16. Sống Tình Thức

SỐNG TỈNH THỨC - NGÀY MÌNH LÌA ĐỜI

  •  
    Chi Tran

     
     
    Bạn sẽ làm gì nếu biết trước ngày mình lìa đời
    • Rachel Nuwer
    • BBC Future
     
    Getty Images

    NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY 

    Bạn và tất cả những người bạn từng biết một ngày nào đó đều sẽ phải giã từ thế giới.

    Theo một số nhà tâm lý học, sự thật phũ phàng này luôn luôn lẩn khuất ở một góc kín trong đầu óc của chúng ta và cuối cùng sẽ xui khiến tất cả những gì chúng ta làm, từ việc quyết định đi nhà thờ, ăn rau củ, đi tập thể hình cho đến tạo động lực cho ta có con cái, viết sách hay mở công ty.

     

     

    Sợ hãi, lo lắng

    Đối với những người khỏe mạnh, cái chết thường ẩn khuất trong tâm tưởng, và gây ảnh hưởng lên họ ở mức độ tiềm thức.

    "Phần lớn thời gian chúng ta sống ngày qua ngày mà không để ý hay không nghĩ đến cái chết," Chris Feudtner, bác sỹ nhi tại Bệnh viện Nhi Philadelphia và Đại học Pennsylvania, nói.

    "Chúng ta đương đầu với cái chết bằng cách tập trung vào những điều trực tiếp hơn trước mắt chúng ta."

    Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu không còn sự mơ hồ xung quanh sự diệt vong của chúng ta nữa? Điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả chúng ta được biết ngày tháng chính xác và cách chúng ta chết?

    Tuy đó là điều đương nhiên không thể xảy ra, nhưng việc xem xét kỹ kịch bản giả định này có thể giúp ta hiểu được động cơ của mình, vừa như một cá nhân riêng rẽ vừa như một thành viên xã hội, và hé lộ cách tốt nhất để dùng khoảng thời gian có hạn mà ta có được trên cõi đời.

    Trước hết, hãy xác định những gì ta đã biết về cách thức mà cái chết định hình hành vi của ta trong đời thực.

    Vào những năm 1980, các nhà tâm lý học đã quan tâm đến việc chúng ta ứng phó với nỗi lo lắng và sợ hãi tràn ngập ra sao khi nhận ra rằng chúng ta không là gì khác là bao những 'miếng thịt tự nhận thức biết thở, biết đi đại tiện mà có thể chết bất cứ lúc nào," Sheldon Solomon, giáo sư tâm lý tại Trường Skidmore, nói.

     

    NGUỒN

    Theo lý thuyết quản lý nỗi kinh sợ, thuật ngữ mà Solomon và các đồng sự của ông sáng tạo ra để gọi những phát hiện của họ, thì con người chấp nhận những niềm tin do văn hóa tạo dựng nên, theo đó cho rằng thế giới này là có ý nghĩa và rằng cuộc đời của chúng ta là có giá trị, qua đó cố đẩy lùi nỗi kinh sợ về sự sinh diệt vốn làm cho chúng ta tê liệt.

    Yếm thế và tiêu cực

    Trong hơn 1.000 thí nghiệm được đồng nghiệp đánh giá, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng khi được nhắc là chúng ta sắp từ giã cõi đời, chúng ta sẽ càng bấu víu chặt hơn vào những niềm tin văn hóa và cố khẳng định giá trị bản thân. Chúng ta sẽ càng kiên định với niềm tin của mình hơn và phản ứng một cách thù địch với bất cứ điều gì đe dọa những niềm tin này.

    Thậm chí những ý thức rất rất tinh tế về cái chết - sự xuất hiện của từ 'chết' trên màn hình máy tính chỉ 42,8 phần ngàn giây hay một cuộc hội thoại xảy ra trong khi nhìn thấy một nhà tang lễ - cũng đủ để kích hoạt sự thay đổi trong hành vi.

    Những thay đổi này sẽ diễn ra như thế nào?

    Khi được nhắc nhở về cái chết, chúng ta sẽ đối xử tốt hơn với những ai giống với chúng ta về ngoại hình, xu thế chính trị, nơi xuất thân và niềm tin tôn giáo. Chúng ta trở nên khinh mạn hơn và hung dữ hơn đối với những ai không có những điều tương đồng này.

    Chúng ta sẽ có sự gắn bó sâu đậm hơn với người bạn đời vốn khiến cho nhân sinh quan của chúng ta có giá trị. Và chúng ta sẽ có khuynh hướng bỏ phiếu cho những nhà lãnh đạo hùng hồn có lập trường cứng rắn.

     

    NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

    Chúng ta cũng trở nên yếm thế hơn: tha hồ uống rượu bia, hút thuốc, mua sắm và ăn uống - và chúng ta ít quan tâm đến việc bảo vệ môi trường.

    Nếu đột nhiên tất cả mọi người có thể biết được ngày giờ và cách họ chết, xã hội nhiều khả năng sẽ trở nên kỳ thị sắc tộc, bài ngoại, bạo lực, hiếu chiến, tự hủy hoại và tàn phá môi trường nhiều hơn trước.

     

    Suy gẫm về cái chết

    Các nhà nghiên cứu như Solomon hy vọng rằng bằng cách nhận thức rõ hơn những tác động tiêu cực mà nỗi sợ cái chết gây ra, chúng ta có thể đẩy lùi được chúng.

    Thật ra, các nhà khoa học đã ghi nhận được một số trường hợp không đi theo xu thế chung này. Chẳng hạn như các nhà sư Phật giáo ở Hàn Quốc không hề phản ứng như thế trước cái chết.

     

    NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

    Các nhà nghiên cứu đã xem xét một kiểu suy nghĩ được gọi là 'suy gẫm về cái chết', theo đó yêu cầu mọi người không nghĩ về cái chết một cách chung chung mà nghĩ về đúng cách mà họ chết và tác động của việc họ chết đối với người thân của mình. Và họ nhận ra rằng điều này gây ra rất nhiều phản ứng khác nhau.

    Khi đó, mọi người sẽ trở nên vị tha và biết hy sinh bản thân nhiều hơn. Chẳng hạn như họ sẵn sàng hiến máu bất chấp xã hội có nhu cầu lớn về nguồn máu hay không. Họ cũng sẽ trở nên cởi mở hơn trong việc suy ngẫm về vai trò của cả những sự kiện tích cực lẫn tiêu cực mà họ từng trải qua trong đời.

    Như vậy, việc biết được thời khắc ta chết có thể khiến chúng ta tập trung nhiều hơn về các mục tiêu trong cuộc đời và các mối quan hệ xã hội thay vì thu mình lại.

