấn đồng trinh hoặc hàng giáo sĩ Công giáo hứa sống độc thân v.v.). 

    Hôn Nhân Kitô hữu nói chung và Công giáo nói riêng là một Bí Tích Thánh, tự bản chất là phản ảnh tình yêu thủy chung của Thiên Chúa đối với dân Do Thái của Ngài, cũng như tình yêu thánh hóa của Chúa Kitô luôn ở cùng Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người, một Nhiệm Thể cho dù tự bản chất là "thánh thiện", nhưng lại ôm ấp trong lòng mình toàn là đoàn con tội lỗi, bao gồm cả chính vị giáo hoàng được gọi là Đức Thánh Cha, vị mà trong nghi thức thống hối đầu lễ, cũng phải cùng với cộng đoàn dân Chúa tham dự phụng vụ bấy giờ "thú nhận ... đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót... lỗi tại tôi mọi đàng...".

    Thế nhưng, cho dù dân được Thiên Chúa ưu tuyển và ưu đãi hơn tất cả mọi dân tộc trên thế giới này, qua giòng lịch sử cứu độ của họ, liên tục ngoại tình với tà thần của dân ngoại, cũng như với mọi thứ ngẫu tượng của chính họ, không phải là chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất được Ngài tỏ ra cho họ, qua các kỳ công vĩ đại chính mắt họ chứng kiến thấy. Họ chẳng khác nào như con điếm, vô cùng đáng khinh bỉ, đáng bỏ rơi, xa lánh và đầy đọa cho đáng kiếp dâm loạn của mình, nhưng Thiên Chúa vẫn được Thiên Chúa nhẫn nại và nhịn nhục theo đuổi, cho đến khi nhận ra chỉ có mình Ngài vô cùng khả ái và đáng yêu trên hết mọi sự, như được Sách Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như sau:

    "Khi ngươi sinh ra, ngày ngươi chào đời, người ta không cắt rốn, không rửa ngươi trong nước cho sạch sẽ, không xát muối và bọc khăn cho ngươi. Không ai đem lòng thương xót nhìn ngươi để làm cho ngươi một công việc nào như thế. Ngày ngươi sinh ra, vì ghê tởm ngươi, người ta đã bỏ ngươi ngoài đồng. Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi dẫy dụa trong máu. Ta đã nói cùng ngươi rằng: 'Hãy sống trong máu và lớn lên như cỏ ngoài đồng'. Ngươi đã nảy nở, lớn lên và đến tuổi dậy thì. Ngực ngươi nở nang, tóc ngươi rậm dài, nhưng ngươi vẫn khoả thân. Bấy giờ Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi. Lúc đó ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta lấy vạt áo trải trên mình ngươi mà che sự khoả thân của ngươi. Ta thề và kết ước với ngươi - lời Chúa phán - và ngươi đã thuộc về Ta. Ta đã tắm ngươi trong nước, rửa máu trên mình ngươi và xức dầu cho ngươi. Ta đã mặc cho ngươi áo màu sặc sỡ và xỏ giày da tốt cho ngươi, thắt lưng ngươi bằng dây gai mịn và choàng cho ngươi áo tơ lụa. Ta đã lấy đồ quý mà trang điểm cho ngươi. Ta đã đeo xuyến vào tay ngươi, đeo kiềng vào cổ ngươi. Ta đã xỏ khoen vào mũi ngươi, đeo hoa tai vào tai ngươi và đặt triều thiên rực rỡ trên đầu ngươi. Ngươi đã được trang điểm bằng vàng bạc, mặc áo bằng vải mịn, tơ lụa và hàng thêu. Ngươi ăn bột miến lọc, mật ong và dầu ôliu. Càng ngày ngươi càng xinh đẹp và tiến lên ngôi nữ hoàng. Ngươi đã lừng danh giữa các dân tộc nhờ sắc đẹp của ngươi vì ngươi thật là tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi. Chúa là Thiên Chúa phán, nhưng ngươi đã cậy sắc đẹp và lợi dụng danh tiếng của ngươi, để mãi dâm trụy lạc. Ngươi hiến thân cho bất cứ ai qua đường. Nhưng phần Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh. Ta sẽ lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu. Như thế, để ngươi phải nhớ lại mà xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn mở miệng ra nữa, khi Ta tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm. Chúa là Thiên Chúa phán".

