1. Hôn Nhân & Gia Đình

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - TGP SAIGON

  •  TGM NGUYỄN NĂNG

    Thứ Năm tuần 10 Thường niên năm II - Giữ luật với tâm tình yêu thương (Mt 5,20-26)

    Tin mừng: Mt 5, 20-26

    20 “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

    21 “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà.

    22 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.

    Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.

    23 Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, 24 thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.

    25 Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục.

    26 Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.

     

    1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

    Sứ điệp: Luật yêu thương Chúa Giêsu dạy cần thực hiện cách cụ thể: sống hòa thuận và biết tha thứ. Ta cần phải sống yêu thương tha thứ như lễ vật dâng Chúa mỗi ngày.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con hân hoan dâng Cha tâm tình yêu mến cùng với anh em con. Hôm nay, con không đến với Cha một mình, nhưng con đến cùng với anh em khác.

    Lạy Cha, trên đường đến với Cha, con còn gặp biết bao trở ngại từ chính con. Con chưa hòa hợp được với anh em. Con còn khó chịu với người bên cạnh. Nhưng Cha muốn con nắm chặt tay bạn bè trong tình thương mến. Cha muốn con đi bước trước đến với người bất hòa với con, làm hòa với họ trước khi đến với Cha.

    Lạy Cha, con chiêm ngưỡng hy lễ tuyệt hảo của Con Cha trên thập giá, hy lễ của Chúa Giêsu. Trước khi hoàn tất hy lễ ấy, chung quanh thập giá đông vô kể những kẻ bất bình và thù oán, họ đang hả hê vì đã giết được Ngài. Con Một Cha đã ngước mắt lên thưa với Cha: “Lạy Cha xin tha cho họ”. Thật là cao cả. Chính Thiên Chúa đã làm hòa với người đang cướp mất mạng sống mình. Lạy Cha, đây chính là lý do duy nhất thôi thúc con tha thứ cho anh em. Tha thứ không phải là nhát đảm nhưng là hành động anh hùng, không phải là thua thiệt, nhưng là nhận được nhiều hơn. Cùng với hy lễ thập giá của Chúa Giêsu, hôm nay, con xin dâng Cha không phải chỉ lời cầu nguyện, không phải chỉ tâm tình yêu mến, nhưng xin dâng lên Cha lòng quảng đại tha thứ cho anh em. Amen.

    Ghi nhớ: “Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.
    Kính chuyển:
    Hồng
     

NGÀY TRỞ VỀ NHÀ CHA -

  •  
    Chi Tran
     
     
     
     
     