     

    Bình tĩnh chấp nhận

    Điều này đặc biệt đúng "nếu như chúng ta thúc đẩy những chiến lược giúp ta chấp nhận rằng cái chết là một phần tất yếu của sự sống, và đưa nhận thức này vào những lựa chọn, ứng xử hàng ngày của chúng ta," Eva Jonas, giáo sư tâm lý tại Đại học Salzburg, nói.

    "Hiểu được sự mong manh của cuộc sống sẽ giúp ta ý thức được rõ hơn về giá trị cuộc sống và nhìn nhận được rằng 'tất cả chúng ta đều cùng trên một con thuyền'," làm tăng lòng khoan dung và lòng trắc ẩn, đồng thời giúp giảm thiểu những phản ứng phòng vệ.

    Cho dù toàn thể xã hội có chuyển biến xấu hay tốt, thì từ cái nhìn cá nhân, việc chúng ta phản ứng thế nào khi biết được về cái chết của mình sẽ thay đổi tùy vào nhân cách và những đặc điểm cụ thể của những sự kiện trọng đại.

    "Bạn càng bị loạn thần kinh và lo lắng chừng nào, thì bạn càng lo nghĩ về cái chết nhiều chừng đó và không thể nào tập trung vào những thay đổi có ý nghĩa trong cuộc sống," Laura Blackie, phó giáo sư tâm lý tại Đại học Nottingham, giải thích.

    "Tuy nhiên mặt khác, nếu như bạn biết được rằng bạn qua đời một cách an lành trong giấc ngủ khi 90 tuổi thì bạn cũng vẫn không có động lực nhiều như thế để sống có ý nghĩa, kiểu như là 'Ồ, vậy thì tốt, sống tiếp thôi'."

     

    NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

    Chụp lại hình ảnh,

    Việc biết trước về thời điểm mình chết khiến nhiều người muốn làm nhiều điều có ích hơn cho xã hội, chẳng hạn như đi hiến máu

    Tuy nhiên, cho dù cuộc đời của bạn kết thúc ở năm 13 tuổi hay 113 tuổi, những nghiên cứu ở những người bệnh kinh niên có thể soi rọi về cách phản ứng điển hình trước cái chết.

     

    Sống tốt hay buông xuôi?

    Các bệnh nhân được chăm sóc sức khỏe trong giai đoạn cuối đời, Feudtner nói, thường trải qua hai giai đoạn suy nghĩ.

    Trước hết, họ đặt câu hỏi về chính kết quả chẩn đoán sức khoẻ. Họ tự hỏi liệu có phải cái chết chắc chắn là không thể tránh khỏi hay không, hay thật ra họ vẫn có thể chiến đấu chống lại nó.

    Sau đó, họ suy ngẫm xem làm cách nào để tận dụng tối đa thời gian còn lại trên đời.

    Đa số mọi người đều thuộc vào một trong hai nhóm: Hoặc là họ quyết định dành toàn bộ năng lượng và sự tập trung của mình để làm tất cả những gì có thể để chiến thắng bệnh tật, hoặc là họ chọn suy nghĩ về cuộc đời mình và dành nhiều thời gian nhất có thể ở bên cạnh những người thân yêu và làm những điều đem đến hạnh phúc cho người thân.

    Quá trình tương tự cũng có khả năng diễn ra trong kịch bản ngày qua đời giả định.

    "Ngay cả khi bạn biết mình sống thêm 60 năm nữa, thì cuối cùng tuổi thọ của bạn sẽ được tính bằng một vài năm, vài tháng hay vài ngày," Feudtner nói.

    "Một khi chiếc đồng hồ đếm ngược đó ngày càng cạn đến mức còn quá ít thời gian, tôi nghĩ chúng ta sẽ chứng kiến mọi người đi ở một trong hai hướng khác nhau này."

    Những người chọn cách cố gắng chế ngự cái chết có thể trở nên quá nhạy cảm với việc phải né tránh nó, nhất là khi họ bị cạn kiệt thời gian.

    Chẳng hạn như một ai đó nếu biết được rằng định mệnh khiến họ sẽ chết đuối thì họ sẽ tập bơi không ngừng để có thể đấu tranh sinh tồn, trong khi một người biết được rằng họ sẽ chết vì tai nạn giao thông sẽ chọn tránh đi xe bằng bất cứ giá nào.

     

    Động lực để nỗ lực hơn

    Tuy nhiên, những người khác có thể đi theo con đường ngược lại - tìm cách đánh lừa cái chết được báo trước của mình bằng cách tự kết liễu đời mình theo cách của họ. Điều này có thể cho phép họ giành quyền kiểm soát với quá trình này.

     

    NGUỒN HÌNH ẢNH,NAPPY.CO

    Jonas và các đồng sự của bà nhận thấy rằng khi họ yêu cầu mọi người hình dung rằng họ sẽ chịu một cái chết đau đớn và từ từ do bệnh tật thì những ai được tự chọn cho mình cách chết sẽ có cảm giác tự chủ nhiều hơn, và họ thể hiện ít thiên kiến liên quan đến nỗi sợ chết.

    Những ai đi theo con đường chấp nhận án tử cho mình tương tự cũng phản ứng bằng nhiều cách khác nhau.

    Một số người sẽ lấy hết sức lực để tận dụng tốt nhất thời gian họ có và đạt đến đỉnh cao hơn nữa về thành tựu sáng tạo, khoa học, xã hội hay kinh doanh mà bình thường họ không thể đạt được.

    "Điều tôi muốn nghĩ là biết được ngày giờ mình sẽ qua đời sẽ khiến chúng ta phát huy phần tốt đẹp nhất của bản thân mình, nó sẽ tạo cho chúng ta chiều sâu tâm lý để có khả năng làm được nhiều hơn cho bản thân, cho gia đình và cho cộng đồng," Solomon nói.

    Thật ra, có bằng chứng từ những người sống sót sau sang chấn cho thấy việc biết được chúng ta chỉ còn lại chút ít thời gian ngắn ngủi có thể kích thích việc nỗ lực hoàn thiện bản thân.

    Mặc dù khó mà thu thập dữ liệu nền tảng đối với những người này, nhiều người khẳng định rằng họ đã thay đổi sâu sắc một cách tích cực.

    "Họ nói họ trở nên mạnh mẽ hơn, sống đời sống tâm linh nhiều hơn, nhận ra được thêm nhiều khả năng tích cực và trân trọng cuộc sống nhiều hơn," Blackie nói.

    "Họ đã nhận thức được rằng: 'Ồ, cuộc sống quá ngắn ngủi, một ngày nào đó tôi sẽ chết, tôi nên tận dụng tối đa cuộc sống."