    Đến đây, chúng ta thấy rằng, nếu theo mẫu gương là tình yêu thủy chung như Thiên Chúa với dân của Ngài, hay như Chúa Kitô với Giáo Hội của Người, thì chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng, nhưng mục đích tối hậu là để làm sao cho vợ theo chồng, thế thôi. Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Tiên Tri Isaia, đoạn 12, chính vì 
    "Chúa đã bỏ cơn giận của Chúa và đã an ủi tôi", như Câu Họa vang lên, mà những ai cảm nghiệm thấy được tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài cũng cần phải nhận biết và ngợi khen chúc tụng Ngài, theo tâm tình ở các Câu Xướng của cùng Bài Đáp Ca như sau:
     

     

    1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi.

    2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người; hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa; hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang.

    3) Hãy ca tụng, vì Người làm nên những việc kỳ diệu; hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    TN.XIXL-6.mp3  

     

    THÁNH MAXIMILIÊN KOLBE

    (1894-1941)

     

    Militia Immaculata – Clarifying Catholicism

     

    Maximilian Kolbe sinh ngày 7 tháng 1 năm 1894 tại Zdunska Wola, Ba Lan với tên cha mẹ đặt là Raymond Kolbe. Ngài gia nhập tiểu chủng viện của các cha Phanxicô ở Lwow, Ba Lan, gần nơi sinh trưởng, và lúc ấy mới 16 tuổi. Mặc dù sau này ngài đậu bằng tiến sĩ về triết học và thần học, nhưng ngài rất yêu thích khoa học, có lần ngài phác họa cả một phi thuyền không gian.

     

    Sau khi thụ phong linh mục lúc 24 tuổi, ngài nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh nguy hiểm vào thời ấy. Nhiệm vụ của ngài là phải chiến đấu chống với căn bệnh này. Ngài sáng lập tổ chức Ðạo Binh của Ðức Vô Nhiễm mà mục đích là chống lại sự dữ qua đời sống tốt lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ. Ngài phát hành tờ Hiệp Sĩ của Ðức Vô Nhiễm, được đặt dưới sự phù hộ của Ðức Maria để rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc. Ðể thực hiện công việc ấn loát, ngài thành lập "Thành Phố của Ðức Vô Nhiễm" -- Niepolalanow -- mà trong đó có đến 700 tu sĩ Phanxicô làm việc. Sau này, ngài thành lập một thành phố khác ở Nagasaki, Nhật Bản. Cả tổ chức Ðạo Binh và tờ nguyệt san có đến 1 triệu hội viên cũng như độc giả. Tình yêu Thiên Chúa của ngài được thể hiện hằng ngày qua sự sùng kính Ðức Maria.

     

    Năm 1939, Ðức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào đúng ngày lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

     

    Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Ðức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.

     

    Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.

     

    Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng.

     

    "Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con."

     

    Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng.

     

    "Mày là ai?"

     

    "Là một linh mục." Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng.

     

    Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.

     

    Trong "hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày áp lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (14 tháng 8 năm 1941) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như những tù nhân khác.

     

    Cha được Đức Thánh Cha Paul VI tôn phong Chân Phước ngày 17 tháng 10 năm 1971 và Đức Giáo Hoàng John Paul II đã chính thức ghi tên cha vào sổ các thánh tử vì đạo của lòng nhân ái của Giáo Hội ngày 10 tháng 10 năm 1982.

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAChZeFj8%3DNxYTQx6DFW3tVyye3GwqhjJDN2B3BXhmQmwWDL%3DJw%40mail.gmail.com.
     

