9. Đào Tạo Môn Đệ

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - ƠN GỌI TRỬ NÊN MỤC TỬ

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Sat, Apr 24 at 1:15 AM
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng
     

    ƠN GỌI TRỞ NÊN MỤC TỬ

     

    Ngày nay, có cả những mục tử tốt và mục tử xấu, cả trong giáo dân lẫn giáo sĩ. Điều làm nên sự khác biệt này là ở trái tim của người mục tử. Người mục tử tốt, là người quan tâm đến những con chiên của mình. 

     

    Sau khoảng thời gian sống ở Is-ra-el, một du khách kể lại hai sự kiện đã làm cho anh ta ngạc nhiên. Đầu tiên, anh ta chứng kiến người chăn cừu hướng dẫn đàn cừu của mình qua dòng xe cộ đông đúc ở Giê-ru-sa-lem. Người chăn cừu vừa hát vừa huýt sáo để đàn cừu tụ tập và cùng di chuyển với nhau trên đường. Sự kiện thứ hai, khi đêm về, bốn người chăn cừu gom đàn cừu lại một chỗ, để đảm bảo sự an toàn cho các con cừu. Sáng hôm sau, từng người chăn cừu đứng riêng ra một chỗ và dùng tiếng gọi quen thuộc để gom các con cừu của mình lại. Các con cừu như những đứa trẻ ngoan ngoãn tách dần khỏi bầy cừu lớn, đến với người chủ chăn của mình và theo anh ta lên đồi kiếm ăn.

     

    Có lẽ, một trong những công việc quan trọng đầu tiên của người chủ chăn là dạy cho các con cừu làm quen và nhận biết tiếng gọi của chủ mình. Việc học biết tiếng gọi của chủ mình, liên quan đến sự sống còn của mỗi con cừu. Nếu không biết phân biệt tiếng của chủ và tiếng của kẻ trộm, thì cừu sẽ rơi vào tay kẻ dữ. Tất nhiên, những kẻ trộm có thể giả giọng tiếng của chủ để đánh lừa và ăn trộm cừu. Nhưng những con cừu tỉnh táo sẽ nhận ra đó là tiếng giả, và không đi theo tiếng gọi ấy.

     

    Trong sách Cựu ước, hình ảnh người mục tử được sử dụng để ẩn dụ về Thiên Chúa. Như phần mở đầu Thánh vịnh 23, vua Đa-vít nói rằng: „Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1).[1] Trong suốt chiều dài lịch sử của Is-ra-el, Thiên Chúa đã dùng những người lãnh đạo, như là người mục tử để chăm sóc và dẫn dắt dân của Ngài.[2]

     

    Trong bài Tin Mừng hôm nay,[3] Chúa Giê-su dùng hình ảnh „Mục Tử nhân lành.”[4] „Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi… và chúng sẽ nghe tiếng tôi”. Trước đó, Đức Giê-su đã nói „chiên sẽ đi theo Ngàivì chúng nhận biết tiếng của Ngài.”

     

    Từ quan sát thực tế, chúng ta có thể nhận ra, các con cừu không ngốc như nhiều người thường nghĩ. Chúng biết ai là người cho chúng ăn, bảo vệ và quan tâm đến nhu cầu của chúng. Cừu có thể phân biệt giọng nói của chủ mình với những người khác. Nhưng những con cừu non mới sinh thì sao? Làm thế nào để chúng học cách nhận ra giọng nói của người chăn cừu?

     

    Ngay từ khi sinh ra, cừu con đã có điều kiện đi theo bầy. Ở điểm này, đôi lúc các con cừu bị đánh giá thấp vì tâm lý bầy đàn của chúng, nhưng đó lại là điểm mạnh, chúng có sẵn bản năng gắn bó với nhau như một cách thế để sinh tồn. Bản năng đó cho phép bầy cừu sinh sôi nảy nở trong sự an toàn. Và ngay cả khi, những con cừu đến gia nhập vào một bầy mới, lúc đầu, chúng sẽ đi theo các con cừu khác cho đến khi chúng tự nhận ra người chủ chăn của mình.

     

    Đây là một bức tranh tuyệt vời về chân dung người môn đệ, người được mời gọi trở nên mục tử cho những người khác. Họ là những người giúp người khác học cách nhận ra tiếng nói của Mục Tử đích thực. Một cách cụ thể, họ dẫn dắt và cùng đồng hành với những người ngoại đạo, những người mới tin, đến với Mục Tử nhân lành là Đức Giê-su.

     

    Khi một người mới bước vào đạo, họ thường noi theo gương của những người đã ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, như cha xứ, trưởng nhóm nhỏ, hoặc người đã dẫn họ đến với Đức Giê-su. Sau một thời gian, nếu họ trưởng thành về mặt thiêng liêng, họ sẽ trực tiếp tìm đến Lời Hằng Sống của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su. Họ sẽ nhận ra giọng nói Chủ Chăn đích thực, và đi theo Ngài.

     

    Tuy nhiên, trong cuộc sống thường ngày, có rất nhiều tiếng gọi bao quanh và dẫn dụ làm cho chúng ta không phân biệt được đâu là tiếng nói thực sự của Thiên Chúa? Đâu là tiếng nói thực của Người Mục Tử nhân lành? Thật không dễ để trả lời. Kinh thánh nói cho chúng ta biết, Thiên Chúa là tác giả của tất cả những điều tốt lành.