     

    Có cố cũng vô nghĩa

    Tuy nhiên, không phải ai cũng trở nên con người tốt nhất có thể.

    Thay vào đó, nhiều người quyết định lánh xa cuộc sống và thôi làm những việc có ý nghĩa cho xã hội. Không hẳn bởi vì họ lười biếng, mà là vì họ bị xâm chiếm bởi cảm giác vô nghĩa. Như Caitlin Doughty, một người nghiên cứu về cái chết, đã diễn giải: "Liệu anh có viết bài báo đó nếu như anh biết rằng anh sẽ chết vào tháng Sáu tới?" (Có lẽ là không.)

    Cảm giác vô nghĩa cũng sẽ khiến nhiều người từ bỏ lối sống lành mạnh.

     

    NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

    Nếu cái chết đã được định trước vào một lúc nào đó bất kể chuyện gì xảy ra đi nữa thì "tôi sẽ không mất công ăn thực phẩm sạch nữa, tôi sẽ uống nước ngọt thông thường thay vì loại thức uống kiêng, và có lẽ tôi sẽ thử dùng chất kích thích và tọng bánh ngọt vào mồm suốt ngày," Doughty nói.

    "Phần lớn văn hóa của chúng ta hình thành xung quanh việc đẩy lùi cái chết và duy trì trật tự và pháp luật để tử thần không thể bén mảng tới."

    Nhiều khả năng nhất là đa số mọi người sẽ chuyển đổi qua lại giữa hai trạng thái là cực kỳ có động lực và yếm thế: dành một tuần để 'ngồi nhà để ăn lấy ăn để bánh xốp và xem một tập phim Law and Order nữa trên Netflix' và tuần kế tiếp 'đi làm việc tình nguyện ở nhà bếp tế bần', Solomon giải thích.

    Tuy nhiên cho dù chúng ta nằm ở đâu giữa hai trạng thái đó đi nữa, ngay cả những người có đầu óc sáng suốt nhất - nhất là khi chúng ta đến gần ngày chết đã định - cũng đôi khi trở thành một 'kẻ suy sụp run lẩy bẩy'.

     

    Thay đổi chuẩn mực xã hội

    "Thay đổi gây ra căng thẳng," Feudtner đồng tình. "Ở đây chúng ta nói về thay đổi lớn nhất xảy đến với một con người - từ đang tồn tại trở thành không còn sống nữa."

    Nhiều người sẽ đi tìm cách chữa trị ở các bệnh viện vốn sẽ hình thành những phân ngành chuyên về cái chết.

    Những nghi thức và tập tục xã hội mới có thể sẽ xuất hiện và có lẽ ngày chết sẽ được ăn mừng như ngày sinh nhưng thay vì đếm lên mọi người sẽ đếm ngược.

     

    Gần như chắc chắn các quan hệ tình cảm hôn nhân sẽ bị tác động. Tìm kiếm một người bạn đời có ngày chết gần với ngày chết của mình sẽ là một yêu cầu bắt buộc đối với nhiều người, và các ứng dụng hẹn hò có tính năng lọc những người trong cùng nhóm sẽ giúp công việc đó trở nên dễ dàng hơn.

    "Một trong những điều mà thường khiến mọi người sợ hãi cái chết nhiều nhất - nhiều khi còn sợ hơn là cái chết của chính mình - là sự ra đi của những người thân yêu," Doughty nói. "Làm sao mà tôi có thể sống với một ai đó sẽ chết ở tuổi 40 trong khi tôi sống đến 89 tuổi mới lìa trần?"

    Tương tự, nếu chúng ta có thể xác định được ngày mất từ một mẫu sinh học thì nhiều người làm cha mẹ có thể quyết định phá bào thai được xác định sau này sẽ chết sớm để khỏi bị đau đớn khi mất con về sau.

    Một số người khác nếu biết được rằng bản thân họ sẽ không qua khỏi một độ tuổi nào đó có thể sẽ quyết định không có con hoặc là làm ngược lại là sinh nhiều con trong thời gian nhanh nhất có thể.

    Chúng ta cũng sẽ phải đối phó với những luật lệ và chuẩn mực mới.

    Theo Rose Eveleth, nhà sản xuất chương trình phát thanh qua mạng Flash Forward (trong đó có một tập tìm hiểu về kịch bản ngày chết giả định) thì có những đạo luật sẽ được soạn thảo xung quanh quyền riêng tư về ngày mất để tránh bị chủ sử dụng lao động và người cung cấp dịch vụ phân biệt đối xử.

    Ngược lại, các nhân vật của công chúng có thể bị buộc phải công bố ngày chết trước khi ra tranh cử. "Nếu một ứng viên tổng thống sẽ qua đời chỉ ba ngày sau khi nhậm chức thì đó sẽ là vấn đề lớn," Eveleth chỉ ra.

    Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

    -----------------------------------------------
     
     
     
     
     

     


     
     
     

SỐNG TỈNH THƯC - CÓ 3 LOẠI NGƯỜI

 

  •  
    'nam Giang' via PSXH>

    Trí tuệ cổ nhân: 3 loại người nên kết thân; 3 loại người nên tuyệt giao

     
     

    Nhân sinh tại thế, không phải ai cũng thích hợp để kết giao bạn bè thân thiết, do vậy chúng ta cần biết chọn bạn mà chơi, bởi vì đó chính là chúng ta đang lựa chọn vận mệnh cho chính mình… 

    Chơi với người thế nào, bạn sẽ là người như vậy. Bạn bè giống như những người thân mà chúng ta có thể lựa chọn, trải qua thời gian lâu dài, bạn bè sẽ có ảnh hưởng lẫn nhau, ngay cả dáng vẻ của bạn cũng giống như dáng vẻ của mình.

    Đối với việc kết giao bạn bè, cổ nhân cũng để lại lời khuyên về ba loại người nên kết giao thân thiết và cũng có ba loại người nên tránh xa. 

    Ba loại người nên kết giao thân thiết 

    1. Nên kết thân với người có trái tim nhân hậu 

    Quỷ Cốc Tử từng nói: “Ngôn trung hành di, bỉnh chí vô tư, thi bất cầu phản, tình trung nhi sát, mạo chuyết nhi an giả khả dĩ thâm giao”. Tạm dịch: “Lời nói và việc làm đi đôi với nhau, không vụ lợi, giúp người không cầu báo đáp, biết đứng trong sự tình để suy xét vấn đề, tướng mạo dù kém một chút nhưng vẫn khiến người cảm thấy an tâm. Loại người này nên kết giao thân thiết”. 