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - VỢ CHỒNG KHAC NHAU

 

  •  
    Mo Nguyen
    Tue, Sep 15 at 4:12 PM
     
     

    Chồng Giận Thì Vợ Bớt Lời, Cơm Sôi Bớt Lửa Chẳng Đời Nào Khê - Nguyễn thượng Chánh, DVM

    Đàn ông và Đàn bà là cả hai thế giới khác biệt nhau. Họ khác nhau về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ, cũng như về cách hành sự trong cuộc sống. Bởi những nguyên nhân này mà thường xảy ra biết bao nhiêu là chuyện hục hặc, hiểu lầm lẫn nhau, cơm không lành canh không ngọt, khắc khẩu, ảnh hưởng không nhỏ đến hạnh phúc gia đình… Bài viết này được phỏng theo tác phẩm nổi tiếng đã đạt số bán kỷ lục 8 triệu cuốn: Why Men Don’t Listen & Women Can’t Read Maps by Barbara and Allan Pease, Broadway Books, New York.
    Ở đây người gõ không có chủ đích đánh giá hay phán xét sự tốt xấu của các hành động ở phía người Đàn ông cũng như ở phía người Đàn bà. Tất cả các điều nêu ra dưới đây là kết quả nghiên cứu và nhận xét của giới y khoa và của các nhà tâm lý học Tây phương. Đúng hay sai đều do bạn đọc tự mình phê phán lấy…