     

    Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su lấy hình ảnh ẩn dụ về những người chăn chiên tốt và xấu từ sách E-dê-ki-en chương 34, nói về những người chăn chiên của Is-ra-el – hình ảnh về những người lãnh đạo tôn giáo. Có những kẻ chăn chiên xấu, họ chỉ biết lo cho chính mình! „Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt.[5] Đối lập với người chăn chiên xấu xa này, Thiên Chúa luôn luôn là người chăn chiên tốt lành.[6]

     

    Ngày nay, có cả những mục tử tốt và mục tử xấu, cả trong giáo dân lẫn giáo sĩ. Điều làm nên sự khác biệt này là ở trái tim của người mục tử. Người mục tử tốt, là người quan tâm đến những con chiên của mình. Người mục tử tốt là người phục vụ trong sự trung thành và luôn đứng về sự thật, ngay cả khi phải đối diện với chống đối và nguy hiểm. Ngược lại, những kẻ chăn chiên xấu, là những kẻ chỉ quan tâm đến lợi ích của chính mình. Kẻ chăn chiên xấu có thể rao giảng giáo lý sai lầm, hoặc chỉ quan tâm đến việc tổ chức các sự kiện bên ngoài hơn là quan tâm đến việc xây dựng con người. Thật may mắn, Đức Giê-su khẳng định: „Ta chính là Mục Tử Nhân LànhMục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

     

    Đoạn Tin Mừng này, không chỉ mời gọi chúng ta học biết lắng nghe tiếng của chủ chăn, mà còn mời gọi chúng ta hãy trở nên những mục tử tốt đối với người khác. Như các con cừu học nhận biết tiếng nói của chủ qua sự tiếp xúc gần gũi và thường xuyên, chúng ta được mời gọi dành thời gian cho Chúa và tập lắng nghe, tập phân định tiếng nói của Chúa trong môi trường sống thường ngày. Qua việc lãnh nhận bí tích Rửa tội, tất cả mọi người Ki-tô hữu đều được mời gọi trở nên gương sáng, trở thành người mục tử tốt cho người khác, theo gương Người Mục Tử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên.

     

    Mọi ơn gọi đích thực đều được sinh ra từ việc tự hiến, là hoa trái của sự hy sinh chín chắn. Chức linh mục và đời sống thánh hiến cũng đòi hỏi phải có sự chín chắn như vậy. Dù ơn gọi của chúng ta là gì, kết hôn, độc thân hay sống trinh khiết, việc cho đi chính mình sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở sự hy sinh; nếu thế, thay vì trở thành một dấu chỉ của vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu, việc cho đi chính mình sẽ có nguy cơ trở thành biểu hiện của bất hạnh, buồn bã và thất vọng.” [7]

    Giu-se Trần Văn Ngữ, SJ(dongten.net)

    …………..

    [1] Xem thêm:  St 48,15; 49,24; Tv 28,9; 80,1; Isaia 40,11.

    [2] Xem Ds 27,16-17; 2 Sa-mu-en 5,2; 7,7; 1 Sử Biên Niên 11,2; 17,6; Is 44,28.

    [3] Bài Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Phục Sinh – Vị Mục Tử Nhân Lành (Ga 10,11-18).

    [4] Trong bản văn Hy-lạp, thánh sử Gio-an dùng từ „καλός” (kalos) để nói về phẩm chất của người mục tử. Từ này muốn nói rằng người mục tử không chỉ tốt, mà còn hơn thế nữa. Bản văn tiếng Việt dịch kalos là nhân lành.

    [5] Ê-zê-ki-en 34,2-3

    [6] Xem Ê-zê-ki-en 34,11-31

    [7] Trích từ Sứ điệp của ĐTC Phan-xi-cô nhân ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi – Thánh Giu-se: ước mơ của ơn gọi. (https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-03/su-diep-dtc-phanxico-ngay-the-gioi-cau-nguyen-cho-on-goi.html )

     
     

 

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Thu, Apr 22 at 11:33 PM
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng
     

    GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG LỄ

    CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH

     

     

    1/ MỤC TỬ HÔM NAY

     