    Nếu ngôn hành của một người trước sau như một, ổn định trong hành vi, có ý chí kiên định mà đạt được chí công vô tư, làm việc giúp người mà không cầu báo đáp, nội tâm trung hậu mà tự biết xét mình, tướng mạo dù không đẹp nhưng tính khí trầm lặng mà ổn định. Đây là điểm nổi bật của người có trái tim nhân hậu. Loại người này nên kết giao thân thiết. 

    Trên đời này không ai thích một người có bụng dạ hẹp hòi. Do vậy, mở rộng tấm lòng, làm người có trái tim nhân hậu sẽ khiến người khác cảm thấy được an ủi. Người nhân hậu sẽ đắc phúc báo. Người càng so đo thì phúc báo càng giảm. 

    2. Nên kết thân với người biết đối xử có lễ tiết

    Quỷ Cốc Tử từng nói: “Phú quý cung kiệm nhi năng uy nghiêm, hữu lễ nhi bất kiêu, viết hữu đức giả, khả thâm giao”. Tạm dịch: “Phú quý mà biết lẽ cung kính, tiết kiệm mà vẫn có uy nghiêm, có lễ tiết mà không kiêu ngạo, đây gọi là người có đức hạnh. Người như vậy nên kết giao thân thiết”. 

    Nếu một người mặc dù vô cùng giàu có nhưng vẫn giữ được thái độ cung kính, cần kiệm mà không đánh mất uy nghiêm, đối xử với người có lễ tiết mà không kiêu căng ngang ngược. Người này quả thực có phúc đức, là đối tượng nên chọn để kết giao thân thiết. 

    Thật lòng dùng lễ tiết đối xử với mọi người, đánh giá cao người khác, nhìn ra ưu điểm của người khác và thấy rõ thiếu sót của bản thân, người như vậy sẽ được mọi người tôn trọng. Mượn trí tuệ của người khác để hoàn thiện bản thân, tránh đi đường vòng, đây mới thực sự là con đường đi đến thành công. 

    3. Nên kết thân với người biết cầu tiến bộ 

    Quỷ Cốc Tử nói: “Sự biến nhi năng trị hiệu, cùng nhi năng đạt, thố thân lập công nhi năng toại giả khả dĩ thâm giao”. Tạm dịch: “Gặp phải biến cố mà vẫn có thể thi triển tài năng, gặp lúc cùng đường mà vẫn có thể vượt lên, dùng chí lập thân khiến người yêu mến. Người như vậy nên kết giao thân thiết”.

    Nếu đột nhiên gặp phải biến cố mà vẫn có thể xử lý ổn thỏa, thân ở nơi khốn cùng mà ý chí vẫn không ngừng vươn lên, có thể mau chóng đạt được ước nguyện, đây là một người có trí tuệ. Loại người này có thể kết giao thân thiết. 

    3 loại người nên tránh xa

    1. Nên tuyệt giao với người mà ngôn hành bất nhất

    Quỷ Cốc Tử nói: “Ngôn hành bất loại, chung thủy tương bội, ngoại nội bất hợp, nhi lập giả tiết dĩ cảm thị thính giả, tất tu tuyệt giao”. Tạm dịch: “Nói một đằng làm một nẻo, trước sau mâu thuẫn, trong ngoài không khớp, dùng giả dối để đối đãi với mọi người. Loại người này nên tuyệt giao”. 

    Nếu lời nói và việc làm của một người không nhất quán, đầu và cuối trái ngược nhau, nội tâm và tướng mạo bề ngoài không khớp nhau, dùng lễ tiết giả tạo để mê hoặc lòng người thì nên tuyệt giao với loại người này.  

    Tử Cống từng hỏi Khổng Tử thế nào là người quân tử. Khổng Tử có trả lời rằng: “Có thể làm tốt những gì muốn nói, sau đó mới nói lời ra khỏi miệng”. 

    Mặc dù câu nói này của Khổng Tử rất đơn giản nhưng đã đủ để nói lên điểm trọng yếu của một người quân tử. Bản thân câu này cũng chỉ ra việc giữa lời nói và việc làm phải hợp nhất, nghĩa là lời nói phải đi đôi với việc làm. 

    Nếu như không chiểu theo nguyên lý làm được hãy nói thì lời nói ra khỏi miệng chỉ là nói phét. Nếu không tự thân đi chứng nghiệm trước, thì lời nói ra không thể thuyết phục người khác. Giống như Khổng Tử nói: “Hoa ngôn xảo ngữ, loại người này đại đa số đều vì lợi ích bản thân mà làm việc”. 

    2. Nên tuyệt giao với những kẻ chỉ vì lợi

    Quỷ Cốc Tử nói: “Nhược ẩm thực dĩ thân, hóa lộ dĩ giao, tổn lợi dĩ hợp, đắc kỳ quyền dự nhi ẩn vu vật giả, tất tu tuyệt giao”. Tạm dịch: “Ví như cái ăn thức uống cũng dựa dẫm vào người thân, ngoại giao dùng hối lộ, sợ mất lợi ích mà chọn hợp tác, ỉ vào quyền thế mà làm việc ngấm ngầm hại người. Loại người này cần phải tuyệt giao”. 

    Nếu một người chỉ vì vui chơi giải trí mà kết giao với người khác, dùng của đút lót để tạo mối quan hệ, kéo bè kết phái hãm hại người khác. Một khi đạt được lợi ích, loại người này sẽ không quan tâm đến tình người, đây đúng là loại người tham lam hèn hạ. 

    Trên thế giới này luôn có những người hám lợi. Khi đạt được lợi ích rồi thì liền không quan tâm và nhớ đến trả ơn người đã giúp đỡ mình. Bởi vì đối với họ mà nói, ân nhân cũng chỉ là một quân cờ, một công cụ giúp việc mà thôi. 

    Loại người này chúng ta tuyệt đối không thể kết giao, bởi vì để tránh một ngày nào đó họ bán đứng chúng ta. 

    3. Tuyệt giao với người hám món lợi nhỏ 

    Quỷ Cốc Tử nói: “Tiểu tri nhi bất đại giải, tiểu năng nhi bất đại thành, quy tiểu vật nhi bất tri đại luân giả tất tu tuyệt giao”. Tạm dịch: “Trí nhỏ thì không thể hiểu việc lớn, làm được việc nhỏ mà không thể làm việc lớn, coi trọng lợi ích nhỏ mà quên đi đạo đức nhân luân. Loại người này nhất định phải tuyệt giao”. 

    Người có chút thông minh mà không hiểu biết rộng, có năng lực nhỏ nhưng không làm nên việc lớn, coi trọng lợi ích nhỏ mà xem thường đạo đức nhân luân. Loại người này phải tuyệt giao. 