    Đàn ông và Đàn bà khác nhau về nhiều mặt: về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ cũng như đôi khi về cách giải quyết một vấn đề! Họ thường tuân theo những quy luật khác nhau… Đấy là chưa nói đến cá tánh bẩm sinh của từng cá nhân. Ngoài ra, tôn giáo, giáo dục gia đình và kinh nghiệm sống cũng chi phối phần nào cách suy nghĩ và hành động của họ.
    Mỗi khi người Đàn ông vào washroom, là họ có một mục đích rõ rệt và nhất định rồi.
    Đàn bà thì không những xem washroom là một nơi để giải quyết một nhu cầu của cơ thể mà nó còn là một nơi hẹn hò, để các bà tâm sự to nhỏ với nhau về đủ thứ chuyện và dĩ nhiên cũng là nơi chốn để làm duyên, để tô lại môi son, thêm chút má hồng và chải lại mái tóc…
    Bạn có để ý không? Giữa buổi tiệc, các bà có lệ là thường rủ nhau đi washroom cùng một lúc. Ngược lại, các ông nếu cần đi thì chỉ tự động đi có một mình mà thôi…
    Lúc xem TV, đến phần quảng cáo thương mại các ông thường bóp cái tầm xa (remote control) lia lịa để đổi đài, ngược lại các bà thì nhẫn nại hơn và vẫn tiếp tục xem phần quảng cáo một cách bình thản…
    Các bà thường phàn nàn các ông sao làm biếng kéo nắp toilet xuống quá mỗi khi tè xong, còn các ông thì càu nhàu tại sao các bà sao không chịu dỡ nắp lên khi các bà xong việc cho người ta nhờ một tí…
    Các bà thường hay tỉ mỉ từng ly từng chút, chi tiết quá trời nên thường trách các ông sao quá bừa bãi.
    Đàn ông thường phải mất rất nhiều thời giờ để tìm được hai chiếc vớ cùng màu bỏ lộn xộn không thứ tự trong ngăn tủ, nhưng ngược lại các CDs của họ đều được xấp xếp rất ư là có thứ tự trên bàn.
    Đàn ông phải mất cả buổi mới tìm ra xâu chìa khóa xe bị thất lạc, trong khi Đàn bà tìm ra ngay chỉ trong một thời gian rất ngắn…
    Đàn bà thường không thấy ánh đèn phực lên ngay trước mặt báo hiệu xe sắp hết xăng, nhưng họ thấy ngay chiếc vớ bẩn vất bừa bãi trong góc kẹt phòng…
    Các ông thường trách các bà về cách lái xe, còn các bà thì không hiểu tại sao các ông lại rất thích đậu xe kiểu song song (parallel parking) bằng cách vừa nhìn kính chiếu hậu vừa lui vô chỗ đậu hẹp bé tí…
    Đàn ông có khiếu xác định vị trí trong không gian, họ đọc bản đồ rất nhanh và tìm ra hướng Bắc rất dễ dàng. Nhờ năng khiếu này mà thuở tạo thiên lập điạ, người Đàn ông mới có thể đi săn thú trong rừng để nuôi sống gia đình. Đàn bà nếu có xem bản đồ họ thường xem ngược ngạo.
    Lỡ có lạc đường, thì các bà thường mau mau ngưng xe lại trạm xăng để hỏi thăm, còn các ông thì ít chịu làm như vậy để khỏi bị chê là mình quá yếu quá dở.
    Các ông thường ráng chạy loanh quanh cả tiếng đồng hồ để tìm đường, miệng thì lẩm bẩm: “hình như tôi có thấy chỗ này rồi”...
    Đàn bà thường có thị giác ngoại biên rộng lớn (wider peripheral vision), Đàn ông thì có thị giác hẹp hơn nhưng lại thấy rất xa (narrow tunnel vision). Bởi vậy, nếu có lái xe đường xa, người ta khuyên nên để Đàn bà lái xe lúc ban ngày sáng tỏ, còn Đàn ông thì nên lái xe lúc về đêm tăm tối vì họ có thể nhận thấy các xe khác từ xa ở phía trước lẫn phía sau…
    Đàn bà xem việc đi chợ, đi shopping hay đi window shopping là một cái thú tiêu khiển, một cách để giảm stress mặc dù không cần phải mua một món hàng nào cả.
    Ngoại trừ mấy năm đầu vừa mới cưới vợ, Đàn ông thường tò tò theo chân bà xã cho bả vừa vui lòng vừa hãnh diện với thiên hạ, nhưng lần lần vài năm sau thì các ông rất ngại cái món này lắm, nó vừa mỏi cẳng, vừa bực mình và nó cũng vừa mất công mất thời giờ quá đi thôi.
    Trong các tiệm bán thời trang cũng như trong các thương xá người ta thường thấy có băng có ghế cho các ông và các cụ ông ngồi chờ các bà, các cụ bà.
    Đàn ông nếu có muốn mua một món gì thì họ đã biết họ thích cái gì rồi, cho nên đi thẳng vào tiệm mà mua một cái rụp khỏi phải mất công lê bước hết tiệm này đến tiệm khác.
    Đàn bà rất tinh ý, và có lẽ có giác quan thứ 6 gì đó. Người Đàn bà có khiếu bắt mạch, và hiểu rất dễ dàng ý nghĩa của các sự thay đổi trên nét mặt người Đàn ông.
    Các ông đừng có mong dối gạt các bà được đâu. Nếu có muốn nói dối thì hãy dùng telephone, viết thơ, hoặc gởi email thì có thể dễ thành công hơn là phải chạm mặt thẳng với các bà.
    Đàn ông không có cái khiếu này như ở Đàn bà…Đàn bà cũng rất thính tai hơn Đàn ông. Nửa đêm, nếu cháu bé khóc oẹ oẹ ở phòng bên cạnh thì thường là các bà hay liền. Nước lavabo nhểu lỏn tỏn thì các bà biết liền, còn các ông thường ngủ khò mà thôi.
    Não của Đàn ông chỉ program để làm mỗi lần một việc mà thôi. Họ chỉ sử dụng có 1 bán cầu não (thường là phía trái) để suy nghĩ. Mỗi khi ngừng xe lại để đọc bản đồ là họ cần phải vặn nhỏ cái radio xuống rồi mới có thể đọc được.
    Đang xem TV mà bà xã hỏi thì có ông nào nghe đâu. Bởi vậy lúc các ông xã đang lái xe các bà xã đừng nên nói đừng nên hỏi gì hết có thể nguy hiểm đó!
    Ngược lại ở Đàn bà, mỗi khi suy nghĩ họ thường sử dụng cả hai bán cầu não phía trái và phía phải, và nhờ vậy các bà có thể dễ dàng làm được nhiều việc cùng một lúc.
    Đàn bà có thể vừa đọc sách và vừa nghe radio hoặc vừa làm bếp nấu nướng vừa nói điện thoại.
    Các bạn có để ý không, trong các siêu thị ở quày trả tiền thường các cô thu ngân viên, mắt vừa nhìn các món hàng, tay thì bấm máy lia lịa, đôi khi vừa làm vừa trả lời khách hàng hoặc vừa viết và vừa nói điện thoại kẹp nơi cổ.