    Gió, Cát và Các Vì Sao là tên một cuốn sách rất hay của nhà văn Antoine de Saint-Exupéry, người Pháp. Một biến cố đặc biệt đã giúp ông ghi lại câu chuyện. Tác giả và người đồng đội của ông, Guillaumet phải bay qua dãy núi Andes để trao thư cho chính phủ Chilê. Một buổi sáng, người bạn của ông phải cất cánh bay trong điều kiện khí hậu tồi tệ: các cơn bão tuyết dữ dội thổi xiết. Băng phủ kín  trên cánh máy bay, tuyết dày và gió lớn đã ngăn anh ta bay trên những ngọn núi cao, và buộc phải hạ cánh xuống một hồ nước đóng băng. Guillaumet tìm một nơi trú ẩn dưới buồng lái và xếp gọn quanh mình các túi đựng thư. Ở đó anh ta co ro trú ẩn hai ngày hai đêm. Khi cơn bão lắng xuống, anh phải mất năm ngày bốn đêm nữa để tìm đường trở lại nơi có người ở; anh bò trên hai tay và đầu gối trong nhiệt độ âm hai mươi độ. Làm thế nào anh ta có thể thắng vượt được ý nghĩ đầu hàng số phận để nằm xuống và an nghỉ mãi mãi? - Anh nghĩ về vợ và các con của anh, họ cần anh như thế nào. Anh nghĩ về trách nhiệm của mình phải đưa thư đến các địa chỉ. Những ý nghĩ ấy giúp anh nỗ lực để sống sót mặc dù bàn tay và bàn chân của anh bị đông cứng đến mức sau đó phải cắt cụt. Khi Saint-Exupéry mô tả trải nghiệm khủng khiếp của đồng đội và cuộc đấu tranh siêu phàm để tồn tại, ông chỉ tóm gọn tất cả trong một câu: “Chính xác là trở thành một người đàn ông phải có trách nhiệm!”

     

    * Đây là điều mà Chúa Giêsu nói đến hôm nay: tình yêu và trách nhiệm của người Mục Tử Nhân Lành đối với đàn chiên.

    2/ BIẾT VỊ MỤC TỬ TỐT

     

    Ở London, một đám đông đã tụ tập để nghe một diễn viên nổi tiếng của Shakespeare diễn lại một số phân đoạn kịch độc đáo của Shakespeare. Đám đông rất say mê và thích thú về khả năng diễn xuất của nam diễn viên, họ liên tục dành cho anh những lời hoan nghênh nhiệt liệt. Bất ngờ một nhà giảng thuyết đáng kính trong đám khán giả muốn yêu cầu diễn viên ngâm đọc và diễn lại Thánh vịnh 23 (Thánh vịnh về Mục tử Nhân hậu), bằng cách sử dụng phong cách Shakespeare của anh. Nam diễn viên đồng ý với một điều kiện rằng vị giảng thuyết cũng phải làm như vậy khi anh ta diễn xong. Diễn viên bắt đầu, anh sử dụng rất nhiều biểu cảm và sự chuyển đổi giọng nói cũng như tất cả khả năng diễn xuất của mình; và khi anh kết thúc, đám đông vỗ tay vang dội kéo dài nhiều phút đồng hồ. Rồi sau đó, nhà giảng thuyết già bắt đầu đọc cùng Thánh vịnh ấy. Khi bắt đầu, giọng ông run lên từng đoạn như thể ông cảm nhận từng ý nghĩa sâu xa mà ông đã trải nghiệm về Lời Chúa. Khi ông đọc xong, không có ai vỗ tay cổ vũ. Tuy nhiên không ai cầm được nước mắt, tất cả đều vội lấy khăn lau nước mắt của mình. Diễn viên Shakespeare chậm rãi đứng dậy, anh ta nói: “Thưa quý vị, rõ ràng là có sự khác biệt giữa vị giảng thuyết đây và tôi. Tôi chỉ thoại diễn Thánh vịnh về người Mục Tử, còn vị giảng thuyết biết Mục Tử tốt lành qua bài Thánh vịnh.

     

    3/ BIẾT TÊN

     

    Một cha bạn của tôi thích thú kể câu chuyện về một nhân viên điều tra dân số đến nhà một gia đình nọ khá nghèo ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam để thu thập số liệu hộ khẩu. Anh hỏi một bà mẹ có bao nhiêu người con trong gia đình. Bà ấy bắt đầu: “Chà! Có Dũng, Côi, Na, Mai, Biu... và có Bôn, Xíu, Len...cả con cún của chúng tôi Lu Lu nữa!” Lập tức nhân viên điều tra cắt ngang lời bà ấy: “Không, thưa bà, điều đó không cần thiết. Tôi chỉ cần số người chứ không cần con chó của bà!” Bà ấy lặp lại: “Chà! Có Dũng, Côi, Na, Mai, Biu, Bôn, Xíu, Len, và…và...” Nhưng một lần nữa, nhân viên điều tra vội ngắt lời bà. Tỏ rõ sự khó chịu, anh ta nói: “Không, thưa bà, bà có vẻ không hiểu tôi. Ý của tôi là không cần tên của họ, chỉ cần con số là được.” Bà lão trả lời: “Nhưng tôi không biết chúng bằng con số. Tôi chỉ biết chúng bằng tên gọi!”.

     

    * Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành nói rằng Người biết tên từng con chiên của mình.

     

    4/ CHUYỆN ALEXANDER ĐẠI ĐẾ

     

    Khi đại đế Alexander băng qua sa mạc Makran trên đường xâm chiếm Ba Tư, quân đội của ông đã cạn kiệt nước uống. Những người lính sắp phải chết khát khi họ tiến quân dưới cái nắng như thiêu như đốt của vùng sa mạc. Một vị trung úy của Alexander đã đoạt chiếm được một ít nước từ một đoàn lữ hành đi ngang qua đó. Họ mang đến cho ông trong một chiếc mũ sắt. Hoàng đế hỏi: “Có đủ nước cho tôi và cả người của tôi không?” Họ trả lời: “Thưa, chỉ có ngài thôi”. Alexander sau đó nâng mũ sắt lên để cho những người lính thấy, và thay vì uống, ông lật nghiêng rồi đổ nước xuống đất. Những người lính kêu lên một cách kinh ngạc đầy ngưỡng mộ. Họ biết vị tướng của họ sẽ không cho phép họ phải chịu đựng bất cứ điều gì mà chính ông muốn thoái thác.