    KINH NGHIỆM SỰ CHẾT CỦA CHA JOSE MANIYANGAT
    (Sau khi Chúa cho sống lại năm 1985)
    Tôi sinh ngày 16 tháng 7 năm 1949 tại Kerala, Ấn Độ. Cha mẹ của tôi là Joseph và Theresa Maniyangat. Tôi là người con lớn nhất trong 7 anh chị em: Jose, Mary, Theresa, Lissama, Zachariah, Valsa và Tom.
    Vào năm 14 tuổi, tôi gia nhập tu viện St. Mary ở Thiruvalla. Bốn năm sau đó, tôi đổi sang tu viện St. Joseph ở Alwaye, Kerala để tiếp tục đời tu. Sau 7 năm triết học và thần học, tôi được thụ phong linh mục vào ngày 1 tháng 1 năm 1975. Sau đó, tôi làm công tác truyền giáo ở Giáo Phận Thiruvalla.
    Vào năm 1978, trong thời gian tôi đang dạy ở tu viện St. Thomas ở Bathery, tôi là một thành viên hoạt động trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Kerala và bắt đầu tổ chức các cuộc tĩnh tâm, đại hội của phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Kerala.
    Vào Chúa Nhật Lễ Kính Lòng Thương Xót ngày 14 tháng 4 năm 1985, khi trên đường đi dâng lễ cho một nhà thờ phía bắc ở Kerala, tôi đã bị tai nạn thật khủng khiếp. Tôi đang lái xe gắn máy bị một người say rượu lái chiếc xe jeep đụng vào đầu xe. Sau đó người ta chuyển tôi tới bệnh viện cách xa khoảng 35 dặm. Trên đường tới bệnh viện, linh hồn tôi đã lìa khỏi xác, và tôi đã cảm nghiệm được sự chết. Ngay lúc đó, tôi gặp Thiên Thần bản mệnh. Tôi được nhìn thấy thân xác của tôi và những người đưa tôi đến bệnh viện. Tôi nghe tiếng họ đang khóc và cầu nguyện cho tôi. Lúc đó Thiên Thần bản mệnh nói với tôi rằng: “Tôi sẽ đưa cha lên Thiên Đàng; Thiên Chúa muốn gặp và nói chuyện với cha.” Thiên Thần bản mệnh cũng nói với tôi trên đường đi sẽ cho tôi thấy Hỏa Ngục và Luyện Ngục.
    Trước tiên, Thiên Thần dẫn tôi tới Hỏa Ngục. Thật là một cảnh rất khủng khiếp! Tôi đã nhìn thấy Satan và các quỷ dữ với độ nóng phừng phực khoảng 2000 độ F, giòi bọ bò lúc nhúc, người ta la hét và chửi bới, một số khác đang bị tra tấn bởi quỷ dữ. Thiên Thần bảo tôi những người này đã mắc tội trọng mà không ăn năn hối cải khi còn sống. Tôi đã hiểu ở đó có 7 mức độ đau đớn của hình phạt khác nhau tuỳ theo tội trọng mà họ đã phạm khi còn sống, linh hồn họ rất xấu xí, độc ác và kinh khiếp. Đó là một kinh nghiệm đáng sợ. Tôi có nhìn thấy một số người quen nhưng tôi không được phép nêu tên của họ. Những tội bị rơi vào Hỏa Ngục chính yếu là các tội: phá thai, dâm dục, trợ tử, ghen ghét, không tha thứ và phạm thánh. Thiên Thần bảo tôi rằng, nếu những người này thống hối trước giờ chết thì họ có thể tránh được Hỏa Ngục, chỉ phải đền bù ở Luyện Ngục. Tôi còn hiểu rằng một số người hối cải chịu đau khổ để đền tội ở đời này. Bằng cách đó, họ sẽ tránh được luyện ngục và được lên thẳng Thiên Đàng.
    Tôi rất ngạc nhiên khi thấy có cả các linh mục và giám mục ở Hỏa Ngục. Trong số những người đó, một số người tôi không bao giờ dám nghĩ họ sẽ bị sa Hỏa Ngục. Những giám mục và linh mục này bị sa Hỏa Ngục vì đã giảng dạy sai lầm và làm gương xấu.
    Sau khi thăm Hỏa Ngục, Thiên Thần đưa tôi đến Luyện Ngục. Ở đây cũng vậy, có 7 mức độ hình phạt và lửa cháy phừng phực khác nhau. Nhưng ở Luyện Ngục thì không khủng khiếp như ở Hỏa Ngục. Người ta không tranh giành và chửi bới. Nỗi đau khổ chính của họ là không được chiêm ngắm Thiên Chúa. Một số người trong Luyện Ngục họ mắc tội trọng nhưng họ đã ăn năn thống hối với Chúa trước khi chết. Mặc dù những linh hồn này đang chịu hình phạt, họ vẫn cảm nhận sự bình an và họ biết rằng ngày nào đó họ sẽ được hưởng thánh nhan Chúa. Tôi đã được phép nói chuyện với linh hồn ở Luyện Ngục. Họ xin tôi và mọi người cầu nguyện cho họ để họ sớm được về Thiên Đàng. Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Ngục, họ sẽ nhớ ơn và cầu nguyện lại cho chúng ta khi họ về Thiên Đàng.
    Thật rất khó mà diễn tả Thiên Thần của tôi đẹp như thế nào. Thiên Thần sáng như ánh hào quang. Thiên Thần luôn đồng hành với tôi trong công việc mục vụ, đặc biệt là mục vụ chữa lành. Thiên Thần luôn đi với tôi bất cứ nơi nào và tôi rất biết ơn về sựbảo vệ của thiên thần cho đời sống của tôi.
    Kế tiếp, Thiên Thần đưa tôi lên Thiên Đàng. Chúng tôi băng qua con đường hầm sáng láng. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự bình an và hoan hỉ bằng lúc này. Ngay tức khắc, tôi nghe thấy điệu nhạc du dương những Thiên Thần đang ca hát và tôn thờ Chúa. Tôi nhìn thấy những vị Thánh đặc biệt là Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, nhiều giám mục và linh mục thánh thiện. Những vị này sáng láng như các vì sao. Khi tôi đến trước mặt Chúa, Chúa Giêsu bảo tôi “Cha muốn con trở lại trần gian, trong cuộc sống thứ hai của con, con sẽ trở nên dụng cụ hòa bình và chữa lành cho mọi người, con sẽ đến một nơi đất lạ và con sẽ nói tiếng nước ngoài, mọi sự sẽ được Cha chúc phúc.” Sau những lời đó, Đức Mẹ Maria bảo tôi “Con hãy làm những gì Chúa bảo con, Mẹ sẽ giúp con trong công việc mục vụ của con.”
    Không một ngôn từ nào có thể diễn tả được sự đẹp đẽ của Thiên Đàng. Nơi đó chúng ta đầy tràn bình an và hạnh phúc vượt quá hằng triệu lần sự tưởng tượng của chúng ta. Thiên Chúa rất là tốt đẹp hơn bất cứ sự tưởng tượng nào. Mặt của Ngài thì sáng láng và rực rỡ hơn ngàn lần ánh sáng của mặt trời. Những bức tranh mà chúng ta nhìn thấy ở thế giới này chỉ là những bóng mờ so với sự lộng lẫy của Ngài. Bên cạnh Chúa Giêsu là Mẹ Maria, Mẹ rất đẹp và sáng láng. Không có một hình ảnh nào trên thế giới có thể so sánh với vẻ đẹp thật sự của Mẹ. Thiên Đàng là quê thật của mỗi người chúng ta. Chúng ta cố gắng trở về Thiên Đàng và hưởng hạnh phúc nhan thánh Chúa mãi mãi. Sau đó tôi cùng Thiên Thần trở lại trần gian.
    Lúc xác tôi còn nằm ở bệnh viện, bác sĩ đã kiểm tra toàn bộ và xác nhận tôi đã chết. Nguyên nhân của sự tử vong là do mất quá nhiều máu. Gia đình tôi đã được thông báo khi họ còn ở xa. Nhân viện bệnh viện quyết định đưa xác tôi xuống nhà xác. Bởi vì bệnh viện không có máy lạnh, nên họ lo ngại xác sẽ có mùi hôi.
    Ngay lúc họ chuyển xác tôi tới nhà xác, linh hồn tôi trở lại thân xác. Tôi cảm thấy rất đau đớn bởi vì những vết thương và nhiều xương bị gẫy. Tôi bắt đầu rên la, những người xung quanh tôi chạy tán loạn la hoảng lên vì sợ hãi. Một trong những người đó đã đi gọi bác sĩ và nói “Xác chết đang rên la.” Bác sĩ đến kiểm tra lại thân thể tôi và phát hiện tôi vẫn còn sống. Bác sĩ ấy nói rằng “Cha Jose vẫn còn sống, đây là phép lạ, hãy đem cha trở lại bệnh viện.”
    Khi họ đưa tôi đến phòng để truyền máu, đồng thời họ mổ và sửa lại những xương đã bị gẫy. Họ sửa lại xương quai hàm, xương sườn, xương chậu, xương cổ tay và xương chân phải của tôi.
    Sau hai tháng điều trị tại bệnh viện, bác sĩ về xương đã cho tôi biết là tôi không bao giờ có thể đi lại được nữa. Nhưng tôi đã nói với bác sĩ: “Thiên Chúa đã cho tôi sống lại, gửi tôi về trần gian thì cũng sẽ chữa lành tôi.” Sau một tháng cắt băng bột, tôi vẫn không thể đi lại được. Trong lúc chúng tôi đang cầu nguyện tại nhà, tôi cảm thấy rất đau đớn ở nơi xương chậu. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, sự đau đớn đã hoàn toàn biến mất và tôi nghe thấy có tiếng nói với tôi: “Con đã được chữa lành, đứng dậy và đi.” Tôi cảm thấy an bình và được chữa lành hoàn toàn trong con người của tôi. Tôi đứng dậy và bước đi. Tôi ngợi khen và tạ ơn Chúa cho phép lạ này.
    Tôi báo cho bác sĩ về cái tin mà tôi đã được chữa lành, ông ta rất ngạc nhiên. Ông ta nói với tôi rằng: “Thiên Chúa của ông là Chúa thật. Tôi phải theo Thiên Chúa của ông.” Bác sĩ này là người theo đạo Hindu, ông ta đã hỏi tôi về đạo thánh. Sau đó, ông ta học đạo và chính tôi là người đã rửa tội cho ông để gia nhập đạo Công Giáo.
    Theo sứ điệp của Thiên Thần, tôi đã đến Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 11 năm 1986, với công tác là linh mục truyền giáo. Lúc đầu, tôi làm việc cho Giáo Phận Boise ở Idaho từ năm 1987 tới 1989, kế đến tôi làm tuyên úy cho một nhà tù trong Giáo Phận Orlando, Florida từ năm 1989 tới 1992.
    Năm 1992, tôi thuyên chuyển đến Giáo Phận Thánh Augustinô và làm việc tại nhà thờ Thánh Máthêu ở thành phố Jacksonville trong hai năm. Sau đó tôi được chỉ định làm chính xứ của nhà thờ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời từ năm 1994 đến 1999. Vào năm 1997, tôi được chính thức công nhận là linh mục trong giáo phận. Từ tháng 6 năm 1999 đến nay, tôi là cha quản nhiệm nhà thờ Đức Mẹ của Lòng Thương Xót ở thành phố MacClenny, Florida. Đồng thời tôi cũng phục vụ cho trại tù Starke, trung tâm cải huấn Raiford và trong bệnh viện MacClenny. Hơn nữa, tôi cũng là cha linh hướng của Hội Lêgiô Marie của địa phận.
    Trong mỗi ngày thứ bảy đầu tháng, giáo xứ tôi có giờ chầu Thánh Thể và Thánh Lễ chữa lành. Mọi người đến từ nhiều nơi trong tiểu bang Florida và các tiểu bang khác. Tôi đã được mời đến cho mục vụ chữa lành ở nhiều thành phố lớn trong nước như New York, Philadelphia, Washington DC, San Jose, Dallas, Chicago, Birmingham, Denver, Boise, Idaho Falls, Ontario, Miami, Ft. Lauderdale, Poolsville và nhiều nước trên thế giới như Ireland, Spain, Czech Republic, India, France, Portugal, Yugoslavia, Italy, Canada, Mexico, Cayman Island và Hawaiian Islands.
    Xuyên qua công tác mục vụ chữa lành qua phép Thánh Thể, tôi đã thấy nhiều người được chữa lành về thể xác, linh hồn, tâm hồn cũng như cảm xúc. Nhiều bệnh khác nhau như ung thư, si đa, tim, mắt, xuyễn, đau lưng, lãng tai và nhiều bệnh khác đã được chữa lành hoàn toàn. Thêm vào đó, nhiều lần trong năm có những cuộc chữa lành đặc biệt về giòng tộc mà đã ảnh hưởng bởi tội lỗi của cha ông cũng đã được chữa lành hoàn toàn.
    Vì thế chúng ta cần sự chữa lành về gia tộc. Các bác sĩ và nhiều thuốc men không thể giúp chúng ta chữa lành về các loại bệnh tật này.
    Trong mục vụ chữa lành, đã có nhiều người được nghỉ ngơi trong ơn Chúa Thánh Thần trước Thánh Thể Chúa và nhiều người được đổi mới tâm linh cũng như chữa lành về thân xác.
    Tường thuật của Linh Mục Jose Maniyangat
    Chuyển dịch: Anna Liên Nguyễn Seattle ngày 7 tháng 11 năm 2007
    Thân mến.
    Anne Liên Nguyễn dịch
     