    Nếu được hỏi thình lình phía nào là tay phải, phía nào là tay trái, các bà thường hay lộn nếu họ không nhìn vào chiếc nhẩn đeo trên tay. Các ông thường phàn nàn các bà là miệng thì biểu người ta quẹo trái nhưng trong đầu họ thật sự muốn mình quẹo mặt.

    Đàn ông thán phục Đàn bà về cách bắt chuyện giữa đám đông hay trong các buổi tiệc. Mặc dù toàn là khách lạ nhưng các bà vẫn có cách trau đổi với nhau về đủ thứ chuyện, người này khen qua người kia khen lại, nói đẩy đưa quên thôi…
    Các bà cho rằng các ông thường hay lạnh nhạt về tình cảm, ít thố lộ tâm sự và có vẻ kín đáo e dè trước đám đông. Các bà nghĩ rằng Đàn bà có nhiều tình cảm hơn Đàn ông, còn các ông thì cho rằng bọn họ cũng rất tình cảm nhưng ít bộc lộ ra ngoài.
    Tuy nhiều lúc thấy người Đàn ông im lặng nhưng thật sự chính lúc đó họ nói một cách âm thầm cho chính họ! Đàn ông không thích ai cho mình ý kiến nầy nọ.
    Sự ít nói của người Đàn ông có thể được người Đàn bà hiểu lầm là mình không còn được thương nữa.
    Đối với chuyện chăn gối, các bà thường trách các ông thiếu sự lãng mạn, sao chỉ muốn vụ đó một cách nhanh chóng, nhào vô là làm liền để các ông có thể hạ hỏa gấp rút rồi sau đó thì lăn ra ngủ khò quên cả người ta nằm bên cạnh, còn các ông đôi khi trách các bà hơi thụ động và thiếu sáng kiến…
    Nói tóm lại, theo Allan Pease thì men want to have sex but women want to make love.
    Đàn ông thường trách Đàn bà thường hay nói nhiều và cũng thường hay so sánh quá.
    Nói chuyện mới đả đành đi, đàng này chuyện cũ đã nói nhiều lần rồi các bà vẫn có thể hâm nóng lại và đem ra nói nữa.
    Ở người Đàn bà, các dữ kiện, tín hiệu, thông tin bên ngoài được cất giữ trong não của họ một cách khá lộn xộn. Cách duy nhất để các bà đem vấn đề ra ngoài là phải nói nó ra và nhìn nhận nó.
    Bởi vậy Đàn bà nói nhiều hơn Đàn ông là lẽ thường. Các bà cần nói ra để bớt căng thẳng tinh thần, để làm giảm stress. Các ông phải rán nghe mà thôi và đừng bao giờ đề nghị một giải pháp nào hết cho vấn đề mà các bà tuôn ra. Các bà chỉ cần có người ngồi nghe chớ không phải các bà muốn tìm cách giải quyết vấn đề đâu.
    Ở Đàn bà, việc nói chuyện và việc tâm sự là cách duy nhất để họ làm bạn với nhau. Tuy cả ngày đã đi shopping với bà bạn, mà khi vừa về đến nhà các bà cũng còn chuyện để nói với nhau qua điện thoại cả tiếng đồng hồ nữa.
    Các ông mỗi khi cần nói chuyện là họ đi thẳng vào vấn đề. Ở người Đàn ông các tín hiệu thông tin bên ngoài được cất giữ riêng rẽ trong những ngăn riêng biệt trong não. Cuối ngày các ông đem nó ra ngoài rất dễ dàng để giải quyết.
    Việc nói nhiều của các bà thường làm các ông bực mình không ít, nhưng đó là dấu hiệu tốt có nghĩa là các bà còn thương, còn quan tâm đến các ông, cần người chia sẻ các vui buồn khổ cực trong cuộc sống vợ chồng.
    Trường hợp các bà im lặng, thì các ông phải đề phòng là có điều chẳng lành sắp xảy ra đó, còn tệ hơn nữa là các bà phớt tỉnh ăn glê, không thèm đếm xĩa đá động gì đến các ông và xem các ông như nơ pa không có, đó là dấu hiệu sắp rã hùn rồi đố tránh khỏi!
    Tóm lại dù Đông hay Tây, dù Xưa hay Nay, Đàn bà vẫn là Đàn bà còn Đàn ông vẫn là Đàn ông.
    Muốn sống hạnh phúc thì cả hai vợ chồng cần nên noi theo lời vàng ngọc:
    Chồng giận thì vợ bớt lời. Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.