    Một số người chỉ sẵn sàng đi xin chứ không muốn trả giá, đặc biệt tham món lợi nhỏ, yêu thích mượn gió bẻ măng, thấy có lợi ích liền đến, tính toán chi li, không nhịn được những thiệt thòi trước mắt. 

    Loại người này sẽ không làm việc một cách trung thành và toàn tâm toàn ý. Họ bưng bát cơm đầy nhưng vẫn cố nhìn nồi cơm, luôn lo nghĩ làm sao để lấy được báo đáp. 

    Những người này, cho bao nhiêu cũng không đủ và không bao giờ nghĩ đến đền ơn đáp nghĩa người khác. 

     

    San San biên dịch

     

     

    --

 

SỐNG TỈNH THỨC - CHA MINH ANH

  •  

    “CHÚA MUỐN GÌ ĐÂY?”

     

    “Cảnh sắc đất trời, các người biết nhận xét; còn thời đại này, sao lại không biết nhận xét?”.

     

    Một đêm thu huyền hoặc, chuông các nhà thờ Ba Lan vang vọng khắp mọi nẻo đường. Đàn ông, phụ nữ đổ xuống các ngả đường như nước. Muôn lời ca, bao lời kinh, cùng với nến, hoa, cờ và cả nước mắt; những cái ôm và cả rượu Champagne… Điều gì đang xảy ra? Một người con của Ba Lan được chọn làm Giáo hoàng! Điều không thể đã trở thành có thể! Tại thị trấn Wadowice, cha Edward Zacher tê liệt vì xúc động, ngài không thể nói một lời với các tín hữu đang chen chúc trong nhà thờ để tạ ơn vì vui mừng. Tối hôm đó, ngài từ từ mở cuốn sổ Rửa Tội của giáo xứ, lật từng trang ố vàng và dừng lại ở tháng 5 năm 1920. Kìa, Carolus Joseph Wojtyła! Chính cha Zacher đã dạy giáo lý khi Wojtyła còn là một cậu bé. Sổ Rửa Tội ghi rõ bằng tiếng Latin, Carolus Joseph Wojtyła với ngày Rửa tội, Rước lễ lần đầu, Thêm sức, thụ phong Linh mục và Giám mục, Hồng y. Bên lề cuối trang, tay vị linh mục già run run… khi viết thêm, “Ngày 16 tháng 10, 1978, được chọn làm Giáo hoàng; tên gọi là Gioan Phaolô II”. Môi ngài lẩm bẩm, “Chúa muốn gì đây?”.

     

    Kính thưa Anh Chị em,

     

    “Chúa muốn gì đây?”, câu hỏi của cha Zacher được trả lời khi thánh Gioan Phaolô II, Giáo Hội kính nhớ hôm nay, là dấu chỉ cho thế giới vào buổi giao mùa của hai thế kỷ, 20 và 21. Gioan Phaolô vừa là dấu chỉ vừa là người góp phần cáo chung của chủ nghĩa Cọng Sản vốn đã sụp đổ hàng loạt năm 1989 ở Đông Âu, bắt đầu từ Ba Lan đến Liên Xô và cả 14 quốc gia độc lập tách khỏi Nga. Thật trùng hợp! Tin Mừng hôm nay cũng nói đến dấu chỉ, Chúa Giêsu trách người đương thời không nhận ra dấu chỉ, rằng, có ‘một ai đó’ vĩ đại hơn Salomon và Giôna đang ở giữa họ! “Cảnh sắc đất trời, các người biết nhận xét; còn thời đại này, sao lại không biết nhận xét?”.

     

    Với những người theo Chúa, việc đọc ra dấu chỉ, nhận biết thời điềm thật quan trọng! Nghĩa là, làm sao chúng ta có thể nhìn thấy và giải thích đúng đắn những gì đang xảy ra trong nền văn hoá, xã hội và thế giới của mình; và quan trọng hơn, nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa đang đối nghịch với sự ẩn hiện của Satan trong đó; để rồi, đặt câu hỏi, “Chúa muốn gì đây?”. Bởi lẽ, xã hội ngày nay đang mang đến cho chúng ta vô vàn ‘lựa chọn đạo đức’ khi chúng ta bị lôi kéo ở chỗ này, chỗ kia; tâm trí chúng ta đang bị thử thách cách này, cách khác. Trong thư Rôma hôm nay, thánh Phaolô thú nhận, “Sự lành tôi muốn thì tôi không làm, sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm!”.

     

    Một trong những thủ đoạn của Satan là gieo rắc dối trá; nó tìm cách gây xáo trộn theo vô số cách. Lời dối trá của nó có thể đến qua các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh đạo chính trị và đôi khi, qua cả một số lãnh đạo tôn giáo. Satan yêu thích điều đó khi có sự chia rẽ, phân hoá và rối loạn. Vì thế, đọc cho được dấu chỉ chính là nhìn thấy những sai lầm văn hoá và đạo đức đang đối nghịch với Tin Mừng, nghịch với giáo huấn Hội Thánh, để tự hỏi, “Chúa muốn gì đây?”.

     

    Anh Chị em,

     

    “Chúa muốn gì đây?”. Trước một bối cảnh xã hội và thế giới rối ren như thế, người Kitô hữu phải làm sao để có thể đọc ra dấu chỉ và nhận biết thời điềm; dịch bệnh, chiến tranh, tham nhũng, nghèo đói… Câu trả lời là, chúng ta phải nhận ra một ai đó; nghĩa là, trên tất cả mọi sự, chúng ta phải tìm kiếm Chúa Giêsu ngang qua thinh lặng, cầu nguyện và van nài sự soi rọi của Chúa Thánh Thần; Thánh Vịnh đáp ca hôm nay thật ý nghĩa, “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con!”; đồng thời, quan trọng hơn, cho phép sự hiện diện của Chúa Giêsu tràn đầy trong cuộc sống mình. Chính Ngài sẽ giúp chúng ta biện phân điều gì đến từ Thiên Chúa, điều gì không đến từ Ngài!

     

    Chúng ta có thể cầu nguyện,

     

    “Lạy Chúa, xin cho con luôn biết tự hỏi, “Chúa muốn gì đây?”; và điều Chúa muốn con trước hết ngay hôm nay, là không hùa theo thói đời nhưng là nên thánh”, Amen.

     

    (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

    Kính chuyển:

    Hồng

     

     

SỐNG TỈNH THỨC - DẤU CHỈ THỜI ĐẠI

 

  •  
    BBT CGVN
    Sun, Oct 24 at 10:37 PM
     
     
     
     

    Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới

    Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity  

    (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)

    www.conggiaovietnam.net       This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

       

    Chuyên mục

    TÔI TIN, CHÚNG TÔI TIN:

    MỘT DẤU CHỈ THỜI ĐẠI

    Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa –

    Ban Mê Thuột.