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LỜI CẦU NGUYỆN

 
LỜI CẦU NGUYỆN ĐỂ BẢO VỆ HÔN NHÂN KHỎI SỰ DỮ
 
Lạy Mẹ Maria, Mẹ của ân sủng và của lòng thương xót! Xin bảo vệ cuộc hôn nhân của chúng con cho khỏi ác thần, xin hòa giải chúng con với Con của Mẹ, xin hãy giới thiệu chúng con đến với Người, để chúng con được trở nên xứng đáng với những lời Người đã hứa.
 
Lạy Thánh Giuse, cha nuôi Chúa Cứu Thế, đấng bảo vệ Mẹ rất thánh của Người, người đứng đầu Thánh Gia! Xin hãy cầu thay nguyện giúp cho chúng con, xin chúc lành cho cuộc hôn nhân của chúng con và bảo vệ gia đình của chúng con mọi lúc.
 
Lạy Thánh Michael, xin bảo vệ chúng con trước mọi chước độc mưu thâm của ma quỷ.
 
Lạy Thánh Gabriel, xin cho chúng con nhận biết thánh ý Chúa.
Thánh Raphael, xin gìn giữ chúng con cho khỏi mọi bệnh tật và nguy hiểm trong đời. [Amen]
- Trích : Cẩm nang hôn nhân Công Giáo năm 1950
 
----------------------------------------------------------
*BẠN VÀ TÔI CẦN: LẶNG - LẶNG - LẶNG ĐỂ NGHE CHÚA NÓI:
 
1/ LẶNG ĐỂ TA THẤY CHÚA ĐANG HIỆN DIỆN.
2/ LẶNG ĐỂ TÔI NGHE TIẾNG CHÚA NÓI TRONG TÔI.
3/ LẶNG ĐỂ TA THẤy MÌNH NHIỀU SAI LẦM.
4/ LẶNG ĐỂ TÔI CẦN THỐNG HỐI - ĂN NĂN.
5/ LẶNG ĐỂ TA THẤY CẦN SỬA MÌNH-TRỞ VỀ.
6/ LẶNG ĐỂ TÔI CẦN XIN LỖI CHÚA VÀ ANH EM.
 