    Montreal
    Nguyễn Thượng Chánh

    • image001.png
      530.8kB
     

 

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH= THỨ SÁU-CN19TN-A

  •  
    Hong Nguyen
     
    Thu, Aug 13 at 2:37 PM
     
     


    Thứ Sáu Tuần XIX Thường Niên A - GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

    Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Mátthêu (Mt  19: 3-12)

    3Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su để thử Người. Họ nói: “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?”. 4Người đáp: “Các ông không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ’, 5và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt’. 6Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. 7Họ thưa với Người: “Thế sao ông Mô-sê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?”. 8Người bảo họ: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. 9Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”. 10Các môn đệ thưa Người: “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn”. 11Nhưng Người nói với các ông: “Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. 12Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu”.

    Suy niệm
     

    Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe gợi nhắc cho chúng ta về một vấn nạn đang được mọi người chấp nhận vào thời của Môsê: Đã có những người chồng đuổi vợ đi và lấy vợ khác, nhưng nếu người vợ bị đuổi mà đi với người đàn ông khác, người chồng có thể tố cáo vợ bị đuổi là ngoại tình (và có thể sẽ bị xử tử).

    Trước thói quen xấu này, Môsê đưa ra một luật cụ thể như sau: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà” (Đnl 24, 1).

    Và người ta hiểu như vậy là Môsê cho phép ly dị. Như vậy, một đằng Kinh Thánh cho thấy: “sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”; đằng khác, Môsê lại cho phép ly dị. Những người Pharisêu, trong Tin Mừng hôm nay, đã dùng vấn nạn này để thử Đức Giêsu.

    Trước vấn nạn mà những người Pharisêu nêu ra, Chúa Giêsu cho thấy, sở dĩ Môsê cho phép viết chứng thư ly dị là vì lòng trai dạ đá của họ. Môsê chỉ cố gắng thiết lập và xác định một số quy tắc hầu kiểm soát một thói quen xấu đã và đang phổ biến để che trở người phụ nữ.

    Thật vậy, trước khi Môsê cho phép ly dị thì đã có những người chồng đuổi vợ đi và lấy vợ khác, nhưng nếu người vợ bị đuổi mà đi với người đàn ông khác, người chồng có thể tố cáo vợ bị đuổi là ngoại tình (và có thể sẽ bị xử tử).

    Trước thói quen xấu này, Môsê đưa ra một luật cụ thể: nếu người chồng đuổi vợ đi vì một lý do nào đó và đi lấy vợ khác thì phải viết cho người vợ bị đuổi một chứng thư ly dị để trả lại tự do cho người vợ để nàng có thể kết hôn với người đàn ông khác. Như vậy, vấn đề ly dị theo luật Môsê thực tế chỉ là một nguyên tắc lựa chọn: “giữa hai điều xấu phải chọn điều ít xấu hơn”.

    Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cho thấy: tương quan giữa người nam và người nữ không phải là điều mà con người tự do định liệu, bởi vì không phát xuất từ con người, hay bất cứ thể chế nào của con người nhưng từ Thiên Chúa trong tư cách là Đấng Tạo Hoá.

    Ngài đã tạo dựng loài người trong sự khác biệt nam nữ; Ngài đã nhắm người này cho người kia, đã quy định rằng họ kết hợp với nhau và nên “một xương một thịt”. Phá bỏ sự bố trí này là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Thiên Chúa - Đấng Tạo hoá.

    Lạy Chúa, xin cho các đôi vợ chồng luôn biết để ý muốn của Thiên Chúa thể hiện trong đời sống của mình và sống ân sủng mà bí tích Hôn Phối mang lại, hầu giúp các đôi vợ chồng luôn tìm được bình an và hạnh phúc trong chính đời sống hôn nhân của mình. Amen.

     

    GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
    Kính chuyển:
    Hồng