     

     

     

    Kính mời theo dõi video tại đây:

    https://bit.ly/3B43xmu

     

    Cách đây trên dưới 30 năm khi mà ngành khí tượng của nước nhà chúng ta xem ra còn non kém, vì thế các bản thông tin dự báo thời tiết thỉnh thoảng bị sai lệch nhiều, nhất là trong nhũng lúc mưa bão. Nhóm thanh niên nhâm nhi ly cà phê sáng dí dỏm: “Hôm nay trời không nắng thì mưa. Có lúc không mưa cũng không nắng”.

     

    Rất nhiều phương diện của cuộc sống con người hiện đại như kinh tế, văn hóa, thể thao, du lịch, y tế, quốc phòng… để tồn tại và phát triển thì các tập thể lớn bé như công ty, xí nghiệp, quốc gia phải có tầm nhìn xa, trông rộng. Vì thế ngành dự báo trở thành một nghề chuyên môn. Hiện tượng luận, một trong những môn học của phân khoa triết được áp dụng vào thực tiễn khá rõ nét. Trong đời sống tinh thần cũng tương tự như vậy, cần phải có những dự báo về xu thế phát triển của con người và xã hội để đáp ứng và thích ứng cho phù hợp hầu khỏi rơi vào tình trạng lỗi thời, tụt hậu, mất quân bình.

     

    Khi đi rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu đã từng khiển trách dân chúng, cách riêng những người lãnh đạo rằng họ biết xem các dấu chỉ thời tiết, trời đất để hành xử thích ứng thì sao không nhận xét các dấu chỉ thời đại để nhận ra thánh ý Thiên Chúa? (x.Lc 12,54-59). Giáo hội Công giáo luôn khẳng định rằng một trong những cách thế mà Thiên Chúa dùng để mặc khải thánh ý của Ngài đó là các biến cố lịch sử xét như là những dấu chỉ thời đại.

     

    Là Kitô hữu Công giáo, tôi tin rằng những lời giảng dạy và cung cách hành xử của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, vị Đại diện Chúa Kitô là một trong những dấu chỉ thời đại mà Thiên Chúa dùng để chỉnh sửa đường lối và hình thức sống đức tin của dân Chúa. Vào lúc 9 giờ sáng Chúa Nhật 17/10/2021, Đức Thánh Cha đã chủ sự Thánh lễ tại đền thờ thánh Phêrô để tấn phong giám mục cho Đức ông Guido Marini và Đức ông Andrés Gabriel Ferrada Moreira. Qua những lời nhắn nhủ của vị cha chung toàn Giáo Hội dành cho hai tân giám mục, tôi nhận ra một vài dấu chỉ Thiên Chúa gửi đến cho Giáo hội, mọi phẩm trật và chức bậc như sau:

     

     

     

    Mở đầu bài giảng Đức Phanxicô đã khẳng định rằng trách nhiệm cao trọng của các giám mục là tiếp tục sứ vụ cứu độ của Chúa Kitô. Ngài nói: “trong sứ vụ của giám mục, chính Chúa Kitô tiếp tục rao giảng Tin Mừng cứu độ và thánh hóa các tín hữu”. Lời dạy của Đức Thánh Cha nhắc nhớ chúng ta rằng từ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, Chúa Kitô đã thông chia cho chúng ta sứ vụ cứu độ nhân trần qua ba chức năng là ngôn sứ, tư tế và vương giả. Mỗi Kitô hữu phải thực thi sứ vụ này theo bậc sống và hoàn cảnh của mình.

     

    Để cụ thể hóa sứ vụ này cách riêng cho hàng giám mục Ngài tiếp lời: “Chức Giám mục” thực ra là tên của một công việc; sẽ không là giám mục thực sự nếu không có phục vụ;không phải là một danh dự, như các môn đệ đã muốn: người ngồi bên phải, người ngồi bên trái”. Chúng ta vốn quen hai từ phục vụ nhưng cần hiểu cho đúng và đầy đủ nghĩa của từ này. Phục vụ là làm công việc của người đầy tớ, người nô lệ. Người phục vụ luôn ghi khắc trong tâm trí rằng việc hầu hạ của mình chính là lẽ sống và cũng chính là sự sống của mình. Làm khuất tất thì nhiều khi sẽ vong mạng. Quả thật, nhiều khi chúng ta quá chú trọng đến chức tước mà quên đi sứ vụ. Chức tước thì rất dễ cám dỗ chúng ta “thích ngẩng đầu”. Nhưng đã là phục vụ thì phải cúi đầu xuống mà thôi.

     

     

     

    Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắn nhủ hai tân giám mục và các giám mục hãy chuyên cần học hỏi để có thể chu toàn sứ vụ rao giảng Lời Chúa. Một thực tế khiến chúng ta phải giật mình. Có đó nhiều lời than phiền rằng không ít vị khi lãnh nhận thiên chức linh mục thì lầm tưởng mình đã là “thầy cả” nên “làm thầy tất cả” vì cái gì cũng biết cả! Trong Giáo hội vốn quen gọi các giám mục là “thầy dạy chân lý” nên cũng dễ bị cám dỗ cho mình luôn luôn đúng. Một vị linh mục cao niên không biết vì quá đạo đức hay vì lý do nào đó đã nói trước mặt giám mục và linh mục đoàn rằng: “Đức cha là thầy dạy chân lý nên Đức cha không thể sai lầm”. Điều đáng kinh ngạc là lúc ấy không nghe thấy giám mục đính chính. Nhân vô thập toàn. Không một ai trên trần gian này là không thể sai lầm. Chân lý luôn còn ở phía trước. Chính vì thế việc chuyên cần học hỏi là một động thái khiêm nhu. Khiêm nhu để nhìn nhận dù mình là ai, chức vụ nào vẫn còn đó nhiều hạn chế và thiếu sót để biết lắng nghe và đón nhận.

     

    Đoạn kết bài giảng Đức Phanxicô nhắn nhủ các giám mục phải biết gần gũi. Gần gũi với Thiên Chúa bằng sự cầu nguyện, với các giám mục trong tình huynh đệ, với các linh mục trong tình hiệp thông, với đoàn chiên trong tình mục tử chính mình cũng là một con chiên được chọn lên. Thiển nghĩ rằng để gần gũi với ai đó thì hẳn nhiên bản thân cần phải ra đi. Để gần gũi với Thiên Chúa qua các giờ cầu nguyện sâu lắng thì phải biết sắp xếp thời giờ, để ra khỏi cả những công việc được xem như là quan trọng. Để có thể gần gũi với các giám mục anh em, các linh mục và chiên trong đàn lẫn ngoài đàn thì không thể cứ mãi ngồi một chỗ để chờ người ta tới gặp hoặc nhắc điện thoại gọi người thuộc quyền đến hầu.