Hướng Về Chúa
-------------------------------------------------------------
 
 
 
 
 
 
 

 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - SỨC MẠNH CỦA CẦU NGUYỆN

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     

    Sức mạnh của lời cầu nguyện


    VATICAN. “Lời cầu nguyện chân thành khiến phép lạ xảy ra và giúp con tim chúng ta không bị chai cứng. Lời cầu nguyện sẽ biến đổi Giáo hội. Không phải chúng tôi, các Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, linh mục làm cho Giáo hội tiến về phía trước mà là chính các thánh.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 12.01 tại nhà nguyện thánh Marta.

    Đức Thánh Cha đã triển khai bài giảng dựa trên bài đọc một trích sách Samuel, kể về bà Anna – một người phụ nữ đau khổ, đã nức nở cầu nguyện để nài xin Thiên Chúa ban cho bà một đứa con – và vị tư tế Ê-li, ngồi trên ghế ở cửa đền thờ và quan sát bà Anna từ xa. Vì bà Anna thầm thĩ trong lòng, chỉ có môi mấp máy, chẳng ai nghe thấy tiếng bà, nên ông Ê-li nghĩ rằng bà say rượu.

    Đức Thánh Cha nói rằng: “Bà Anna đã đầu nguyện thầm thĩ trong lòng và chỉ mấp máy môi, chẳng ai có thể nghe tiếng bà. Bà là một phụ nữ can đảm có lòng tin tưởng nhưng tâm hồn đang tràn ngập cay đắng. Bằng những giọt nước mắt chân thành, bà đàng nài xin ân sủng và sự xót thương của Thiên Chúa. Có rất nhiều phụ nữ can đảm và tốt lành như thế trong Giáo hội. Họ đã đặt trọn sự tín thác của mình trong những lời cầu nguyện chân thành. Ngay lập tức, chúng ta sẽ nhớ đến thánh Monica. Bằng nước mắt và lời cầu nguyện, thánh nữ đã kéo ân sủng của Thiên Chúa xuống trên người con trai, để rồi người con ấy đã thực sự hoán cải và trở nên thánh. Đó chính là thánh Augustinô. Có nhiều phụ nữ như thế đang hiện diện trong Giáo hội.

    Bà Anna thầm thĩ cầu nguyện trong đau khổ và nước mắt. Nhưng vị tư tế Ê-li lại nghĩ rằng bà đang say xỉn và khuyên bà đi dã rượu. Suy đoán của ông Ê-li là điều mà ta phải cẩn trọng, vì khi con tim không có lòng xót thương, ta rất dễ nghĩ những điều tiêu cực. Ta sẽ không hiểu cũng như không đồng cảm được với những người đang cầu nguyện trong đau khổ và nước mắt. Họ đang phó thác nỗi đau và sự cùng cực của họ nơi Thiên Chúa.

    Đức Giêsu biết và hiểu rất rõ những lời cầu nguyện trong hoàn cảnh thống khổ như thế này. Bởi gì trong Vườn Dầu, chính Ngài đã lo buồn đến đổ mồ hôi máu: ‘Lạy Cha, nếu Cha muốn xin cất chén này cho Con, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha.’ Lời cầu nguyện của Đức Giêsu và bà Anna đều có chung một tâm tình: hiền lành và khiêm tốn. Đôi khi cầu nguyện, chúng ta nài xin Chúa điều này điều kia, nhưng rất thường là chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào và phải xin điều gì cho đúng.”

    Đức Thánh Cha cũng kể lại câu chuyện một người đàn ông ở Buenos Aires có đứa con gái 9 tuổi trong bệnh viện, đang trong tình trạng nguy kịch sắp chết. Ông đã thức trắng cả đêm để đi đến đền thờ Đức Trinh Nữ Maria ở Lujàn mà cầu nguyện. Ông đã bám vào cánh cổng, tựa đầu vào những khung sắt của đền thờ và tha thiết nài xin ơn chữa lành cho đứa con gái bé bỏng. Sáng hôm sau, khi quay lại bệnh viện, con gái của ông đã được chữa lành.

    Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Những lời cầu nguyện chân thành sẽ khiến phép lạ xảy ra. Phép lạ sẽ xảy ra cho những Kitô hữu, cho những giáo dân có lòng tin tưởng, cho các Giám mục, linh mục và cho cả những ai dường như đã mất đi lòng thương xót. Những lời cầu nguyện chân thành sẽ giúp biến đổi Giáo hội.

    Không phải các vị Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, linh mục hay các nữ tu làm cho Giáo hội triển nở và không ngừng tiến lên phía trước nhưng chính là các thánh. Các thánh là những người đã tin tưởng vào Thiên Chúa, tin Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng và có thể làm được mọi sự.”

    Vũ Đức Anh Phương, SJ

    https://www.youtube.com/watch?v=KEvqG80JZWg



     
     
     

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - ĐỨC KHÓ NGHÈO CỦA LM

  •  
    Chi Tran CHUYỂN
     

    ĐỨC KHÓ NGHÈO CỦA LINH MỤC

     

    Khó nghèo, giản dị, thậm chí khổ hạnh nghe có vẻ đơn giản, nhưng những điều này thực sự có ý nghĩa gì đối với người linh mục giáo phận?

     

    Hình ảnh hiện lên trong tâm trí tôi lúc này là một căn biệt thự bên bờ biển.

    Khi các vụ bê bối về lạm dụng tình dục của linh mục nổ ra đầu năm 2002, mở đầu cho thời gian mà Richard John Neuhaus gọi là “Mùa Chay trường kỳ” của chúng ta, tôi chỉ mới được thụ phong linh mục gần hai năm.

