16. Sống Tình Thức

SỐNG TỈNH THỨC - SỰ THẬT THUỘC VỀ CHÚA

 

  •  
    nguyenthi leyen
    SỐNG TỈNH THỨC
     
    Wed, Dec 30 at 1:23 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

    Sự thật thuộc về Thiên Chúa, còn gian dối là của ma quỷ. 

     

     

    TIN MỪNG/KINH THÁNH : Mt 5, 33-37

    “Nhưng hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (c. 37)

    Sự gian dối luôn là dấu chứng sự hiện diện của ma quỷ. Nó là thứ luôn tìm cách chống phá sự thật, tung hỏa mù, tài tình ranh mãnh để xoay chuyển, ngụy trang cho giả dối khoác áo sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách để chống lại Thiên Chúa, muốn lôi kéo con người đi theo con đường gian dối của nó. Nhưng để chiếm lĩnh được tâm trí con người, ma quỷ luôn đội lốt sự thật, để đánh lừa con người dưới những chiêu bài tinh vi, thật thì ít, mà dối trá là đa phần. Ma quỷ chính là cha của kẻ dối trá ( x. Ga 8,44)

    Còn Thiên Chúa, Ngài là Đấng Chân Thật, nên chỉ có những ai sống sự thật, "có" thì nói "có", "không" thì nói "không" mới thuộc về Ngài. Trong huấn từ của mình, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài, muốn chúng ta phải kiên quyết trong việc chọn lựa giữa sự thật và dối trá, không thể có chuyện lập lờ… Chúa Giêsu chỉ ra rằng, khi chúng ta “thêm nếm” những gì không thuộc về sự thật, nghĩa là chúng ta đang bị ma quỷ khống chế để phục tùng chúng.

    Giữa một xã hội hôm nay, trong các cơ cấu tổ chức, tệ hại nhất là nơi các trường học, chúng ta đang phải đối mặt với một thảm họa thật kinh khủng, ghê gớm : sự dối trá, những thứ dối trá tinh vi đang làm cho con người đánh mất lương tri, những giá trị đạo đức, nhân bản. Những trẻ em, người trẻ bị ảnh hưởng bởi sự dối trá, lươn lẹo của người lớn, của những kẻ làm giáo dục. Nơi xã hội mà giả trá tràn lan…từ góc chợ bẩn thỉu cho đến cửa hành chính đẹp đẽ sang trọng, nơi những nhà cầm quyền…khiến nhiều người sống chung mất dần đi nhận thức đúng sai, đạo đức cần có…Những chiêu trò giả dối, những lối sống giả tạo, và cả những bài học đạo đức cũng chỉ là giả…đang trở thành đại họa cho chúng ta và thế hệ tương lai. Người ta vẫn thường nói, khi ai đó nói một nửa sự thật, nghĩa là họ đang nói dối.

    Ngày hôm nay, Chúa muốn tôi và bạn làm gì giữa một xã hội đầy dẫy sự gian xảo này?

    Lội ngược dòng. Đúng. Chúa muốn chúng ta phải lội ngược dòng trong một xã hội đầy dẫy sự gian dối này. Chúng ta phải là những Ki tô hữu sống cho sự thật, chỉ nói và hành động phục vụ cho sự thật mà thôi. Chúng ta phải tự hỏi mình, đâu là dấu chỉ cho thấy chúng ta là những môn đệ của sự thật, của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Sự thật đến trần gian để làm chứng cho sự thật.

    Làm sao chúng ta, một Kitô hữu có thể sống được Lời Chúa muốn “ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’?

    Làm sao chúng ta có thể nói sự thật trong các mối quan hệ của mình, chứ không hề sử dụng một từ hay nhiều câu mang tính giả dối, nói về người khác một cách trung thực trong yêu thương và trách nhiệm?

    Làm sao chúng ta có thể phân định ranh giới mong mang giữa sự thật và giả dối và thắng vượt sự gian trá?

    Nếu tôi và bạn “ở xa Chúa” chúng ta không thể có được sự hướng dẫn, không đủ sức mạnh để sống cho sự thật, nói lời sự thật.

    Khi dám sống cho sự thật, nói sự thật, nghĩa là chúng ta đang trở nên những chứng nhân của Sự thật, của Thiên Chúa, và chống lại ma quỷ, cha đẻ của sự gian dối.