     

    5/ MỘT VỊ MỤC TỬ ĐÍCH THỰC

     

    Chuyện xảy ra trong một trận chiến ác liệt tại biên giới Hàn Quốc, một người lính bị thương nặng đang hấp hối xin được gặp một linh mục. Bác sĩ quân y không biết tìm đâu ra. Ngay lúc đó một người bị thương khác nằm gần đó nghe thấy lời yêu cầu lên tiếng: “Tôi là một linh mục.” Bác sĩ quân y quay sang người vừa nói và thấy tình trạng của anh này cũng tồi tệ không kém người kia. Ông ta cảnh báo: “Anh không được di chuyển, nếu không anh sẽ chết”. Nhưng vị linh mục tuyên úy bị thương đáp lại: “Linh hồn của người kia đáng giá hơn một vài giờ của cuộc đời tôi.” Sau đó, ngài bò đến chỗ người lính đang hấp hối, nghe lời thú tội của anh ta, ban ơn giải tội và cả hai cùng chết, tay trong tay.

    * Một hình ảnh vô cùng sống động về một mục tử.

     

     

    6/ ĐỨC CHA ÓSCAR ROMERO

     

    Tại thánh đường tổng giáo phận San Salvador ngày 24 tháng 3 năm 1980, một sát thủ đã giết Đức Tổng Giám mục Óscar Romero bằng một phát đạn vào tim khi ngài đang cử hành Thánh Lễ, kết thúc cuộc đời 62 năm của ngài ở trần gian. Chỉ vài phút trước đó, Đức Tổng Romero đã kết thúc bài giảng mang đầy niềm hy vọng cho người dân, trong đó ngài kêu gọi đất nước thực hiện công lý và mọi người phục vụ yêu thương nhau. Vì Đức Tổng Giám mục Romero đòi hỏi quyền lợi cho người dân nghèo khổ, những người bị loại trừ, và những người bị áp bức, nên ngài biết rằng mạng sống của mình bị đe dọa nặng nề. Tuy nhiên, ngài vẫn kiên trì lên tiếng chống lại chế độ chuyên chế và đòi tự do cho người dân El Salvador. Ngài từng nói với các nhà báo rằng ngay cả khi bị kẻ thù giết, ngài vẫn sống trong lòng người dân của mình. Đức cha Óscar Romero đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô phong hiển thánh ngày 14 tháng mười, năm 2018. Ngài cũng đang được đệ đạt để tôn phong lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài được cả giáo hội Anh giáo và Lutherô tôn kính trong lịch phụng vụ. Ngài là một trong mười vị tử đạo của thế kỷ 20 được tạc tượng đặt trên Cửa Lớn phía Tây của tu viện Westninster ở London.

     

    * Mục tử hi sinh mạng sống mình vì đoàn chiên. Theo một nhà viết tiểu sử về Đức cha Óscar Romero, một trong mười đặc điểm đời sống thiêng liêng của ngài là sống khổ chế và thực hành việc đền tội qua các bổn phận hằng ngày của đời sống mục tử.

     

     

    7/ TẢNG ĐÁ BỊ LOẠI BỎ

     

     

    Michelangelo có lẽ là nhà điêu khắc vĩ đại nhất mà thế giới từng biết đến. Ông ta có kiến ​​thức thuần thục về đá cẩm thạch, và dường như sở hữu “đôi mắt tia X” để biết trước hình ảnh từ khối đá mà ông sẽ tạo ra qua đôi tay của mình. Một ngày nọ, một nhà điêu khắc đồng nghiệp bắt đầu chạm một khối đá cẩm thạch Carrara trắng để tạo hình một bức tượng. Là một nghệ sĩ hạng ba, ông đã mau chóng làm hỏng tác phẩm của mình và cuối cùng phải bỏ dở. Tệ hơn nữa, ông ta lại khoét một rãnh sâu vào khối đá, khiến nó bị hỏng và không còn sử dụng được. Michelangelo không chịu đầu hàng, ông muốn cứu tác phẩm. Với con mắt tinh tường, nhà điêu khắc thiên tài biết rằng phiến đá đồ sộ này có thể được tái tạo. Từ đó, ông đã bắt tay chạm khắc một trong những kiệt tác của mình, đó là bức tượng khổng lồ về Đavít trẻ tuổi, sẵn sàng với chiếc dây phóng đá của mình để tấn công Gôliath. Chỉ ở mặt sau của bức tượng còn một số dấu vết để lại từ vết đục sai lầm của nhà điêu khắc đầu tiên.

     

     * Thánh vịnh 118 nói một cách tiên tri: “Viên đá mà những người thợ xây loại bỏ lại trở nên tảng đá góc tường”, Chúa Giêsu đã áp dụng lời tiên tri này cho chính Người.