    Phản ứng đầu tiên của tôi là sửng sốt và tức giận. Ngay sau khi các giám mục Hoa Kỳ cam đoan sẽ “phục hồi niềm tin” trong những năm của thập niên 90, thì giờ đây họ lại bao che cho các hành vi lạm dụng một lần nữa. Đối mặt với dư luận, tôi cảm thấy thật hổ thẹn khi bị xem là người có liên đới với những linh mục tội lỗi ấy. Trong lúc nhiều người cố gắng biện minh cho vấn đề - là vấn đề chỉ liên quan đến một số nhỏ trong hàng giáo sĩ chứ không phải toàn bộ Hội Thánh – thì tôi trả lời rằng: “Không sao cả! Chúng ta phải trở nên tốt đẹp hơn thế.” Dù vậy, thực sự bằng một cách nào đó, mọi thứ dần trở nên tươi sáng hơn. Khi chia sẻ vấn đề này trên giảng đài, cha sở của tôi và tôi nhận được một sự ủng hộ mạnh mẽ từ giáo dân. Sau đó, các giám mục dường như cuối cùng cũng chịu giải quyết vấn đề một cách thẳng thắn và dứt khoát. Báo cáo của John Jay đặt dấu chấm hết cho sự im lặng của Hội Thánh, và Hiến chương Dallas trở thành hình mẫu cho các thể chế khác trong việc bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên. Lời phản hồi dù không trọn vẹn – như lời trình bày của Hồng y Dulles – nhưng Giáo hội Hoa Kỳ dường như đang bước sang một trang mới, tươi sáng và tốt đẹp hơn.

     

    Dẫu vậy, một khía cạnh của vấn đề này vẫn còn bị dấu kín. Một trong những nhân vật then chốt trong phản hồi của các giám mục là Hồng y Theodore McCarrick, khi ấy là tổng giám mục Washington, D.C. Có nhiều tin đồn không tốt về các hành vi của ông ta đối với những chủng sinh, thế nhưng không có kết luận gì được đưa ra trước khi ông ấy được trở thành một trong những giám mục nổi tiếng nhất Hoa Kỳ.

     

    Mùa hè 2018, tôi đến Washington để học thần học luân lý tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ với mục đích chuẩn bị cho sứ vụ tại chủng viện. Không lâu sau đó, McCarrick bị buộc phải ngưng các thừa tác vụ công khai vì những cáo buộc khả tín về lạm dụng. Tin tức này như chứng thực những tin đồn tôi đã nghe, thế nhưng vì bận rộn chuẩn bị cho sự chuyển biến từ cha sở thành một sinh viên, nên tôi không lưu tâm nhiều đến nó. Kế đến, với những cáo buộc kinh khủng, Báo cáo của Pennsylvania Grand Jury dường như đưa chúng ta về lại những ngày đen tối của năm 2002. Liệu chúng ta có thể vượt qua những chuyện này? Đâu là giới hạn của sự suy đồi trong Hội Thánh?

     

    Khi tôi nghe biết về một căn biệt thự bên bờ biển ở Jersey, nơi McCarrick thường đưa các chủng sinh và các cá nhân mà ông ta ưu ái đến đó, sau đó tìm cớ để một trong số họ lên giường với mình. Điều này thật làm tôi tức điên lên – không chỉ đơn giản bởi những điều tệ hại ông ta đã làm ở đó, mà ngay từ ban đầu, tôi còn muốn biết tại sao và có cần thiết hay không khi ông ta được quyền lui tới một căn biệt thự ven biển ấy. Có mấy người được McCarrick gọi đến phục vụ có đủ khả năng sở hữu một thứ sang trọng như thế? Tại sao ông ta lại có được đặc ân như vậy?

     

    Căn biệt thự ven biển này được sở hữu bởi tổng giáo phận Newark và được McCarrick sử dụng cho mục đích cá nhân của ông, là một trong rất nhiều cách thức mà vị hồng y này tận hưởng những của cải mà ông thu góp được nhân danh Hội Thánh. Như thế, nó thể hiện một sự suy đồi sâu xa hơn những gì tôi nghi hoặc. Không biết bao nhiêu lần tôi đã đọc về các linh mục không chỉ phạm tội nghịch với sự độc thân khiết tịnh mà còn phạm đến sự liêm chính trong quản lý tài chính? Suốt nhiều năm qua, có quá nhiều chuyện tai tiếng về những khoản tiền đút tay để tránh khỏi việc tố tụng hay để ém nhẹn những tiết lộ đáng hổ thẹn với cánh báo chí, sự tham ô để dung dưỡng một đời sống xa hoa kiểu “hàng tư tế”, và các hành vi đáng ngờ để bào chữa cho khả năng gây quỹ hoặc những món quà đắt giá.

     

    Thế nhưng, cho đến nay, tôi vẫn xem các sự việc trên là vấn đề cần phải được giải quyết bởi người khác – bởi các giám mục, các nhà đào tạo, các hội đồng tư vấn, vv… Nhưng giờ đây, tôi nhận ra rằng tôi phải là một phần của các giải pháp. Các vụ bê bối kéo dài nhiều thế kỷ đã làm hoen ố thanh danh của hàng linh mục. Tôi và các anh em linh mục của tôi cần phải làm gì để phục hồi niềm tin tưởng và đảm bảo cho việc loan báo tin mừng được hiệu quả đây?

     

    Tôi tin tưởng rằng nếu muốn có niềm hy vọng vào sự đổi mới trong hàng linh mục, thì các linh mục chúng tôi phải lưu tâm đến mối liên hệ giữa dục vọng và sự xa hoa, đến sự thất bại trong việc kiểm soát ham muốn ở nhiều khía cạnh trong đời sống của mình. Sự tận hiến cho Chúa Kitô và cho việc phục vụ dân Chúa phải biểu lộ cách tỏ tường trong mọi mặt của đời sống linh mục. Nhưng bằng cách nào để có được điều đó đây? Lịch sử Giáo Hội sẽ cho chúng ta một câu trả lời đầy đủ.