    Nt. Teresa Ngọc Lễ, O.P

     
     

 

SỐNG TỈNH THỨC -CANH THỨC CHỜ CHÚA ĐẾN


Suy Niệm Hàng Ngày

5 phút cầu nguyện tâm tình với Chúa

CANH THỨC CHỜ CHÚA ĐẾN

Bắt đầu từ Chúa Nhật 1 Mùa Vọng hôm nay, toàn thể giáo hội chính thức bước vào Năm Phụng Vụ mới, cùng với lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Marcô: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.  Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (Mc 13, 33, 35-36).

Tại các nhà thờ Đức có một tục lệ rất ý nghĩa là mỗi nhà thờ đều trang điểm vòng hoa Mùa Vọng với những cành thông tươi xanh và bốn cây nến, tượng trưng cho 4 Chúa nhật Mùa Vọng.  Khởi đầu thánh lễ mỗi Chúa nhật, đang khi cộng đoàn hát bài Mùa Vọng, cây nến được thắp sáng.  Chúa nhật thứ nhất thắp sáng một cây.  Chúa nhật thứ hai thắp sáng hai cây.  Khi cả bốn cây được thắp sáng, thì đại lễ giáng sinh cũng đã gần kề.  Tục lệ này cũng được lan rộng trong nhân gian, tới hầu hết các công sở, các gia đình.  Nơi nào cũng bầy vòng thông Mùa Vọng với đủ loại nến mầu đỏ, tím…

Như vậy ý nghĩa thứ nhất trong Mùa Vọng là mùa canh thức chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa Giáng Sinh.  Trọng tâm của lịch sử và Tin Mừng cứu độ chính là biến cố: Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân độ thế.

Ngày giáng trần của Chúa Giêsu phải được đón mừng vì đây là Biến Cố có một không hai trong lịch sử cứu độ: nhờ Ngôi Lời nhập thể làm người thì vũ trụ vạn vật lại được đổi mới (TNKB, s. 3).  Kể từ Biến Cố này, Trời giao hòa với Đất, nhân loại được Thiên Chúa yêu thương và toàn thể vũ trụ được đón nhận TIN Mừng cứu độ.  Chính vì thế, Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu đã trở nên Trung Tâm điểm của lịch sử nhân loại, mốc điểm thời gian.

Theo Kinh Thánh, canh thức là thái độ của một người “đang tỉnh thức chờ đợi”, không ngủ mê, không thụ động, nhưng canh chừng, luôn phòng bị để kịp đối phó với kẻ địch tấn công bất ngờ (Tv 127, 1t), lòng nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm hiện tại, biết nhận ra những dấu chỉ thời đại, khám phá ra thánh ý Thiên Chúa, kiên tâm phục vụ trong yêu thương, đang khi ngóng chờ một biến cố sắp xẩy đến… sẵn sàng đón tiếp Chúa, khi Ngày của Ngài điểm.

Đây là lời khuyên nhủ, dặn dò chính yếu của Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài.  Vì Chúa đến bất chợt như kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43t), như ông chủ trở về mà không báo cho các đầy tớ biết (Mt 13,35t), như chàng rể đến lúc canh khuya, và chỉ năm cô trinh nữ khôn ngoan đang canh thức với đèn đầy dầu, mới kịp ra đón rước chàng rể vào dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13).

Vậy canh thức là đặc tính căn bản, là thái độ sắp sẵn của người môn đệ Chúa, để chỗi dậy khỏi giấc ngủ đam mê, nghĩa là dứt khoát với tội lỗi, dứt bỏ trần thế và những đam mê dục vọng (Lc 21, 34tt).  Canh thức là hoán cải và trở về với Chúa, không nằm lì trong tội ác, không cứng lòng và khinh thường tiếng mời gọi thống hối của Chúa.  Canh thức trong cầu nguyện, tiết độ, không chè chén say sưa, không cờ bạc, không say đắm nhục dục… quyết không để “ba cái lăng nhăng” nó quấy ta!

Canh thức để nhận diện ra kẻ thù và chiến đấu với thần dữ.  Trong giờ kinh tối, các linh mục và tu sĩ thường đọc: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1P 5,8).  Ma quỷ có thể ẩn hiện trong những phim ảnh xấu, những sách báo đồi trụy, ma túy… những dịp tội gần xa đưa chúng ta xa Chúa, lạc đường về Quê Trời.