     

     

    8/ MỤC TỬ CỦA TÔI

    Cái Tivi là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì,

    Tôi không còn tơ tưởng thứ gì

    Nó đặt tôi nằm dài êm ái trên võng

    Nó khiến tôi rời xa đức tin

    Nó hủy diệt tâm hồn tôi

    Nó dẫn tôi đến con đường tình dục và bạo lực vì lợi ích của nhà quảng cáo

    Dù bước đi trong bóng tối của các bổn phận Kitô hữu

    Tôi không mệt mỏi vì có Tivi luôn ở với tôi

    Hình cáp và điều khiển từ xa làm cho tôi an ủi

    Nó chuẩn bị cho tôi một bữa tiệc hình ảnh tươi mát và tưng bừng náo nhiệt

    Nó xức lên đầu tôi những khao khát cháy bỏng của thế giới tiêu thụ

    Sự thèm muốn của tôi không bao giờ vơi cạn

    Chắc chắn sự ngu dốt và lười biếng sẽ theo tôi suốt cả cuộc đời

    Và tôi sẽ ở trong căn nhà khốn khó để xem Tivi mãi mãi!

      

    Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm

     

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, Apr 16 at 1:12 AM
     
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    Gia Vị Cho Bài Giảng Lễ Chúa Nhật 3 Phục Sinh

    1. CHUYỆN BÁC SĨ PASTEUR

    Trong một chuyến tàu chạy về Paris có hai người đàn ông ngồi đối diện nhau trong một toa hành khách. Một người là nghiên cứu sinh y khoa, anh đang cảm thấy buồn chán vì hành trình dài; người kia là một ông già thì lim dim mắt đọc kinh Mân Côi. Anh sinh viên trẻ bắt đầu chế giễu ông lão vì niềm tin mê tín của ông. Đoạn anh tiếp tục kể về những điều kỳ diệu của nền y khoa hiện đại. Ông lão chỉ gật đầu, mỉm cười và tiếp tục lời cầu nguyện của mình bất chấp những lời bình phẩm thầm lặng của người khách trẻ. Khi họ đến nhà ga Paris, ông già hỏi cậu ta đi đâu. Chàng trai tự hào cho biết anh sẽ tham dự buổi thuyết trình của một nhà khoa học nổi tiếng thế giới là Louis Pasteur. Ông lão lấy trong túi ra một tấm cạc vidít (carte de visite), đưa cho người thanh niên và từ biệt. Tấm thẻ ghi: “Dr. Louis Pasteur, Viện sĩ Hàn Lâm viện Khoa học Paris!”

    * Các tông đồ không nhận ra Chúa Phục Sinh vì sợ hãi, nhưng người ta có thể không nhận ra chân lý vì tự mãn, kiêu ngạo và thành kiến.

    1. LÒNG TRUNG THÀNH QUA ĐÔI BÀN TAY

    Đại văn hào Tolstoy đã kể một câu chuyện về Sa hoàng và Hoàng hậu Nga, những người muốn tôn vinh các thành viên trong triều đình của họ bằng một bữa tiệc. Họ gửi giấy mời và yêu cầu khách đến dự tiệc mang theo giấy mời. Khi bước vào bàn tiệc, các vị khách ngạc nhiên nhận thấy rằng các tiếp viên không hề nhìn vào giấy mời của họ. Thay vào đó, họ kiểm tra bàn tay của khách. Các vị khách thắc mắc về điều này, nhưng họ cũng tò mò muốn biết xem ai sẽ được Sa hoàng và Hoàng hậu mời làm khách danh dự trong bữa tiệc. Họ ngạc nhiên khi thấy rằng chính người phụ nữ già đã làm công việc lau dọn cung điện hoàng gia trong nhiều năm được chọn hôm đó. Các tiếp viên, sau khi kiểm tra tay bà, tuyên bố: “Bà có đủ tư cách thích hợp để trở thành khách mời danh dự hôm nay. Chúng tôi có thể chứng nhận tình yêu và lòng trung thành của bà qua đôi tay chai sạn này.”

    * Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ không tin Chúa sống lại: “Hãy xem tay và chân Thầy…” để xóa bỏ nghi ngờ mê tín rằng Người là ma.

    1. BỘ SƯU TẬP VĨ CẦM

    Đó là câu chuyện về ông Luiqi Tarisio, người cách đây mấy năm được tìm thấy đã chết đơn độc trong một căn phòng mà hầu như không có bất kỳ sinh vật nào, ngoại trừ sự có mặt của 246 cây vĩ cầm hết sức quý giá. Ông ta đã thực hiện bộ sưu tập những cây đàn này suốt cuộc đời của mình. Tất cả chúng đều được cất trên gác mái. Một số cây vĩ cầm giá trị nhất thì được cất trong ngăn dưới cùng của một phòng nhỏ ọp ẹp cũ kỹ. Tuy nhiên cây đàn huyền thoại trong bộ sưu tập này có tên là Stradivarius. Khi nó ngân lên âm thanh kỳ ảo cuối cùng thì đã cách đó 147 năm rồi! Một số người lên tiếng phê phán  rằng với niềm say mê đến tôn sùng đối với đàn vĩ cầm, Tarisio đã lấy đi khỏi thế giới âm nhạc những dòng âm thanh tinh xảo nhất.

    * Có nhiều Kitô hữu hôm nay giống như ông Tarisio? Đừng chôn vùi Tin Mừng phục sinh của Chúa Kitô dưới đáy của một văn phòng cũ ọp ẹp. Hãy để mọi người nghe âm thanh tuyệt vời của Tin Mừng: “Người đã sống lại thật, Alleluia!”

    1. CHÚNG TÔI SẼ CHO BẠN SỐNG LẠI

    Vị pháp sư của một ngôi làng nhỏ theo đạo Hindu thuộc một bộ lạc ở Ấn Độ, đã được một số nhà truyền giáo thuyết phục theo đạo. Ông ta lắng nghe một lúc rồi nói với họ: “Thưa quý ông, hãy nghe tôi đây, tôi có một đề xuất thế này: ở đây tôi có một ly thuốc độc mà tôi dùng để diệt chuột. Nếu các ông uống chất độc này mà vẫn sống như Chúa Giêsu của các ông đã hứa, tôi sẽ gia nhập tôn giáo của quý ông, và không chỉ bản thân tôi, mà toàn bộ ngôi làng Hindu của tôi nữa. Nhưng nếu các ông không uống thuốc độc, thì tôi chỉ có thể kết luận rằng các ông là những người truyền đạo giả dối, bởi vì các ông không tin Chúa của các ông sẽ không để các ông bị chết.” Chuyện này làm cho những truyền giáo hết sức bất ngờ, lúng túng và bối rối. Họ trao đổi với nhau: “Chúng ta phải làm gì bây giờ?” Cuối cùng, họ đã đi đến một quyết định đối phó. Họ quay sang vị pháp sư Hindu nói: “Đây là kế hoạch của chúng tôi. Ông cứ uống thuốc độc đi, chúng tôi sẽ khiến ông sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng của Chúa Giêsu!”

    – Quả thật tin và sống mầu nhiệm Phục sinh là một thách đố lớn đối với Kitô hữu.

    1. CHUYỆN BÁN CÁ

    Để bán cá một ngư dân đã sơn một tấm bảng ghi: “Ở đây bán cá tươi”. Một đối thủ muốn “guậy phá” công việc buôn bán của anh, nói: “Ông không bán cá ươn, phải không? Vậy tại sao lại viết ‘tươi’ làm gì?” Ngư dân nghĩ vậy có lý bèn viết một tấm bảng mới với dòng chữ: “Ở đây bán cá”. Một lần nữa, đối thủ của anh ta lại đề nghị: “Rõ ràng là ông đang bán cá ở đây, chứ có phải ở đâu khác!” Gật đầu đồng ý, ngư dân quay trở lại với một tấm biển mới: “Bán cá!” Bây giờ, đối thủ xuất hiện lần thứ ba và nói: “Bất kỳ ai tinh mắt sẽ thấy rằng ông đang bán cá chứ đâu có bán thịt! Bỏ từ ‘cá’ đi!” Người ngư dân cả tin bối rối đến mức muốn làm một tấm biển khác mà quên mất rằng mình đang thật sự bán cá!

     * Nếu có điều gì đó mà người ta thực sự tin tưởng vượt khỏi sự nghi ngờ, thì chắc chắn họ phải bám chắc vào sự thật đó ngay cả khi có những lời khuyên, đề xuất và thậm chí là đe dọa muốn thay đổi niềm tin của họ. Đó là đức tin của các tông đồ khi họ đã xác tín mầu nhiệm Chúa sống lại. Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy hành trình đức tin của họ từ nghi ngờ, sợ hãi đến xác tín.

    1. SỐNG SỨ ĐIỆP PHỤC SINH

    Đó là Chúa Nhật đầu tiên của một linh mục đến nhận một giáo xứ mới. Trong thánh lễ nhận xứ, giáo dân chăm chú từng chút một để đưa ra nhận xét ban đầu về cha xứ mới của họ. Bài giảng của ngài thật xuất sắc! Mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, hào hứng, tin tưởng. Chúa nhật sau đó, giáo dân tăng lên đáng kể, có lẽ là do tin tốt đã lan ra trong giáo xứ. Tuy nhiên, trước sự ngạc nhiên của những người đã dự lễ Chúa nhật trước, vị linh mục lại giảng bài giảng giống hệt như lần trước. Họ bênh vực cho ngài nghĩ rằng sáng nay có rất nhiều người mới đến, nên cần phải nghe lại bài giảng có nhiều ý nghĩa thâm sâu. Mọi việc có vẻ vẫn tốt đẹp cho đến Chúa nhật tuần sau, Chúa nhật tiếp theo, và quả thật, cả Chúa nhật tuần sau nữa, bài giảng cũng giống hệt như vậy! Đến lúc này, một nhóm giáo dân quyết định gặp cha xứ với những lời lẽ khiêm tốn hết mức có thể, để thưa với ngài về chuyện bài giảng. Họ đã sử dụng ngôn từ ngoại giao cực kỳ tốt: “Đó là một bài giảng rất hay, thưa cha.” “Ồ, cảm ơn ông bà rất nhiều. Tôi rất vui vì cộng đoàn nhận thấy nó hữu ích.” “Nhưng thưa cha, chúng con chỉ tự hỏi tại sao cha đã giảng cùng một bài giảng trong suốt năm Chúa nhật vừa qua?” Vị linh mục trả lời: “Ồ, vâng, tôi có biết điều đó”, “Vậy thưa cha, dù không muốn làm cha khó chịu, chúng con cũng muốn có câu trả lời cho những người đã nhờ chúng con đến đây, cha có bài giảng nào khác không ạ?” Cha xứ trả lời: “Ồ, tất nhiên, tôi có rất nhiều bài giảng khác chứ!” “Vậy khi nào thì có bài giảng mới, thưa cha?” “Tôi hứa với quý ông bà rằng tôi sẽ chuyển sang bài giảng tiếp theo- ngay khi tôi thấy cộng đoàn thực hiện điều gì đó về bài giảng đầu tiên của tôi!”