     

    Sự cải tổ trong Giáo hội thường được đặt nền móng bằng việc thực hành đức khó nghèo cách tự nguyện. Vào thế kỷ III, thánh Antôn ẩn tu từ bỏ mọi của cải trần thế và lánh vào sa mạc ở vùng Ai Cập, ngài trở thành “cha của các ẩn sĩ” và đặt ra một cung cách sống hoàn toàn trái ngược với các Kitô hữu được sinh trưởng cách sung túc do địa vị xã hội của họ đang lớn mạnh trong Đế quốc La Mã thời bấy giờ. Cũng có một Bênêđíctô thành Nursia, người gây bàng hoàng cho thành Rôma suy đồi trong thế kỷ VI. Thánh nhân lui vào trong hoang địa và thiết lập một tu luật chú trọng vào việc cầu nguyện và lao động, tu luật ấy vẫn còn là một khuôn mẫu cho Kitô giáo Tây phương ngày nay. Vào thế kỷ XIII, thánh Phanxicô Assisi dẫn dắt một cuộc canh tân trong Giáo hội Công giáo bằng cách mang vào mình “sự khó nghèo thánh”, và thánh Đaminh thành Osma, đấng sáng lập dòng Thuyết giảng, nhận ra rằng sự giàu sang của Giáo hội đang gây cản trở cho việc rao giảng tin mừng. Ở thế kỷ XVI, thánh Têrêsa Avila, thánh Inhaxiô Loyola và nhiều vị thánh khác cũng canh tân đời sống thánh hiến nhờ vào việc đánh đổi một đời sống sung túc và nhận lấy sự khổ hạnh mang lại tự do. Gần đây hơn, Phong trào Công nhân Công giáo của Thánh Dorothy Day (Dorothy Day’s Catholic Worker) và các phong trào giáo dân khác đã tìm thấy những cung cách sống mà ở đó người Kitô hữu hoàn toàn phó thác bản thân vào sự quan phòng của Thiên Chúa chứ không phải vào của cải trần gian.

     

    Theo truyền thống, một sự khác biệt lớn giữa các linh mục dòng và linh mục “triều” (các linh mục trực thuộc giáo phận, không ở trong một dòng nào) nằm ở điểm các linh mục dòng phải ưng thuận các lời khuyên phúc âm về sự khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Tuy thế, tất cả các linh mục đều phải hứa vâng phục đức giám mục hoặc bề trên hợp pháp của mình, và đa phần các linh mục trong giáo hội Công giáo Tây phương bị buộc phải giữ mình độc thân khiết tịnh. Vậy điểm mấu chốt phân biệt giữa linh mục dòng và linh mục triều chỉ còn nằm ở lời khấn khó nghèo.

     

    Tại sao lại có sự khác biệt này? Bởi vì, trong lịch sử thời kỳ đầu, các linh mục coi xứ thường được phép kết hôn. Đến ngày nay, các linh mục của Giáo hội Công giáo Đông phương và Chính thống giáo (trừ các giám mục) cũng được phép kết hôn trước khi được truyền chức (điều này giống với các phó tế vĩnh viễn theo Nghi lễ Latinh). Việc giữ lời khấn khó nghèo trong khi vẫn phải tìm cách chăm lo cho gia đình là rất khó và bất công.

     

    Tuy nhiên, ở Tây phương, nơi luật độc thân khiết tịnh bị bắt buộc, các linh mục từ lâu vẫn có được các nguồn thu nhập riêng nhờ vào bổng lễ, tặng phẩm từ các tín hữu và nhiều cách thức khác. Chỉ trong nhiều thế kỷ gần đây, một khoản lương ổn định, đồng nhất trong một giáo phận mới trở thành những quy tắc, kèm theo đó là các chế độ hưu dưỡng, chăm sóc sức khỏe, và nhiều phúc lợi khác cho các linh mục.

     

    Ở một đất nước giàu có như Hoa Kỳ, linh mục giáo phận được xem như những quý ông độc thân của tầng lớp trung lưu. Với hầu hết các chi phí của mình, gồm phí thực phẩm và nhà ở, phí chăm sóc sức khỏe, họ có rất nhiều các khoản thu nhập khả dụng. Mặc dù Giáo hội luôn khích lệ các linh mục dùng các khoản dư đó cho các nhu cầu hoạt động tông đồ, đặc biệt là cho người nghèo, thế nhưng số tiền đó vẫn được các linh mục sử dụng cho mục đích cá nhân. Kết quả là nhiều linh mục có đủ điều kiện để đến các nhà hàng sang trọng, tận hưởng những kỳ nghỉ xa hoa, và thực hiện nhiều thú vui khác.

     

    Dẫu vậy, kể từ Công đồng Vatican II, Giáo hội đã kêu gọi các linh mục giáo phận “tự nguyện gắn bó với đức khó nghèo bởi nhờ đó họ ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và nhiệt thành hơn trong sứ vụ thánh thiêng của mình”. Trong tông huấn Pastores Dabo Vobis (Những mục tử như lòng mong ước), thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khuyên nhủ các linh mục đón nhận “khổ hạnh”, trong khi đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô bằng gương mẫu và giáo huấn của mình đã mời gọi các linh mục sống một đời sống giản dị.

     

    Khó nghèo, giản dị, thậm chí khổ hạnh nghe có vẻ đơn giản, nhưng những điều này thực sự có ý nghĩa gì đối với người linh mục giáo phận? Chắc chắn đó không phải là một sự thiếu thốn của cái nghèo không tự nguyện. Ngoài một mái nhà che đầu và ba bữa cơm một ngày, vị linh mục giáo phận sẽ cần một chiếc xe hơi và điện thoại di động để thi hành sứ vụ. Ngài cũng không phải cam kết sống khó nghèo chung với một cộng đoàn dòng tu; nhiều linh mục sống một mình, số ít còn lại thì sống cộng đoàn với một hoặc hai linh mục khác, những linh mục này thường không có cùng sở thích, thói quen và cũng hiếm khi ở lại giáo xứ quá vài năm.