     

    Những gì Đức Thánh Cha nhắc bảo các giám mục trong Thánh Lễ tấn phong giám mục vừa qua, nhất là cung cách hành xử của ngài ngay từ khi lên ngai Giáo Hoàng đúng là một dấu chỉ thời đại. Hình ảnh từng đoàn lũ dân chúng lầm than khốn khổ đã và đang đập vào mắt chúng ta. Họ khốn khổ lầm than không chỉ vì dịch bệnh mà hơn nữa vì những người trong phận “đầy tớ” thực ra không làm công việc phục vụ mà nhiều khi chỉ làm việc cai trị. Họ cai trị mà lầm tưởng là phục vụ, vì họ không thực sự cúi xuống. Cung cách người đứng bên trên, kiểu kẻ cả, người có quyền đang nhan nhản trước mắt chúng ta, cụ thể qua các quyết định, các quyết sách …  kiểu chủ quan, duy ý chí.

     

     

     

    Một dấu chỉ thời đại: “Giáo Hoàng Phanxicô”. Phải chăng đây là thánh ý Chúa muốn chúng ta phải đổi mới? Thiển nghĩ rằng đúng thế. Nhiều sự ngoài xã hội dường như đang đổi thay cách nhanh chóng rõ nét. Cung cách sống đức tin cũng phải canh tân mỗi ngày. Canh tân, đổi mới phải khởi đi từ trên xuống dưới. Bản thân tin rằng Đức Giáo Hoàng đã đi bước trước. Các giám mục nếu tiếp bước Ngài trong việc đổi thay cung cách sống và sự “phục vụ” thì chắc chắn hàng linh mục sẽ đổi thay. Điều tất yếu kéo theo đó là đoàn dân Chúa sẽ hân hoan đổi mới từng ngày. Đây chính là chứng từ loan báo Tin Mừng cách khả tín và hữu hiệu.

     

     

    Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

    Hẹn gặp lại 

     

     


     


 

SỐNG TỈNH THỨC -

  •  
    Chi Tran

     

    8 MÃNH LỰC TẤN CÔNG LÀM TÂM HỒN ĐIÊU ĐỨNG

     

    Trước hết là 3 mãnh lực mạnh nhất và khó kỷ luật nhất, là: tham ăn, háo sắc dục, ham muốn chiếm hữu. 

     

    Nếu như sự thiện hoạt động trong tâm hồn ta, thì cũng thế, cái ác hoạt động không hề thua kém. Việc chống lại các cơn cám dỗ, hoặc chống lại những điều xấu xa, ngay cả bằng cách cầu nguyện lâu dài, sẽ chẳng có ích lợi gì, nếu trong tâm hồn ta không có Chúa hiện diện.

    Thực sự, qua sự trải nghiệm của bản thân, hoặc qua lời dạy của các bậc thầy, bạn đều nhận thấy rõ: các cơn cám dỗ xảy đến bắt đầu từ trong suy nghĩ. Chúng bắt đầu từ những hình ảnh, mà thoạt tiên không có chi là xấu, không có gì là ác ý, hoặc đó là kết quả của những thứ tự phát một cách tự nhiên và không hoàn toàn là tốt. Chúng cũng có thể là sự tái xuất hiện từ những kỷ niệm, trải nghiệm trong quá khứ đang in sâu trong ký ức. Tất cả những điều ấy có thể tạo nên một sức mạnh đặc biệt và cụ thể, và có thể tạo thành xung lực, bạo lực trong hành vi, đặc biệt khi xảy đến các hoàn cảnh mà chúng ta cảm thấy bất lợi, mệt mỏi về thể chất cũng như tinh thần, hoặc khi ta thất bại, nản lòng, hoặc buồn chán khi phải đợi chờ…

     

    Từ chỗ nhận biết những tư tưởng chán nản đang gặp phải, chúng ta cần chú ý không để chỗ cho những hoàn cảnh bên ngoài có thể khơi dậy tinh thần chán nản ấy, và thậm chí chúng ta phải đối diện với một cuộc chiến trong nội tâm. Và để chiến đấu trong cuộc chiến này, đôi khi những tác động thể lý cũng rất quan trọng. Ví dụ, chúng ta đều thấy rằng, những tư tưởng suy nghĩ xấu bị dừng lại ngay lập tức, nếu chúng ta chỉ bị một cái kim nhỏ châm vào da mà thôi. Khi chỉ bị đau một tý như thế, ngay lập tức ta cũng không còn chỗ để mà suy nghĩ những thứ tiêu cực.

     

    Và nếu những suy nghĩ tiêu cực bị khơi dậy từ ký ức một cách ồ ạt và rối loạn, chúng cần được tôi luyện bằng cách tìm gặp các bậc thầy về đời sống nội tâm. Đó là các cha giải tội tốt, đó là các cha linh hướng tốt. Để các ngài có thể giúp ta chân thành, khiêm tốn, tỉnh táo, cầu nguyện. Các vị ấy là những bậc lão luyện, sẽ có thể chỉ dẫn ta cách để chiến thắng.

     

    Thế nhưng, cũng cần biết rằng, sự giúp đỡ hiệu quả nhất, thường đến từ việc có một cuộc sống cân bằng, quân bình, tránh những gì là thái quá hoặc bất cập. Tránh làm quá, ngay cả điều ấy xuất phát từ lòng quảng đại, ví dụ như việc bạn quá quan tâm làm việc từ thiện bác ái xã hội, đến nỗi không dành đủ thời gian cho bản thân, đến nỗi thiếu giờ cầu nguyện… Khi làm như thế, thực tế, ban đầu bạn sẽ cảm thấy rất vui với nhiều an ủi, nhưng rồi bạn sẽ bị choáng ngợp, bị mệt mỏi, và sẽ dễ trở thành con mồi cho các cơn cám dỗ. Để rồi, sau đó, có thể bạn sẽ bị ngã, bị rơi vào cơn cám dỗ, ngay chỗ mà bạn cứ nghĩ là mình tốt và vững vàng.

     

    Do đó, với sự khiêm tốn, tùy mức độ của bạn, bạn hãy sẵn sàng bao nhiêu có thể trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa. Và nếu bị rơi vào hoàn cảnh mà mình không thể làm gì, hoặc không biết phải làm gì, bạn hãy nhờ đến những con người khôn ngoan, những người thiêng liêng, những vị lão luyện trong việc thiêng liêng, để đồng hành và giúp đỡ bạn trên hành trình bạn đang đi.