Canh thức để phân biệt phải trái: đừng bị ru ngủ, bị đầu độc, bị tuyên truyền bởi óc hưởng thụ, bởi tinh thần vị kỷ cá nhân, bởi các học thuyết vật chất vô thần, bởi những ông đạo buôn thần bán thánh, bởi những mê tín dị đoan, bởi những quảng cáo quyến rũ, những truyền đơn loan tin thất thiệt ngày tận thế…

Canh thức để khỏi bị chán nản, ngã lòng nản chí, bỏ cuộc.  Có những tín hữu gặp thử thách trong đời sống gia đình, gặp những khó khăn về vật chất, bị đau ốm lâu dài… đã nản lòng, kêu trách Chúa, và nhiều khi bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ Giáo hội!

Canh thức trong cầu nguyện theo gương Chúa trong vườn cây dầu.  Cầu nguyện ở đây được hiểu là cầu kinh sớm tối.  Cầu nguyện là đọc và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh.  Cầu nguyện có thể là lần chuỗi Mân Côi, miệng đọc lòng suy.  Cầu nguyện cao đẹp nhất là tham dự thánh lễ Chúa nhật…  Tất cả những hình thức cầu nguyện trên đây, giúp người tín hữu luôn hiệp thông với Chúa, tâm hồn luôn lắng nghe những “thánh chỉ” của Chúa.

Canh thức để trung tín giữ luật Chúa: luật yêu thương, luật công bằng.  Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, người tín hữu hằng để luật Chúa như đèn soi, như kim chỉ nam cho mọi ước muốn, mọi tư tưởng, mọi lời nói và việc làm của mình.

Canh thức để phục vụ anh em: người tín hữu luôn được Chúa mời gọi để sống đời phục vụ trong bác ái và trong yêu thương.  Đời sống gia đình là môi trường phục vụ lý tưởng nhất.  Vợ chồng Kitô hữu hiến thân cho nhau, tha thứ cho nhau, biết tận tâm giáo dục con cái, biết dùng của cải Chúa ban để mưu sống gia đình, nhưng đồng thời cũng biết chia cơm sẻ bánh cho anh em nghèo đói kém may mắn hơn trên khắp thế giới.  Mỗi tín hữu còn được Chúa mời gọi để phục vụ cộng đồng, các giáo xứ, Hội Thánh, tùy theo khả năng và hoàn cảnh.

Canh thức để đón chờ Chúa đến.  Tín hữu Chúa Kitô biết rõ ràng rằng: cuộc sống trần gian, tất cả của cải đều mau qua chóng hết, không ai sống mãi, nhưng đi về vĩnh cửu.  Điều chắc chắn là mỗi người chúng ta sẽ có một ngày phải từ giã cõi đời tạm này.  Nhưng chết vào ngày giờ nào, chết cách nào, chết ở đâu?  Chẳng có ai biết được.  Do đó, tín hữu Chúa phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.

Từ ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy, người tín hữu là con cái của ánh sáng, nên phải luôn tỉnh thức để mình khỏi rơi vào đêm tối của sự chết, không mất mục tiêu, không quên ngày Chúa đến cuối đời của mình…

Lm Bùi Thượng Lưu

------------------------------------

 

SỐNG TỈNH THỨC - BẠN MƠ - CN3MV-B

  •  
    Mo Nguyen
     
    Sat, Dec 12 at 2:48 PM
     
     

    CN III Vọng B (Ga 1,6-8. 19-28)

    Có người được Chúa sai đến : ông đến để làm chứng.

    Vào cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, tức quãng năm 1959, ai cũng công nhận câu gán ghép của Đức Athenagoras, Thượng Phụ chính thống giáo Constantinople là chí lý, là rất đạt, là cực kỳ hay, khi vị thượng phụ này gán một câu Phúc Âm thời xưa để ghép cho một người thời nay, là vị giáo hoàng của Giáo Hội Công giáo Roma: “Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan” : Đây là câu Phúc âm chúng ta vừa nghe, được Đức Thượng Phụ Athenagoras Đông Phương ghép cho Đức Gioan 23, một Giáo Hoàng Roma Tây Phương.