    * Sứ điệp Phục sinh là để sống chứ không phải để nghe suông. Ơn phục sinh chỉ xảy ra khi chúng ta sống thực sứ điệp này trong đời sống hằng ngày.

    1. NHÀ THẦN HỌC BỐN CHÂN

    Người đàn ông gầy yếu nắm chặt lấy tay bác sĩ nói: “Tôi sợ chết lắm. Xin bác sĩ cho tôi biết, điều gì đang chờ đợi tôi sau khi tôi chết? Ở bên kia sẽ như thế nào?” Bác sĩ trả lời: “Thật sự tôi cũng không biết.” Người sắp chết lẩm bẩm: “Ông mà lại không biết!”. Không trả lời thêm, bác sĩ mở cửa bước ra ngoài hành lang. Một con chó lao tới, nhảy chồm tới chỗ ông đang đứng và biểu hiện tất cả niềm vui khi nó được gặp lại chủ. Ngay lúc đó, bác sĩ quay lại người bệnh và nói: “Ông có thấy con chó cư xử thế nào không? Nó chưa bao giờ ở trong căn phòng này trước đó và cũng không hề biết những người ở đây. Nó chỉ biết chủ của mình đang ở phía bên kia cánh cửa, và vì vậy nó vui mừng nhảy bổ vào ngay khi cánh cửa mở ra. Bây giờ hãy xem: tôi cũng không biết chính xác điều gì đang chờ đợi chúng ta sau cái chết, nhưng khá đủ để tôi biết rằng chủ nhân của tôi là Chúa Phục Sinh đang ở phía bên kia. Vì vậy, một ngày nào đó, khi cánh cửa mở ra, tôi sẽ bước vào với niềm vui sướng tột độ.”

    1. LỜI NÓI CỦA ĐÔI BÀN TAY

    Một anh thanh niên rất yêu quý cha mình, vốn là người phải đi làm thuê suốt cả đời. Khi cha anh qua đời anh rất đau buồn. Anh lặng lẽ đứng nhìn chiếc quan tài nơi đặt thi hài cha anh, và anh đặc biệt bị thu hút bởi đôi bàn tay của cha mình. Ngay cả những điều thầm kín nhất của người quá cố cũng được tỏ lộ qua đôi bàn tay này. Sau này anh nói: “Tôi sẽ không bao giờ quên đôi bàn tay gầy guộc tuyệt vời ấy. Nó cho tôi thấy tất cả câu chuyện về cuộc đời của một người miền quê bằng ngôn ngữ hùng hồn của những nếp nhăn, những đường gân, vết sẹo cũ và mới. Đôi bàn tay của cha tôi luôn mang một vài vết xước hoặc vết cắt mới như một thứ để tô điểm, đó là kết quả mới nhất của việc chỉnh sửa lại một đoạn dây điện, một cái ống nước rỉ sét, một chậu cảnh bị nứt… Trong cái chết, nó đã không gian dối dù chỉ một chi tiết nhỏ lẻ và cá biệt. Không phải chỉ để cho con trai biết mọi thứ về cha mình, nhưng qua đôi bàn tay ấy, tôi lưu giữ trong ký ức của mình bằng chứng về bổn phận ông đã dành cho tôi, những giọt mồ hôi ông đã cống hiến, lòng trung thực mà ông đã sống. Và bằng cách nhìn vào đôi bàn tay đó, người ta có thể đọc được chính tâm hồn của ông già!”

    * Không phải không có lý do khi Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn của Người: “Hãy xem tay và chân Thầy…”

    1. ĂN TRƯA VỚI CHÚA GIÊSU

    Xưa có một cậu bé luôn muốn gặp Chúa Giêsu. Một ngày nọ, cậu đi bộ về nhà từ một lớp học ngày Chúa nhật. Khi đi qua công viên, cậu để ý thấy một bà già đang ngồi trên ghế đá. Trông bà có vẻ cô đơn và đói ăn, vì vậy cậu ngồi xuống và đưa cho bà một phần thanh sô cô la mà cậu đã để dành. Bà đón nhận với một nụ cười niềm nở. Cậu đưa thêm cho bà nhiều kẹo, và bà cũng trao lại cho cậu một chai nước ngọt. Họ ngồi với nhau rất thân tình, ăn uống và cười nói với nhau rất tự nhiên. Khi cậu bé đứng dậy để đi về, cậu vươn người qua người phụ nữ và ôm bà thật chặt. Cậu mỉm cười bước về nhà. Mẹ cậu nhận thấy nụ cười tươi và niềm hạnh phúc trên gương mặt con thì hỏi: “Hôm nay con đã làm gì mà vui thế?” Cậu nói: “Con đã ăn trưa với Chúa Giêsu. Và bà ấy trao cho con một nụ cười tuyệt vời!” Còn bà cụ trở về căn hộ nhỏ ở chung với chị gái cũng cứ tủm tỉm cười một mình. Chị bà gặng hỏi tại sao bà lại hạnh phúc như thế. Bà trả lời: “Em vừa ăn trưa với Chúa Giêsu. Và người ấy trẻ hơn rất nhiều so với em mong đợi”.

    Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm

     

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - ĐỪNG SỢ !

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Sat, Apr 17 at 1:53 AM
     
     
    ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ: "CAN DẢM LẼN, ĐỪNG SỢ! CHÚA ĐÂY!"
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    Bến bờ bình an.

    17/04 – Thứ Bảy tuần 2 Phục Sinh.

    "Họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển".

     

    Lời Chúa: Ga 6, 16-21

    Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ.

    Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh.

    Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ". Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.

     

     

    SUY NIỆM 1: Chính Thầy đây

    Suy niệm:

    Vào thời Đức Giêsu, người ta chờ Thiên Chúa sai đến một vị vua.

    Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,

    Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.

    Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,

    họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.

    Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,

    làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).

    Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.

    Ngài trốn lên núi một mình.

    Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,

    để giải phóng dân Ítraen khỏi ách của người Rôma.

    Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,

    chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.

    Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy Đức Giêsu trốn đi.

    Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,

    vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Ítraen,

    và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.

    Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó

    các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).

    Nhưng theo Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).

    Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.

    Bị Thầy bắt qua lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối,

    trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,

    điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.

    Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.

    Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.

    Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.

    Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.

    Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.

    Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.

    Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.

    Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?

    Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước.

    Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.

    Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).

    Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.

    Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.

    “Thầy đây mà, đừng sợ!”, Đức Giêsu vội vã trấn an.

    Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ ngày xưa,

    vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.

    Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.

    Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.

    Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa

    để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.

     

    Cầu nguyện:

    Lạy Chúa,

    xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin

    để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,

    nơi khuôn mặt khốn khổ

    của tất cả những người bị thử thách:

    những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,

    nhưng vì thiếu Lời Chúa;

    những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,

    nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;

    những kẻ vô gia cư,

    không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

    nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;

    những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,

    không chỉ trong thân xác,

    nhưng còn trong tinh thần nữa,

    bằng cách thực thi lời hy vọng này:

    “Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em

    là làm cho chính Ta”. Amen. (Thánh Têrêxa Calcutta)

    Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

     

    SUY NIỆM 2: THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ

    (TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

    Các tông đồ một phen hoảng sợ. “Trời đã tối mà Chúa Giê-su chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh”. Không có Chúa đời sống thật dễ sợ. Vượt biển là nguy hiểm. Đi lúc trời tối còn nguy hiểm hơn. Lại còn thêm sóng gió. Thập phần nguy hiểm. Đó là tình hình tâm hồn thiếu vắng Chúa. Vắng Chúa tâm hồn chìm trong bóng đêm. Bóng đêm chỉ nói những lời đe doạ. Khiến tâm hồn lo âu xao xuyến. Vắng Chúa tâm hồn bất an. Biết bao sóng gió nổi lên. Thế lực sự dữ thét gào muốn nhấn chìm và nuốt trửng con người. Con người phải vất vả chèo chống mà không đi đến đâu. Chèo mãi mới đi “được chừng năm hoặc sáu cây số”.

    Nhưng khi có Chúa, mọi sự đi vào ổn định.”Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ”. Sức con người thật yếu ớt. Chèo mãi mới đi được chừng năm hoặc sáu cây số. Nhưng Chúa vừa xuất hiện thì thuyền đã đến bờ. Có Chúa bóng đêm bị xua tan. Sóng yên biển lặng. Và chẳng cần vất vả chèo chống thuyền đã đến nơi. Đến một cách nhanh chóng. Vượt sức loài người. Vượt trí tưởng tượng của loài người.

    Sau khi Chúa phục sinh, sự hiện diện của Chúa càng mãnh liệt hơn. Các tông đồ tràn đầy xác tín. Vì tin Chúa đang ở với các ngài. Các tín hữu cử hành phụng vụ với niềm tin sâu xa. Vì sự hiện diện của Chúa quá mãnh liệt.

    Vì thế quyền năng Chúa càng cụ thể hơn. Các tông đồ làm được những điềm thiêng dấu lạ. Thánh Phê-rô đã chữa người què từ thuở mới sinh. Và cho kẻ chết sống lại.

    Phép lạ hằng ngày. Đó là chỉ với một nhóm người ít ỏi, bé nhỏ, thất học. Nhưng “Lời Chúa vẫn lan tràn và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin”. Càng với những người yếu đuối, bé nhỏ, thấp hèn, quyền năng Chúa càng hiển hiện.

    Xin cho con luôn có Chúa. Để đời sống con được an vui. Xin cho con biết mình bé nhỏ yếu đuối. Để quyền năng Chúa hiển hiện. Đem lại nhiều hoa trái cho Giáo hội.