     

    Có lẽ, câu chuyện được kể bởi Đức Hồng y Dolan có thể minh giải về kiểu khó nghèo mà các linh mục được kêu mời. Đức Hồng y đến viếng thăm một thầy dòng Đaminh và nhận thấy rằng phòng của thầy ấy rất tối giản. Đức Hồng y hỏi vị tu sĩ rằng thầy cất các đồ dùng còn lại của mình ở đâu. Vị tu nói rằng đây là tất cả những gì thầy ấy sở hữu, và sau đó hướng chú ý đến việc Đức Hồng y cũng chỉ mang theo bên mình vẻn vẹn một cái vali. Đức Hồng y đáp lại, “Nhưng tôi chỉ ghé ngang qua thôi mà”. Vị tu sĩ trả lời, “Không phải chúng ta mới là tất cả sao? [Đâu cần gì nữa]”

     

    Thật vậy, Công đồng Vatican II tuyên bố rằng tinh thần nghèo khó theo phúc âm là một điều mà tất cả các Kitô hữu nên thiết tha mong mỏi. Đức khó nghèo theo phúc âm bắt đầu với nhận thức rằng tất cả thụ tạo chỉ là phù vân, và với khao khát sử dụng chúng để làm vinh danh Thiên Chúa và trợ giúp anh chị em của mình. Như thánh Inhaxiô Loyola đã phát biểu, “Tôi chỉ được sử dụng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ khi chúng làm cản trở. Để làm được điều đó, tôi cần phải giữ cho mình được bình tâm đối với mọi tạo vật trong tất cả những gì nằm trong sự tự do của tôi và không bị cấm.” (Linh thao, số 23)

     

    Sự tận hiến này có thể được đào sâu khi chúng ta suy ngắm rằng chúng ta nỗ lực theo đuổi đức khó nghèo trong sự noi gương Đức Kitô, Đấng được thánh Phaolô cho là, “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8:9). Trong việc Nhập Thể, Chúa Kitô đã tự ý trút bỏ vinh quang, mặc lấy điều mà Christopher Franks đã gọi là sự khó nghèo tự bản thể (ontological poverty): sự khiêm hạ trước mặt Chúa Cha trong việc chấp nhận thân phận con người. Trường phái Linh đạo Pháp đã mô tả hình thức khó nghèo ấy là anéantissement – sự “hủy mình ra không” của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên nhầm lẫn tư tưởng trên với ý nghĩa rằng chúng ta chẳng có chút giá trị nào – không phải vậy! – nhưng đúng hơn là chúng ta liên tục được nhận lãnh từ Thiên Chúa món quà của sự hiện hữu. Chúng ta phải dưỡng nuôi một thái độ tin cậy khi đối mặt với những yếu nhược của mình trong một thế giới sa đọa, và phó thác trọn con người cho sự quan phòng của Thiên Chúa.

     

    Dù vậy, tinh thần khó nghèo phải được củng cố bằng sự khó nghèo vật chất. Có lẽ những tài sản của tôi không “sở hữu” tôi, nhưng điều đó không thể hiện rằng tôi đầy đức độ trong việc sử dụng của cải vật chất hay tôi rất quảng đại với người nghèo. Mẫu gương Chúa Giêsu rất sáng ngời ở điểm này. Chúa Giêsu được sinh ra trong một chuồng gia súc, và khi dâng hiến Người trong Đền thờ, cha mẹ Người đã dâng lễ vật của người nghèo. Người nói với những kẻ muốn theo Người, “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:57). Người và các môn đệ cũng phải nhờ vào các một nhóm người phụ nữ khi di chuyển từ làng này qua làng khác. Và Người khép lại cuộc đời trần thế bằng việc trút bỏ mọi thứ được cho là thuộc về Người.

     

    Nhưng Chúa Giêsu không hoàn toàn túng thiếu. Thánh Tôma Aquinô chỉ ra rằng Chúa Giêsu không bắt chước sự khắc khổ của Gioan Tẩy Giả, bởi vì sứ vụ của hai người hoàn toàn khác nhau. Gioan kéo mọi người vào sa mạc để chịu phép rửa và hoán cải, Chúa Giêsu đến để mang Tin mừng cho người nghèo và vì thế Người gặp gỡ họ ở chính nơi họ thuộc về. Người không từ khước hưởng nhờ sự bác ái của tha nhân, cho dù đó là những người bạn ở Bêtania, hay ông Simon thuộc nhóm Pharisêu, hay chủ tiệc cưới Cana, hoặc thậm chí là môn đệ Matthêu trong bữa tiệc mừng ông được hoán cải. Người còn bị gọi là kẻ tham ăn hay một tay ăn nhậu! Dù thế, Chúa Giêsu đi bất cứ nơi đâu mà sứ vụ của Người dẫn lối, Người luôn sẵn sàng lên đường đến nơi kế tiếp: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38).

     

    Trong một trình thuật nổi tiếng của Tin mừng, người thanh niên giàu có nọ đến hỏi Chúa Giêsu về việc anh ta phải làm gì để có được sự sống đời đời. Chúa Giêsu trước hết bảo anh ta hãy tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa. Chàng thanh niên thưa là đã chu toàn những điều đó rồi, nhưng anh ta còn đang tìm điều khác nữa. Chúa Giêsu đáp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19:21). Qua nhiều thế kỷ, đoạn Kinh Thánh này vẫn luôn gợi hứng cho các thánh nhân và những ai sống đời sống thánh hiến. Có đôi khi nó cũng được dùng để ủng hộ cho quan điểm về hai “tầng lớp” trong Giáo hội: tầng lớp thứ nhất gồm những người chỉ tuân giữ các giới răn, và thứ hai là những người “muốn nên hoàn thiện”, đồng thời tuân theo các lời khuyên phúc âm. Tuy nhiên, thánh Tôma Aquinô lưu ý rằng lời kêu mời trở nên hoàn thiện được trao ban cho tất cả mọi người, và sự hoàn thiện đó không tồn tại trong các lời khuyên phúc âm nhưng trong Đức Ái. Dù chúng ta được báo trước là sẽ rất khó để người giàu vào nước trời, nhưng nó không nghĩa là không thể được; thánh Tôma chỉ ra trường hợp của tổ phụ Abraham, người có rất nhiều của cải nhưng luôn bước đi trước mặt Thiên Chúa và đã nên hoàn thiện.

     

    Hơn nữa, chúng ta thường lãng quên điểm mấu chốt trong câu chuyện về người thanh niên giàu có: Không chỉ dừng lại ở việc bán hết của cải và bố thí cho người nghèo mà thôi, nhưng còn một bước nữa là anh ta phải đến và theo Chúa Giêsu. Sự khó nghèo sẽ là một lợi khí của tự do trong việc đáp lại lời kêu mời trở nên người môn đệ.

     

    Cuối cùng, con đường của người môn đệ sẽ dẫn tới Thập giá và những hành động tự hiến trọn hảo. Nỗi sợ cái chết – việc chúng ta không bằng lòng để thừa nhận rằng:  suy cho cùng, chúng ta không phải là chủ nhân của số phận mình – thôi thúc trong chúng ta một ảo tưởng rằng không gì có thể phương hại tới bản thân chúng ta nếu chúng ta tích góp đủ của cải. Nhưng “được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8:36).

     

    Các linh mục được kêu mời trở nên một chứng tá đi ngược dòng đối với chủ nghĩa tiêu thụ đang làm suy thoái môi trường sống và sản sinh ra “nền văn hóa loại bỏ” – theo cách gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, nền văn hóa này cũng tác động đến thái độ hướng tha của chúng ta. Thật dễ dàng để ruồng bỏ những người bạn, vợ/chồng, hoặc con cái một khi họ trở thành gánh nặng cho chúng ta. Chúng ta thường xem tha nhân như những vật cản cần phải loại bỏ hay những công cụ để đạt được mục đích của mình. Các linh mục không phải không nhiễm lối suy nghĩ này.

     

    Vì thế, đức khó nghèo theo tinh thần phúc âm cung cấp một giải pháp hữu hiệu cho sự khủng hoảng đang còn tiếp diễn trong Giáo hội. Bằng cách khước từ những sự vật hoặc con người được cho là thuộc về mình “cách chính đáng”, chúng ta có thể kiểm soát được điều mà thánh Augustinô gọi là libido domiandi – ham muốn thống trị - thứ cám dỗ chúng ta coi bản thân mình là chúa của mọi sự thay vì đón nhận quyền thống trị của Chúa Kitô. Đức khó nghèo có thể giải phóng chúng ta ra xa “dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của” (1Ga 2:16) – và tháo cởi chúng ta khỏi sự dính bén với các ham muốn, sự thiếu khiết tịnh và lạm dụng quyền lực – những thứ được phô bày trong các vụ bê bối.

     

    Làm sao để sống đức khó nghèo? Chay tịnh là bước khởi đầu: cơn đói thể lý cho thấy: sự lệ thuộc của chúng ta vào trật tự tạo dựng, nhu cầu của những kẻ không có đủ ăn, và cơn đói thiêng liêng hướng về Thiên Chúa. Sự nhiệt tâm và quảng đại bố thí (cách khôn ngoan) là bước tiếp theo. Một thần học gia đã đề xuất điều mà tôi muốn gọi là “kế hoạch 50-50” của Giakêu. Cùng nhớ lại khi Giakêu gặp Chúa Giêsu, ông ấy không bị buộc phải cho đi mọi thứ mình có – chỉ phân nửa là đủ rồi. Điều gì sẽ xảy ra nếu, khi chúng ta lên kế hoạch mua sắm, hoặc nghỉ mát, chúng ta cũng sẵn sàng trao tặng số tiền tương tự như thế cho những người nghèo?

     

    Sự khó nghèo theo phúc âm cũng củng cố sự thăng tiến của nhân đức thờ phượng, nghĩa là dâng cho Thiên Chúa điều đáng thuộc về Người. Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về mọi sự, vì thế chúng ta chẳng thể nào chu toàn trọn vẹn bổn phận của mình. Nhưng món nợ đó nên sản sinh ra nỗi sợ con thảo của chúng ta dành cho Thiên Chúa, đó là khởi điểm của sự khôn ngoan. Nỗi sợ này là sự kính sợ chúng ta kinh nghiệm khi đứng trước Thiên Chúa và nhận ra tất cả những gì chúng ta có và chúng ta là đều hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, đó chính là thái độ được rèn giũa nhờ vào đức khó nghèo theo tinh thần phúc âm.

     

    Kinh nghiệm về sự nhân lành của Thiên Chúa trong những khía cạnh trên dẫn chúng ta tới một niềm hy vọng thực sự. Tinh thần khó nghèo nuôi dưỡng một niềm hy vọng cánh chung về một sự đổi mới toàn vũ trụ. Vì đức khó nghèo được dựa trên nhận thức rằng chúng ta được tạo tác không phải để thỏa mãn những dục vọng thể lý tầm thường, và dựa trên ý thức tối hậu rằng tài sản của Hội Thánh là chính Chúa Giêsu Kitô: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).

     

    Cuối cùng, trong đức khó nghèo chúng ta vui mừng đón nhận sự lệ thuộc vào Thiên Chúa và nhìn ngắm mọi thụ tạo như là những tặng phẩm từ Người. Chúa Giêsu nói: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10:8). Là những người môn đệ, chúng ta tự do dâng hiến bản thân, dâng hiến những thứ thuộc về chúng ta, để phục vụ cho Tin mừng và cho những kẻ được Chúa Kitô chịu chết vì họ. Đây đúng là một đời sống sung mãn thật sự.

     

    Quang Sáng

    Chuyển ngữ từ: firstthings.com (3.2022) 
    Lm. Timothy J. Cusick  
    Giám học tại Đại chủng viện St. Vincent de Paul, Florida, Hoa Kỳ