    Câu ghép này rất ý vị vì Đức Roncalli khi lên ngôi Giáo hoàng, lấy hiệu là Gioan (chứ nếu lấy Piô, Phaolô, Benedicto, thì sao gán được); và câu ghép này thật chí lý vì quả Đức Gioan 23, nay đã được phong thánh, là người “được Chúa sai đến” thật, một vị đến làm đảo lộn, canh tân lại bộ mặt của Hội thánh, để Hội Thánh không tì ố, không vết nhăn, mặc dầu đức Gioan lúc đó đã ngót nghét 80 tuổi, khuôn mặt đã nhiều nếp gấp, khoé mắt nhiều dấu chân chim, nhưng đúng là người được Chúa sai đến, đến để làm chứng cho con người thế kỷ 20 và 21 này.

    Hôm nay ta chỉ mở đề với thánh Gioan 23 để vào đề với thánh Gioan Tẩy giả. Đề tài bài suy niệm Tin Mừng hôm nay là : Gioan, Kẻ Làm Chứng. “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng.”

    Vậy làm chứng là gì và làm chứng cái gì ? Đó là 2 điểm ta sẽ trả lời.

    1.  Làm chứng là gì ?

    - Từ Điển tiếng Việt cho ta biết: Làm chứng là đứng ra xác nhận những gì mình thấy, đã nghe… Td : Làm chứng một tai nạn giao thông. Hai người làm chứng trong Hôn phối nghe và thấy rằng đôi bạn đã bày tỏ sự ưng thuận.

    Người làm chứng thì không phải là đương sự. Như hai người làm chứng trong Hôn phối phải khác hai người ưng thuận lấy nhau. Ra toà, người làm chứng không thể là bị cáo hay nguyên đơn. Cũng vậy, Gioan được Chúa sai đến để làm chứng, thì cũng là để làm chứng về một điều gì, về một ai đó chứ không phải để làm chứng chính mình. Nếu có phải nói về mình là cũng chỉ nhằm làm chứng về người kia, như Gioan nói thẳng: không phải Kitô, tôi không phải là Êlia, không phải Ngôn sứ người ta trông đợi… “Tôi chỉ là tiếng kêu…” Gioan nói vậy để làm chứng cho những người đến dò hỏi Gioan, là hãy đi tìm Đấng Kitô nơi người khác đi.

    - Nghĩa thứ hai của làm chứng mới đáng giá. Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Phải mở chính nguyên bản Sách Thánh Hilạp xem tác giả Tin Mừng dùng chữ gì để khi nói đến làm chứng ? Thưa : từ Marturios, cũng “từ” này còn có nghĩa tử đạoLàm chứng tương đương với tử vì đạo, chết vì nghĩa. Kinh các thánh tử đạo : Lạy các thánh tử đạo là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô. Tiếng Anh, người tử vì Đạo là Martyr. Do đó, làm chứng không chỉ có nghĩa trả lời “có,” “không.” Tôi thấy cái này, tôi nghe cái kia, đưa ra bằng chứng, thế là xong, mà còn là bảo đảm cho điều mình làm chứng đi đến kết cuộc, dẫu có phải chết. Từ ngữ Việt phần nào nói được điều đó: LÀM chứng (chứ không phải “nói chứng,” “giơ chứng” «đưa chứng»: có một tích cực chứ không thụ động. Từ Hi lạp thì nói rõ : làm chứng là chết vì nghĩa. Quả Gioan đã chết vì làm chứng.

    2. Làm chứng cho cái gì ?

    Bài Tin Mừng trả lời rõ ràng cho chúng ta: “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chỉ một câu ngắn mà đã có ba chữ “ánh sáng.”

    Ánh sáng rất cần để thấy. Mắt không mù, nhưng không có ánh sáng thì cũng không thấy gì. Như trong đêm tối, đêm ba mươi, không có một tí ánh sáng gì, ta mở mắt mà đâu có thấy, phải vận dụng đôi tay sờ soạng dò đường.

    Gioan đến là để làm chứng cho Ánh Sáng. Người Do Thái mở mắt mà nhìn không ra.. “Ở giữa các ông có một vị mà các ông không biết”… “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dép cho Người.” Sau này chính Chúa Giêsu đã gọi Gioan Tẩy Gỉa là chiếc đèn (Ga 5,33-36). Đêm mà không có lửa thì không có ánh sáng, Ánh sáng dùng đèn như một phương thế để chiếu soi. ĐGH Gioan 23 khi trả lời cho câu hỏi của một phóng viên rằng ĐGH chờ đợi gì ở Công đồng Vatican này (ta nên nhớ ĐGH Gioan 23 là vị có sáng kiến triệu tập CĐ Vaticano 2). Bằng một hành động tượng trưng, đức Gioan đi về phía cửa sổ vừa mở ra vừa nói : “Chờ đợi gì ư ? Một chút gió. Mở cửa thì gió thổi vào được : Gió là Thần Khí. Mở cửa thì ánh sáng mới vào được. Ánh sáng là Đức Kitô.

    Khi tiếp vị đại sứ, đức Gioan (người được Chúa sai đến) nói : Phải rũ hết bụi đế quốc đã chồng chất lên toà thánh Phêrô kể từ thời vua Constantin ! Bụi phủ nhiều làm sao ánh sáng lọt vào. Phải phủi bụi đi thì mới thấy rõ ràng được. Đức Gioan cũng nói về Giáo Hội, sau bao thế kỷ bị phủ lên mình một lớp bụi dày: bụi cơ cấu, bụi tuyệt thông, bụi tiên báo sự dữ, tai họa… Hãy phủi đi thì anh em ly khai sẽ về, thế giới người đời sẽ tới với Giáo Hội. Hãy phủi, hãy cất những màn che để Ánh sáng Chúa Kitô lọt vào.

    Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan, ông tới để làm chứng và làm chứng cho ánh sáng.

    Người có tên là Gioan: chính là Gioan Tẩy giả; và người có tên là Gioan là thánh Gioan 23 giáo hoàng. Cả hai đều muốn làm chứng cho ánh sáng.

    Người có tên là Gioan còn là mỗi chúng ta. Khi lãnh nhận 2 bí tích Thánh tẩy và Thêm sức là chúng ta được Chúa sai đến. Trong bí tích Thánh tẩy, ta cầm nến trong tay. Trong bí tích Thêm sức, nến cũng ở trong tay ta. Điều đó muốn nói chúng ta hãy là ánh sáng, và chúng ta hãy để Ánh Sáng là Chúa Kitô đậu vào chiếu soi. Phải làm sao đích thực ta là bạn hữu của Kitô, bởi ta là Kitô hữu.

    Ánh nến có 2 công dụng : sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Hãy an ủi sưởi ấm người cùng cực, đói khổ, rét mướt… Và hãy toả sáng đức tin bằng cách sống Đạo của mình trong niềm vui không ngơi (CN III Gaudete, màu hồng). ĐGH Phanxicô với tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhắc mãi điểm này.

    Ánh nến có 2 công dụng : sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Cả 2 việc đó đều nhắm làm chứng cho Ánh Sáng. Chúng ta xin Đấng là Ánh sáng giúp chúng ta. Và chúng ta tuyên xưng Đấng là “Ánh sáng bởi Ánh sáng” trong kinh Tin Kính đây.

     

    Anphong Nguyễn Công Minh,

     
     

SỐNG TỈNH THỨC - KINH CẦU THÁNH GIUSE

 

  •  
    Chi Tran

     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     
    Kinh Ông Thánh Giuse Bầu Cử
    (đọc mỗi ngày được một ơn toàn xá, trong năm đặc biệt kính Thánh Giuse) đây là kinh nguyện chính thức của giáo hội.
     
    Lạy ơn Ông Thánh Giuse. Chúng con chạy đến cùng Người, trong cơn gian nan chúng con mắc phải. Chúng con đã kêu van cùng Rất Thánh Đức Bà là Đấng đã làm Bạn cùng Người, phù hộ gìn giữ chúng con, thì chúng con cũng lấy lòng trông cậy cho vững vàng, mà xin Ông Thánh Giuse bầu cử cho chúng con như vậy.
    Chúng con xin vì nhân đức kính mến, mà Người làm Bạn cùng Rất Thánh Đồng Trinh là Mẹ Chúa Trời, và là Đấng chẳng mắc phải tội tổ tông truyền, cùng vì lòng thương Người đã ẵm lấy Đức Chúa Giêsu, thì chúng con xin Ông Thánh Giuse ghé mặt lại mà thương đến Hội Thánh, là phần sản nghiệp Đức Chúa Giêsu đã lấy Máu Thánh mình mà chuộc. Lại xin Người dùng sức mạnh thiêng liêng và quyền phép Người, mà giúp đỡ những sự chúng con còn thiếu thốn.
    Lạy Đấng đã coi sóc Đức Chúa Giêsu cùng Đức Bà cho cẩn thận, thì chúng con xin Người bênh vực con cái Đức Chúa Giêsu đã chọn. Lạy Cha rất thương yêu! Chúng con xin Người cất mọi sự dối trá cùng mọi tội lỗi, cho chúng con khỏi mắc phải những sự ấy. Lạy Đấng rất mạnh đang ở trên trời hay gìn giữ chúng con, xin Người dủ lòng thương mà che chở chúng con đang khi chiến trận cùng kẻ thù tối tăm là các ma quỉ. Như xưa Người đã gìn giữ Đức Chúa Giêsu cho khỏi cơn hiểm nghèo thế nào, thì rầy chúng con cũng xin Người cứu chữa lấy Hội Thánh, cho khỏi các mưu kế giặc thù, và các sự gian nan khốn khó như vậy, cùng xin Người hằng bầu cử cho chúng con được bắt chước Người, và trông cậy vì quyền thế Người, cho được giữ đạo cho trọn, cùng được chết lành, và được hưởng phúc vô cùng trên thiên đàng. Amen.
     
     
     

 

 

SỐNG TỈNH THỨC - CN3MV-B

  •  
    Hong Nguyen
     
    Sat, Dec 12 at 2:27 PM
     
     

    Hãy Ăn Năn Sám Hối - Suy Niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng B

    Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28

    Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày hôm nay vẫn còn đang trông chờ Đấng Mêsia. 
     

    Họ trông mong Đấng Mêsia đến sẽ mang hòa bình cho cả thế giới, chính vì thế họ mong đợi một vị tướng lãnh vô địch, sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do Thái đi chinh phục cả thế giới để đem hòa bình cho mọi dân tộc. Chính vì thế khi Gioan xuất hiện, người Do Thái cho là Đấng Messia đã đến, nhưng Gioan trả lời: Tôi không phải là Đấng Messia, tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc chuẩn bị cho Đấng Messia đến.
     

    Vậy ông lấy quyền gì mà làm Phép Rửa?
     

    Ông trả lời: “về phần tôi, tôi làm Phép Rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không nhận biết, tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài”. 
     

    Quả thật Gioan đã đến Sông Giođan làm Phép Rửa và kêu gọi sám hối. Đây là điều kiện để lãnh nhận ơn Cứu Độ. Nhưng tinh thần sám hối đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành động, nghĩa là nó phải dẫn đến sự cải thiện, sửa chữa, chừa cải...việc sám hối và tu sửa phải được thực hiện không chỉ nơi cá nhân mà trong Giáo Hội và xã hội nữa.
     

    - Nơi cá nhân: cá nhân nào cũng đều có những tật xấu, khuyết điểm, kiêu căng, tham lam, đố kỵ, ghen hgét, lười biếng, hèn nhát...
     

    - Trong Giáo Hội và xã hội: Giáo Hội hay xã hội nào cũng đều có bất công, những cơ chế phát sinh bất công, những luật lệ phi lý, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ nạn...tất cả đều làm cho  con người trong tập thể đau khổ, trì trệ, không phát triển.
     

    Hiện nay, trong đời sống tâm linh, rất nhiều Kitô hữu chỉ nghĩ tới việc nên thánh cá nhân, sự cứu rỗi cá nhân, mà quên đi chiều kích Giáo Hội và xã hội của ơn Cứu Rỗi và sự nên thánh. Họ quan niệm việc nên thánh hay cứu rỗi của họ có thể thực hiện một mình, độc lập với những người chung quanh... nghĩa là họ có thể nên thánh, được cứu rỗi mà không cần nghĩ gì đến xã hội và Giáo Hội, bất chấp đến những bất công, trì trệ hay những thành quả tốt đẹp của Giáo Hội và xã hội. Họ cho rằng họ có thể nên thánh và được cứu rỗi mà không cần nghĩ đến những người chung quanh xem họ có nhu cầu gì, đau khổ hay hạnh phúc ra sao.
     

    Thiết tưởng tinh thần cốt yếu của Kitô giáo là tình yêu, một tình yêu trải rộng đến mọi người không phân biệt bạn thù, giầu nghèo, giai cấp...tiêu chuẩn cuối cùng để Thiên Chúa xét đoán sự công chính của mỗi người là tình yêu họ dành cho tha nhân (Mt 25,31-46). Nên sự sám hối cũng như sự tu sửa của người Kitô hữu để đón Chúa đến phải nhắm đến tình yêu, sự quan tâm của mình đối với tha nhân, đối với xã hội, quê hương, đất nước và toàn thể nhân loại. Trong chiều hướng đó, Lời Chúa hôm nay 
     

    "hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng" cần phải được hiểu không chỉ áp dụng cho bản thân mỗi cá nhân mà còn cho cả Giáo Hội và xã hội nữa.
     

    Tuy nhiên, thực hiện việc Sám Hối không phải dễ, cũng như không phải làm một lần là xong như câu chuyện "một nữ giang hồ trở thành một vị thánh". Angiêla là con gái của một gia đình quí phái ở thị trấn Phôlnhô nước Ý, lại sống giữa bầu không khí xa hoa và ảnh hưởng xấu xa nơi bạn bè, Angiêla (1248-1309) đã sớm trở nên một thiếu nữ trụy lạc. 
     

    Sau khi lập gia đình, Angiêla vốn có tâm hồn nhạy cảm, ham khoái lạc, nên vẫn thích cuộc đời giang hồ nay đây mai đó. Vào một ngày trong năm 1285, đang trên con đường gió bụi, Angiêla gặp cơn giông tố, chị hoảng sợ chạy vào một nhà thờ gần đó để kêu cầu Chúa ngự trong Thánh Thể giúp đỡ. Angiêla xin cha xứ ở đây giải tội cho chị, nhưng chị đã không xưng hết tội nặng, lại liều mình chịu Mình Thánh Chúa.
     

    Hành động này đã làm tâm hồn chị xao xuyến, lương tâm cắn rứt đêm ngày không yên. Nhưng chị không ngã lòng nản chí, chị tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban cho mình được gặp một linh mục giải tội khôn ngoan, thánh thiện để hoàn toàn tuân theo lời chỉ dẫn của ngài.
     

    Sống trong tâm trạng lo âu, băn khoăn xao xuyến, nhưng chị vẫn tin tưởng vào Chúa, Ngài sẽ giúp chị vượt qua con đường gian nan này. Rồi một đêm kia dưới ánh trăng dịu dàng, Angiêla nâng hồn lên khẩn cầu thánh Phanxicô Assisi giúp đỡ. Thánh nhân đã hiện ra với chị và nói:
     

    - Nếu con xin cha sớm, thì cha đã cứu con, nhưng cha sẽ nài xin Chúa nhận lời con.
     

          Sáng hôm sau, khi cảnh vật còn chìm trong giấc ngủ, Angiêla đã thức dậy thật sớm để đi lễ ở nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, và xin Chúa cho chị được gặp linh mục để xưng tội. Khi trở về, chị ghé vào nhà thờ thánh Fêlixianô để viếng Thánh Thể. Ở đây, Angiêla đã gặp một cha dòng Phanxicô và chị đã xưng hết các tội đã phạm. Sau bao ngày ưu tư lo lắng, lương tâm ray rứt, giờ đây chị đã tìm lại được sự bình an đích thực trong tâm hồn. Sau khi xưng tội rước lễ, Angiêla quyết xây dựng cuộc đời mới, cuộc đời suy niệm sự đau khổ của Chúa Giêsu, khấn giữ mình trong sạch và khó nghèo. Chị đem quần áo tốt đẹp phân phát cho người nghèo. Và để được kết hợp mật thiết với Chúa hơn, chị còn muốn bán hết gia tài làm phúc cho người nghèo rồi đi ăn xin. Nhưng vâng lời cha linh hướng, chị không bán nhà cửa, mà chỉ sống đời trần thế, suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa, và làm phúc cho người nghèo khó.
     

    Năm 1291, Angiêla vào dòng ba Phan Sinh, chị sung sướng tuân giữ luật dòng, chị thường xuyên đi thăm viếng các bệnh nhân, phân phát những của đã xin được cho người nghèo, rửa tay chân cho họ, và đặc biệt lau chùi tay chân những người mắc bệnh phong cùi. Chị đã làm như thế suốt cuộc đời của chị.
     

    Năm 1693, Đức Giáo Hoàng Innôxentê phong chị Angiêla lên bậc Chân Phước. Từ một người tội lỗi, Chân Phước Angiêla đã biết lấy tình yêu nồng nhiệt để bù lại những lỗi lầm quá khứ. Hành động đó là bài học muôn đời cho những con người tội lỗi biết ăn năn sám hối.  Amen.
     

    Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
    Kính chuyển:
    Hồng