    Tuy nhiên, để minh họa rõ hơn những gì và cách thức nào, mà cái ác tấn công tâm hồn bạn, tôi sẽ nhắc lại vắn tắt lời dạy của các giáo phụ và của các bậc chân tu trong Hội Thánh. Để chỉ ra nguồn gốc, từ đó làm rối loạn tâm hồn, và lôi kéo linh hồn đến chỗ sa ngã. Các vị ấy kể ra tám lực tác động lên con người. Mà nếu con người không được hướng dẫn, tám lực ấy sẽ mang lại nhiều tác hại.

     

    Trước hết là 3 mãnh lực mạnh nhất và khó kỷ luật nhất, là: tham ăn, háo sắc dục, ham muốn chiếm hữu. Thực ra, những lực này là cần thiết để phục vụ cuộc sống. Vì nếu không thích ăn, thì chúng ta không thể được nuôi dưỡng tốt. Ăn uống là vô cùng cần thiết cho bản thân chúng ta. Tính dục là phần quan trọng của con người và đời sống, để chúng ta tạo mối tương quan, và rồi trong số nhiều mối tương quan thân thiết ấy, ta có thể tìm thấy người vợ người chồng để gắn bó cả cuộc đời. Về sự chiếm hữu cũng thế, nó thúc đẩy chúng ta làm ăn, lo cho cuộc sống có được phương tiện cần thiết cho hiện tại và tương lai. Thế nhưng, nếu ba lực thúc đẩy này, mạnh đến nỗi áp đặt chúng ta, áp đặt ý muốn của chúng ta, thì khi đó, tự do của chúng ta sẽ bị nguy hiểm. Nhiệm vụ của chúng ta là phải cẩn thận bảo vệ quyền tự do này. Một thứ tự do không chỉ là tự nhiên của con người, mà còn là thứ tự do của con cái Thiên Chúa. Đó là sự tự do của chiến thắng tội lỗi và cái chết. Đó là thứ tự do mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta bằng tình yêu tự hiến qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.

     

    Vì thế, nhờ vào kinh nghiệm, ta nhận thấy điều cần làm, là giữ được khoảng cách thích hợp, để không bị rơi vào chỗ quyến luyến và dính bén: bị lụy vào những điều ấy. Và không để mình bị quá lệ thuộc vào các giác quan.

     

    Bây giờ chúng ta đến với các gốc rễ khác của cái ác. Đó là các bản năng của tâm trí: đố kỵ, giận dữ, lười biếng. Những điều này có liên kết mật thiết với nhau.

     

    Sự đố kỵ ghen ghét có thể bùng lên bất cứ lúc nào, khi ta thấy người khác có những điều đáng mơ ước mà ta không thể có được, hoặc khi người ấy có thứ tình cảm mà thứ tình cảm ấy không thuộc về ta. Sự thiếu vắng, thiếu thốn, chưa có ấy, sẽ tự động được cái đố kỵ của ta làm thành một sự nhầm lẫn tai hại: ta gán mác cho điều ấy là sự bất công, là vết thương. Và khi ấy, trong ta nảy sinh đủ loại lý do để tìm cách thỏa mãn dục vọng. Sức mạnh này được gọi tên là sự tức giận, và nó lớn đến độ có thể khiến cho một người vượt qua mọi ranh giới và trở ngại, bất chấp mọi thứ để đạt cho bằng được mục tiêu của mình.

     

    Thế nhưng, không phải mục tiêu lúc nào cũng đạt được, ngay cả khi đã nỗ lực hết sức, tức giận hết mình. Khi không đạt được, sẽ dẫn đến thất vọng, căng thẳng, và ngay cả có thể tạo nên bạo lực và tổn thương cho chính bản thân mình. Khi đó, khi sự tức giận đổ lên người khác không thành công, và không đạt được như mong muốn; sự tức giận quay lại với chính chủ, và có thể tạo nên sự căm ghét chính mình, không chấp nhận chính mình, tự gây tổn thương cho mình, và có thể nặng đến nỗi làm thành những tổn thương không thể được chữa lành.

     

    Cuối cùng, ta hãy xét đến sự hư danh và tự mãn. Đầu tiên là chuyện khoe khoang, tìm cách xuất hiện, tìm cách được biết đến bằng mọi giá. Kẻ chuyên đi khoe khoang, là tù nhân của cảm giác về danh sự. Còn tự mãn là người tin rằng, mình xuất sắc hơn tất cả mọi người, và đòi hỏi mọi người tôn trọng mình, còn mình thì đi xét đoán và khinh thường, khắt khe, không chút độ lượng với người khác, và tự ảo tưởng về tầm quan trọng của bản thân mình.

     

    Chuyển ngữ từ tiếng Ý: Tứ Quyết SJ(dongten.net)
    Cuốn sách: Maestro di San Bartolo, Abbi a cuore il Signore,
    Introduzione di Daniele Libanori, (San Paolo 2020).

     

    Trong tuần tĩnh tâm mùa chay (từ chiều chúa nhật 21/2/2021 đến trưa thứ sáu 26/2/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi Giáo triều Roma và các tín hữu tìm về cùng Thiên Chúa, kín múc nghị lực để đương đầu với những thách đố mới. Vì đại dịch Covid, các vị không tĩnh tâm chung như mọi năm, nhưng mỗi vị tĩnh tâm riêng tại nơi thích hợp. Đức Thánh Cha gửi tặng mỗi vị cuốn sách thiêng liêng giúp suy niệm với tựa đề “Abbi a cuore il Signore” (Hãy có Chúa trong lòng). Sách dầy 320 trang gồm các thủ bản cũ do một đan sĩ thuộc Đan viện thánh Bartolo biên soạn hồi thế kỷ 17, trên từng tờ rời, dường như để hướng dẫn các môn đệ.

     

    Mùa 1: “Hãy có Chúa ở trong lòng” – Yếu đuối, tật xấu, nỗi đau và cô đơn

    1- Hãy có Chúa ở trong lòng

    2- Chúa đến gặp bạn ngay trong tâm hồn giữa những yếu đuối

    3- Cuộc sống là người thầy đích thực của khôn ngoan

    4- Cách chiến thắng đam mê tật xấu

    5- Khi nỗi đau cần được chữa lành

    6- Những nguy hiểm ta đối diện khi cô đơn

    7- Nhận định là ơn cần xin và là khả năng cần tập luyện 

     

    Mùa 2: “Hãy có Chúa ở trong lòng” – Cuộc chiến đấu nội tâm

    1- Đời sống thiêng liêng là gì đây?

    2- Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh