2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - TGM SAIGON

  • TGM NGUYỄN NĂNG

    Thứ Tư tuần 14 Thường niên năm II - Sai đi rao giảng Tin Mừng (Mt 10,1-7

    Tin mừng: Mt 10, 1-7

    1 Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

    2 Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông;

    3 ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô;

    4 ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người.

    5 Đức Giê-su sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng:

    6 Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.7 Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần.

     

    1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

    Sứ điệp: Chúa Giêsu sai các tông đồ và toàn thể Hội Thánh đi loan báo Nước Thiên Chúa đến gần, Chúa muốn chia sẻ chính sứ mạng của Chúa. Để ta chu toàn sứ mạng này, Chúa đã ban ơn chế ngự các thần ô uế.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, con được Chúa ban sự sống của Chúa, được làm con Thiên Chúa. Và đồng thời ngay lúc ấy, con cũng được Chúa trao ban sứ mạng cứu độ của Chúa. Chúa cho con trở nên một chứng nhân, một dấu hiệu của Nước Chúa, được trở nên ánh sáng cho thế gian, nên muối ướp cho đời, nên men thấm vào trong bột.

    Đó là một ân huệ cao cả. Con dâng lời cảm tạ Chúa. Xin Chúa giúp con tích cực làm chứng cho Chúa trong môi trường sống của mình, trong gia đình, nơi giáo xứ, tại chỗ làm việc hay học tập của con. Chính trong môi trường sống hằng ngày mà Chúa đã sai con đến để loan báo Nước Trời đã đến. Xin cho con ý thức rằng mỗi lời con nói, mỗi công việc con làm, mỗi thái độ sống của con, đều có thể trở nên dấu chỉ của Chúa, đều có thể là tiếng loan báo sự hiện diện của Nước Trời.

    Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ có quyền trên các thần ô uế. Hằng ngày con cũng được Chúa ban ơn thánh hóa để con được hiện diện giữa lòng đời như một yếu tố làm sạch cuộc sống. Để có thể góp phần thay đổi bộ mặt cuộc sống này, xin Chúa giúp con biết quý trọng và duy trì ơn thánh Chúa trong con. Xin giúp con sống trung thành với ơn gọi Kitô hữu.

    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho các tông đồ sức mạnh chữa các bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng hôm nay, chính Chúa đã đích thân đến chữa lành tâm hồn con bằng Mình Máu Chúa. Con xin dâng lời tạ ơn và đón nhận hồng ân cao quý này. Amen.

    Ghi nhớ: “Các con hãy đến cùng chiên lạc nhà Israel”.
    Kính chuyển:
    Hồng
     

BÁNH SỰ SỐNG LC - LM NGUYỄN CÔNG ĐOAN

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - TGP SAIGON

  •  TGM NGUYỄN NĂNG

    Thứ Ba tuần 14 Thường niên năm II - Chạnh lòng thương (Mt 9,32-38)

    Tin mừng: Mt 9, 32-38

    32 Họ vừa đi ra thì người ta đem đến cho Đức Giê-su một người câm bị quỷ ám. 33 Khi quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được.

    34 Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: “Ở Ít-ra-en, chưa hề thấy thế bao giờ!” Nhưng người Pha-ri-sêu lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.”

    35 Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

    36 Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.

    37 Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít.

    38 Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”

     

    1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

    Sứ điệp: Trái tim của Chúa Giêsu là trái tim của người mục tử nhân hậu. Chúa chạnh lòng thương xót và cứu vớt đàn chiên lầm than vất vưởng. Chúa còn dạy ta cầu nguyện để Chúa Cha ban những người nối tiếp sứ mạng mục tử ấy.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là mục tử nhìn thấy những nỗi lầm than vất vưởng của đàn chiên Chúa, và Chúa đã đến cứu giúp chúng con. Với trái tim giàu lòng thương xót, Chúa đã làm tất cả những gì có thể làm để chúng con được sống và sống sung mãn. Chúa quan tâm chăm sóc từng người chúng con. Con tạ ơn Chúa.

    Lạy Chúa, khi xưa chính Chúa đã tiêu diệt sự thống trị của ma quỷ. Chính Chúa đã rao giảng Tin Mừng Nước Trời, đã đi tìm những con chiên lạc, đã nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa, và chính Chúa đã chữa lành những bệnh nhân.

    Ngày nay, con tin rằng chính Chúa cũng đang yêu thương chăm sóc con qua sự hiện diện của các mục tử. Con tạ ơn Chúa vì qua các mục tử, chính Chúa đang dạy dỗ, an ủi và khích lệ con, chính Chúa tha thứ tội lỗi và vỗ về ôm ấp con như con chiên lạc trở về, chính Chúa quy tụ và nuôi dưỡng con nơi bàn tiệc Thánh Thể. Xin Chúa giúp con cảm nhận được lòng thương xót bao la của Chúa.

    Lạy Chúa, xin Chúa ban cho Hội Thánh có được những mục tử như lòng Chúa mong muốn, những mục tử giàu lòng thương xót và tận tình phục vụ đàn chiên. Đặc biệt xin Chúa thương xót những đàn chiên thiếu vắng mục tử. Xin Chúa an ủi họ và ban cho họ sớm có chủ chăn. Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Xin Chúa ban cho chúng con những thợ gặt. Amen.

    Ghi nhớ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
    Kính chuyển:
    Hồng
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - GIẢI ẢO CUỘC SỐNG

  •  
    Giải Ảo Cuộc Sống
    Tue, Jul 5 at 7:45 AM
     
     

    Người Kitô hữu phải biết phẫn nộ trước tội ác

     

    https://tamlinh-tongiao.blogspot.com/2022/07/kito-huu-phai-biet-phan-no-truoc-toi-ac.html

     

     Lời mở đầu (lý do viết bài này): Cuối năm 2000, khi thấy linh mục Nguyễn Văn Lý lên tiếng cho tự do tôn giáo, tôi cảm thấy không ủng hộ ngài thì lương tâm tôi bứt rứt khó chịu lắm. Để ngài lên tiếng một mình thì quả nguy hiểm cho ngài, tôi nghĩ phải có nhiều người lên tiếng ủng hộ ngài thì ngài đỡ bị nguy hiểm. Nhưng lên tiếng ủng hộ thì tôi sợ lắm, vì tôi rất nhút nhát, tôi sợ chế độ độc tài sẽ không để tôi yên. Vả lại, tôi còn gia đình phải bảo vệ và nuôi dưỡng nữa. Đầu năm 2001, khi tâm sự nỗi lòng với một người bạn, anh này bảo: «Sống theo lương tâm thì phải trả giá, anh Kết ơi! Nếu không chấp nhận trả giá thì anh đừng bao giờ tự hào rằng mình sống theo lương tâm nữa nhé!» Chỉ vì câu nói trên mà ngay chiều hôm ấy, tôi bắt đầu liều lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh của linh mục Nguyễn Văn Lý, bất chấp chuyện gì xảy ra.

     

    Nay thấy tình trạng khốn khó (đầy ẩn khuất) của linh mục Đặng Hữu Nam, người tôi rất cảm phục vì đã dám can đảm đấu tranh rất anh dũng để bênh vực những người thấp cổ bé miệng bị cường quyền đối xử bất công,  lương tâm tôi cũng buộc phải viết bài này!

    Nguyễn Chính Kết

     

     

     

    ● Trước tình trạng bất công, áp bức, tội ác tràn lan trong xã hội mà tôi không cảm thấy phẫn nộ đối với những kẻ gây nên tình trạng ấy thì... tôi là hạng người gì?

    ● Thấy anh em của mình bị kẻ có quyền hiếp đáp mà tôi không can thiệp hay lên tiếng bênh vực, thì... tôi là loại người gì?

    Thiết tưởng chẳng ai lại không trả lời được, phải không?

    Để trả lời cho những câu hỏi trên, năm 2020, đáp lại Thượng Hội Đồng Giám mục vùng Pan-Amazon họp tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban Tông huấn Quêriđa Amazônia.  Trong Tông Huấn đoạn 15 có tựa đề «Cảm thấy phẫn nộ và cầu xin tha thứ», Ngài viết: 

    «Chúng ta cần phải phẫn nộ như Môsê từng phẫn nộ (xem sách Xuất Hành 11:8), hay như Chúa Giêsu đã từng giận dữ (xem Tin Mừng Máccô 3:5), hay như Thiên Chúa đã từng nổi giận trước bất công (xem Ngôn sứ Amót 2:4-8; 5:7-12; Thánh vịnh 106:40). Quả là không tốt khi chúng ta trở nên quen thuộc với cái ác; quả là không tốt khi ý thức xã hội của chúng ta bị mờ nhạt trước “tình trạng bóc lột đang để lại sự hủy hoại và thậm chí chết chóc trên khắp khu vực của chúng ta... nó gây nguy hiểm cho cuộc sống của hàng triệu con người và đặc biệt là môi trường sống của nông dân và người dân bản địa”».

    Vậy thì trước những bất công và tội ác tràn lan trong xã hội Việt Nam hiện nay, cụ thể và điển hình như vụ đại tham nhũng Việt Á xảy ra trong mùa đại dịch vừa qua, đã cướp tiền và gây chết oan biết bao người dân vô tội; hay như vụ Formosa năm 2016 gây cá chết hàng loạt khiến người dân khắp 4 tỉnh Miền Trung phải điêu đứng khốn khổ, mà khốn thay, nhà cầm quyền lại đứng về phía kẻ gây tội ác; hay như hàng ngàn gia đình người dân Thủ Thiêm bị cướp đất cách bất công suốt mấy thập niên vừa qua... Chẳng lẽ những người còn lương tri lại vô cảm như không có chuyện gì xảy ra?

    Trước tình trạng xuống cấp về đạo đức với vô số những hành vi bạo lực gia đình, bạo lực học đường, bạo lực nơi công cộng…; trước các tệ nạn xã hội phổ biến như cờ bạc, nghiện hút, mại dâm, tống tiền, cướp của, giết người…; trước tình trạng đạo đức trong nghề nghiệp bị sa sút trầm trọng cả trong những lĩnh vực vốn được xã hội tôn vinh như y tế, giáo dục, luật pháp, báo chí…; trước lãnh vực Giáo dục mấy thập niên qua thường xuất hiện thói gian lận thi cử, mua bằng bán chức, hối lộ thầy giáo bằng việc bán dâm…; trước thói dối trá, đạo đức giả, bất chính, thủ đoạn, các hình thức chạy chức, chạy danh, chạy quyền, chạy lợi, chạy tội trở nên thường tình trong cả dân chúng lẫn các cơ quan công quyền… Trước tình trạng đạo đức xuống cấp như thế trong xã hội, chẳng lẽ những bậc lãnh đạo tôn giáo lại có thể vô cảm, vô tâm, vô trách nhiệm để không có phản ứng nào thích hợp sao?

    Theo tinh thần Tông huấn Quêriđa Amazônia của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói trên, thì người sống đạo đức Kitô giáo, nhất là những người rao giảng đạo đức ấy phải biết biểu lộ phẫn nộ, ít nhất bằng những lời nói hay việc làm cụ thể, chứ không thể tỏ ra vô cảm, vô trách nhiệm làm như mọi sự vẫn đang luôn luôn tốt đẹp.

    Lương tâm tôi cảm thấy cảm phục và phải ca tụng những người dân dù thấp cổ bé miệng nhưng vẫn dám biểu lộ sự phẫn nộ bằng lời nói, bằng hành động trước những tội ác, bất công lan tràn trong xã hội, bất chấp bị cường quyền khủng bố vì sự biểu lộ phẫn nộ ấy. Thật đáng cảm phục những Phạm Đoan Trang, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Trung Tôn, những Hoàng Đức Bình, Nguyễn Năng Tĩnh, Nguyễn Văn Hóa, đặc biệt gia đình Cấn Thị Thêu, v.v...

     

    Là người có tôn giáo, tôi cũng rất cảm phục những vị lãnh đạo tôn giáo dám nói lên tiếng nói lương tâm, không chấp nhận làm những «con chó câm», từ ngữ mà Cựu Giáo Hoàng Bênêđích 16 dùng để gọi những vị Giám mục chấp nhận câm lặng trước những bất công xã hội. Thật đáng phục những vị lãnh đạo tôn giáo từng biểu lộ sự phẫn nộ trước những tội ác và bất công xã hội, trước nhân quyền bị chà đạp, tôn giáo bị đàn áp, như Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Hòa thượng Thích Không Tánh, Linh mục Phan Văn Lợi, Mục sư Nguyễn Hồng Quang, Chánh Trị Sự Hứa Phi, v.v...

     

    Gần đây nhất, một vị lãnh đạo tôn giáo mà tôi rất cảm phục, đó là Linh mục Đặng Hữu Nam đã cùng với Linh mục Nguyễn Đình Thục và rất nhiều người dân, kiên cường đấu tranh cho người dân 4 tỉnh Miền Trung, nạn nhân của Công ty Formosa trong vụ cá chết hàng loạt, khiến người dân tại đây trở nên vô cùng khốn khổ, bất chấp bị bạo quyền hành hung, gây khốn khổ đủ điều. Hai linh mục trên cũng đã biểu lộ sự phẫn nộ trước tội ác và bất công xã hội qua đủ mọi phương tiện truyền thông, kể cả qua những bài giảng trong thánh lễ. Cuộc đấu tranh của hai vị, theo tôi nghĩ, đó chính là thánh lễ bằng cuộc sống, nối dài thánh lễ mà hai vị đã dâng ban sáng mỗi ngày. Đó chính là ý nghĩa lời cuối cùng của các linh mục khi kết thúc thánh lễ: «Ite, missa est» mà tôi thích cách dịch sát là «Hãy ra đi, đó chính là thánh lễ» (Go, it is the Mass / Allez, voilà la Messe). Tôi thường hiểu câu ấy là: việc ra đi để đem đạo vào đời cũng chính là thánh lễ. Thánh lễ này được thực hiện bằng chính đời sống thực tế, nó tiếp nối và cụ thể hoá bằng hy sinh thật sự thánh lễ mang tính bí tích, nghĩa là mang tính tượng trưng hay biểu tượng, mà các Kitô hữu đã dâng trước đó trong thánh đường.

     

    Nhiều người cho rằng việc lên tiếng trong bài giảng của thánh lễ để bênh vực những người dân bị áp bức, chống lại những kẻ gây tội ác là không đúng, không được phép. Tôi xin hỏi những người này rằng: 

    ● Tại sao lại không được nói trong bài giảng của thánh lễ những điều mà lương tâm và chức vụ ngôn sứ của linh mục đòi buộc phải làm? 

    ● Mục đích của việc tấn phong linh mục hay giám mục là để làm gì? Chẳng lẽ trong hội đường Do Thái, Đức Giêsu trưng dẫn lời ngôn sứ Isaia chương 61 câu 1 là không đúng sao? Khi ấy Ngài đọc: «Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã XỨC DẦU TẤN PHONG  tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi CÔNG BỐ cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, TRẢ LẠI TỰ DO cho người bị áp bức, CÔNG BỐ một năm hồng ân của Chúa.» (Luca 4:18-19).

     

    Rõ ràng theo Thánh Kinh thì việc xức dầu tấn phong một ai làm ngôn sứ, đâu phải chỉ là để người ấy loan báo Tin Mừng mà thôi, mà còn để người được tấn phong giúp kẻ bị giam cầm bất công được tha, cho người mù thể chất hay tinh thần được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức… Nhiều vị được tấn phong làm ngôn sứ thời nay dường như đã quên hẳn mấy bổn phận quan trọng nhất trong chức năng ngôn sứ mà mình đã lãnh nhận khi lãnh chức linh mục rồi! Nếu làm ngôn sứ chỉ để loan báo Tin Mừng mà thôi, thì tại sao các ngôn sứ thật lại bị người đời bạc đãi, như Đức Giêsu từng xác định? (xem Mátthêu 5:12b; 23:34-35). Chắc chắn là vì các vị đã lên tiếng tố cáo những sai trái hay tội lỗi của dân chúng và cả những kẻ đang nắm quyền, dù là thế quyền hay giáo quyền. Cái chết của Gioan Tẩy giả và của Đức Giêsu là những minh chứng cụ thể. 

    Tôi lấy làm lạ, thậm chí rất lạ, đó là Đức Giêsu được gọi là «Đấng Cứu Thế», thế mà những người mang danh là môn đệ của Ngài, đã nguyện theo chân Ngài, coi Ngài là mẫu gương để noi theo cả đời, lại chẳng được bao nhiêu vị có tinh thần «Cứu Thế» thật sự. Trái lại, điều mà họ chú trọng nhất lại chỉ là những nghi thức tôn giáo, mà đọc suốt 4 sách Tin Mừng và các sách khác của Tân Ước, tôi không hề thấy Đức Giêsu và các vị viết Thánh Kinh có chỗ nào đề cao hay coi trọng các nghi thức tôn giáo cả. Chính Đức Giêsu từng nói: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mátthêu 9:13). Qua câu này, những người rao giảng Tin Mừng lẽ ra phải nhận ra Thiên Chúa, hay Đức Giêsu coi trọng cái nào hơn cái nào chứ! Đọc kỹ Thánh Kinh, tôi có cảm tưởng như nhiều Kitô hữu, kể cả nhiều vị lãnh đạo, đã bị lạc đạo trong quan niệm và trong thực hành.

    Nghi thức tôn giáo mà Đức Giêsu thực hiện trong cuộc đời của Ngài, chính là cuộc tử nạn trên thập giá chỉ vì «yêu thương nhân loại đến cùng» (Gioan 13:1b). Chính vì yêu thương nhân loại như thế, Ngài đã từ bỏ chức vị Thiên Chúa vô cùng cao sang để sinh xuống làm người thấp hèn, hầu chia sẻ thân phận con người, hầu trải nghiệm thực tế những đau khổ, yếu đuối của họ để thông cảm và tha thứ cho họ. Cuối cùng Ngài đã chết đau khổ và nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc con người. Chính việc chết vì yêu thương con người ấy là nghi thức tôn giáo đẹp lòng Thiên Chúa nhất, và được Giáo Hội coi là hy tế hay nghi thức tôn giáo quan trọng nhất. Nghi thức ấy được thực hiện trong đời thực với sự hy sinh cụ thể, chứ đâu chỉ là những biểu tượng mà thực hiện thì chẳng cần một chút hy sinh! Trong khi bản chất của mọi hy tế đều đòi hỏi phải có hy sinh, không có hy sinh thì không thể gọi là hy tế được!

    Nghi thức tôn giáo đầu tiên của Tân Ước ấy được Đức Giêsu cử hành một cách tượng trưng trong bữa tiệc ly khi Ngài cầm lấy bánh và rượu rồi nói: «Đây là thân thể Thầy, anh em hãy cầm lấy mà ăn» và «Đây là chén máu Thầy sẽ đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội» (Mátthêu 26:26-28, Máccô 14:22-25). Ngài còn nhắc nhở: «Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy» (xem Luca 22:19-20).

     

    Điều tôi lấy làm lạ, đó là cách nhiều người hiểu câu «Anh em hãy LÀM VIỆC NÀY mà nhớ đến Thầy». Trong bữa tiệc, Ngài đã thực hiện một số hành động tượng trưng cho lễ tế hy sinh mà Ngài sẽ thật sự thực hiện, bắt đầu ngay đêm hôm ấy. Nhưng những môn đệ theo Ngài những thế kỷ sau này chủ yếu chỉ hiểu câu ấy và thực hiện câu ấy bằng cách lập lại một cách hình thức những gì Ngài đã làm một cách tượng trưng trong bữa tiệc ly hôm ấy, rồi coi đó là nghi thức tôn giáo quan trọng nhất, mà không hiểu câu ấy theo nghĩa tâm linh. Nghĩa là phải thực hiện câu ấy bằng tinh thần «tự hiến tế trong đời sống», sẵn sàng «bị ăn», «bị nộp» và «đổ máu ra» để cứu mọi người, như Ngài đã thật sự làm qua cái chết của Ngài trên thập giá. Lập lại những nghi thức tượng trưng ấy cũng là điều tốt, nhưng thực hiện tinh thần «tự hiến tế trong đời sống» như Ngài đã làm mới chính là ý nghĩa đích thực của câu nói ấy.

    Theo tinh thần của câu Tin Mừng «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mátthêu 9:13), thì tôi nghĩ câu «Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy», Đức Giêsu nói câu ấy với ý nghĩa tâm linh và tinh thần, chứ không phải với ý nghĩa hình thức và máy móc như nhiều người đã hiểu. Tân Ước tiến bộ hơn Cựu Ước ở chỗ đặt nặng tâm linh hơn hình thức, bề trong hơn bề ngoài, nên không thể hiểu câu trên theo nghĩa hình thức được. Tôi rất phục cách Linh mục Antoine Chevrier, người sáng lập Hội Các Linh Mục Prado, đã hiểu theo nghĩa tâm linh câu nói trên của Chúa Giêsu. Cha nói: «Linh mục là người bị ăn. (Linh mục) phải trở nên thứ bánh ngon» (Le prêtre est un homme mangé. Il faut devenir du bon pain / The priest is an eaten man. He has to become good bread). Trở nên «bánh» để «bị ăn», và trở nên «rượu» để «bị uống» theo nghĩa của cha Chevrier, tôi nghĩ như thế mới là thực hiện đúng nghĩa nhất câu của Đức Giêsu: «Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy».

    Vậy thì khi một linh mục dùng bài giảng trong thánh lễ để lên tiếng bênh vực những người đau khổ theo tinh thần của sách Châm Ngôn trong câu «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Sách Châm Ngôn 31,8-9), tôi nghĩ đó là một việc làm rất đúng của một ngôn sứ đích thật. Mục đích của bài giảng trong thánh lễ là để làm gì? là để giúp người tham dự hiểu Tin Mừng, nhất là hiểu để sống hay để thực hiện được điều cốt yếu nhất của Tin Mừng là tình yêu thương đồng loại, dám chấp nhận «bị ăn», «bị nộp», «bị đổ máu», nghĩa là dám hy sinh, đau khổ một cách cụ thể để thực hiện tình yêu thương ấy. Điều đó tốt hơn là chỉ đọc và giải thích lời Chúa, mà không đưa ra một mẫu gương hy sinh cụ thể nào của chính mình hầu người nghe có thể noi gương bắt chước.

    Nghĩ như thế, tôi cho rằng Linh mục Đặng Hữu Nam không có gì sai trái khi trình bày trong bài giảng của mình những bất công xã hội, hay vạch ra những sai trái của nhà cầm quyền, hầu bênh vực những người thấp cổ bé miệng đang chịu những uất ức, đau khổ do chế độ bất công gây nên. Đức Giêsu thường tự đồng hoá chính Ngài với những người «thấp cổ bé miệng» ấy (xem Matthêu 25:40.45). Vì thế, bênh vực những người «thấp cổ bé miệng» ấy chính là bênh vực hiện thân của Đức Giêsu đấy! Chẳng lẽ làm những điều tốt đẹp ấy cho những hiện thân của Đức Giêsu trong các bài giảng lại là sai trái sao? là làm mất lòng Thiên Chúa sao? 

    Trái lại, tôi nghĩ không có môi trường nào thích hợp hơn để thực hiện sứ mạng ngôn sứ của linh mục bằng những bài giảng trong nhà thờ, hay khi dạy giáo lý, nhất là trong cái chế độ độc tài luôn tìm đủ mọi cách ngăn chặn tất cả những thông tin đúng đắn nhưng bất lợi cho họ. Những ai tự nhận mình là ngôn sứ, hãy thực hiện chức năng ngôn sứ của mình, đừng mang danh ngôn sứ để được mọi người kính trọng, ưu đãi, nhưng trong thực tế thì lại hành động như những ngôn sứ giả.

    Đức Giêsu đã báo trước rằng, vào thời mạt pháp, tức thời cuối cùng trước khi Ngài trở lại, sẽ xuất hiện nhiều ngôn sứ giả. Ngài nói: thời ấy, «sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát» (Mátthêu 24,11-13). Hiện nay chính là thời mạt pháp, điều Ngài tiên báo ấy đang xảy ra trước mắt mọi người, trong xã hội và trong cả các tôn giáo.

    Nhưng làm sao phân biệt được ngôn sứ nào là thật và ngôn sứ nào là giả? Quả thật, Thánh Phaolô cũng phải công nhận việc phân biệt ấy thật khó, thậm chí rất khó, vì ngài viết: «chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!» và «có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó (tức Xatan) lại đội lốt người phục vụ sự công chính» (thư thứ 2 Côrintô 11:14-15). Trong cuộc sống thực tế hiện nay, khi mua hàng, quả thật phân biệt được hàng thật và hàng giả không dễ chút nào. Hàng giả nhiều khi còn «có vẻ thật» hơn cả hàng thật nữa. Phải bị lầm nhiều lần mới rút được kinh nghiệm để phân biệt.

    Trở lại vấn đề phân biệt các ngôn sứ, Đức Giêsu đã đưa ra một số nguyên tắc hay tiêu chuẩn: «Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì họ biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai» (Mátthêu 7:15-20). Ngài cũng đưa ra tiêu chuẩn để phân biệt giữa mục tử và người chăn thuê: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên. Kẻ chăn thuê, vì không phải là mục tử và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên»  (Gioan 10:11-13).

    Thiết tưởng với những tiêu chuẩn trên của Đức Giêsu, người thông minh và biết nhận xét một chút cũng có thể phân biệt được thật giả. Nói chung, một cách tổng quát, ngôn sứ thật thời nào cũng bị người đồng thời –có thể là chính quyền, giáo quyền, người đồng đạo, người khác đạo– hiểu lầm, vu khống, chụp mũ, bách hại, ném đá, đưa ra tòa, hành hung, truy nã; thời xưa, nhiều ngôn sứ còn bị đưa lên giàn hỏa, đóng đinh thập giá, v.v… Số phận của các ngôn sứ thật đều bị như thế cả, như lời Đức Giêsu đã nói cách đây 2000 năm (xem Mátthêu 5:12b; 23:34-35). Còn ngôn sứ giả thì thường được người đồng thời, nhất là thế quyền, ưu đãi (xem Luca 6:22-23 và 26), vì họ thường đứng về phía kẻ có thể ban phát quyền và lợi cho họ .

    Vì thế, hỡi những người đã chấp nhận làm ngôn sứ đích thật, hãy vui vẻ chấp nhận luôn cách người đồng thời đối xử với mình, đừng buồn tủi làm gì!  Đức Giêsu đã chẳng báo trước điều ấy sao?

    «Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi» (Matthêu 10:24-25).


     Nguyễn Chính Kết

     

     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - TS DUYỆT

  •  
    DM Tran

     NGƯỜI SAMARI CHẠNH LÒNG THƯƠNG!

    LUCA 10, 25-37

     

    Trần Mỹ Duyệt

     

     

    Trong một trích đoạn Tin Mừng, Thánh Sử Luca 10, 25-37 đã ghi lại một bức tranh cảm động, diễn tả một người lữ hành giữa đường bị rơi vào tay bọn cướp. Người này bị chúng đánh nửa sống, nửa chết nhưng may nhờ có người hảo tâm cứu sống. Những nét chính của đoạn Phúc Âm này có thể được tóm lại như sau:

     

    Có người thông luật kia đứng lên hỏi Chúa Giêsu để thử Ngài: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” Khi biết rõ điều mình phải làm đó là thương yêu anh chị em mình, luật sỹ này còn muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Có lẽ chỉ chờ dịp này, Ngài đã đưa ra một câu truyện thay cho lời giải đáp về một người từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Cuối cùng là một người Samari đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông lại gần, lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, trước khi tiếp tục cuộc hành trình, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” Kết luận, Chúa Giêsu đã nói với luật sỹ ấy câu này: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” (10:25-37)

     

    Suy niệm kỹ hơn về đoạn Tin Mừng này, có những điểm mới đọc qua tưởng như nhỏ mọn, không đáng quan tâm, nhưng thực sự nó lại rất quan trọng và gần gũi với đời sống tâm linh của mỗi người, cũng như rất gần gũi với đời sống tâm linh của từng người chúng ta.  

     

    Con đường mà người bị cướp đánh đó dài ba mươi cây số từ Giêrusalem đến Giêricô, băng qua giữa sa mạc, có những khúc quanh đầy trộm cướp. Đó chính là biểu tượng cho hành trình của mỗi người chúng ta từ nơi mình được sinh ra chào đời cho đến khi về đến Giêrusalem trên trời là thiên đàng. Đường đời của mỗi người dài hay ngắn: 20, 30, 50, 70, 90 hay 100 năm, nhưng chắc chắn một điều là trên con đường này bằng cách này hay cách khác, chúng ta sẽ bị bọn cướp (Satan và bè lũ chúng) đón đánh nhiều trận. Đó là những lúc chúng ta bị ma quỉ, thế gian, xác thịt cám dỗ, rồi sa ngã, và phạm tội!     

     

    Nhưng tại sao cho đến hôm nay chúng ta vẫn sống sót, đó phải chăng là chúng ta đã gặp được những người quyền thế, thông thái, giầu có, đạo đức, nhất là thân thiết ra tay giải cứu và giúp đỡ?  Không. Những người như vị tư tế và Lêvi trong câu truyện thường coi những tội nhân, những kẻ yếu đuối, những người nghèo khó là xấu xa, dơ bẩn, và họ sẽ tránh qua một bên không dám động tới.   

     

    Chúng ta được cứu sống là nhờ vào người Samari, một người xa lạ đã ra tay giúp đỡ  chính là Chúa Giêsu. Ngài là người khách lạ đối với toàn thể nhân loại, với thế gian tội lỗi, đau khổ đã bị Satan và bè lũ chúng đón đánh giữa đường về quê trời. Ngài đã băng qua các tầng trời để đến với mỗi người chúng ta. Dầu và rượu Ngài dùng xức trên những vết thương tâm hồn của chúng ta là Máu và Nước từ Trái Tim yêu dấu của Ngài đổ ra trên thánh giá. Ngày nay, Ngài vẫn dùng tòa giải tội làm nơi băng bó những vết thương ấy cho các tội nhân.

     

    Ngôi nhà trọ kia chính là Giáo Hội, nơi Ngài đã cứu chúng ta khỏi chết giữa đường, đem chúng ta vào để tạm thời chữa trị, tĩnh dưỡng, và phục hồi sức khỏe. Các bí tích hằng ngày chúng ta lãnh nhận, nhất là Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Thánh Thể là hai đồng xu Ngài trả trước cho Giáo Hội, hay đúng ra Ngài để lại cho Giáo Hội.

     

    Kết luận của trích đoạn Tin Mừng, Thánh Luca đã viết lại lời Chúa Giêsu nói với người luật sỹ đã vặn hỏi Ngài: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” Đây cũng là lời mà Chúa muốn nói với mỗi người, là chúng ta phải biết chạnh lòng thương mà theo nguyên ngữ Hy Lạp là phải biết “rung động đến ruột gan” khi chứng kiến những bất hạnh tinh thần cũng như thể xác của cận thân.

     

    Nhưng làm sao chúng ta có thể hiểu được, cảm được những bất hạnh của anh chị em đồng loại trừ khi chính chúng ta nhận ra thân phận nạn nhân của mình. Và Bí Tích Hòa Giải kia chính là nơi mà mình cảm nhận được sự băng bó và săn sóc như thế nào. Tiếp đến, chúng ta đã được bồi bổ, tĩnh dưỡng bằng Bí Tích Thánh Thể. Thánh Thể là nguồn mạch sự sống, là sự phục hồi tâm linh.

     

    Cảm được sự yếu đuối, đau khổ, mất mát và đau xót của mình, chúng ta mới biết “rung động đến ruột gan” trước những mất mát, những lỗi lầm, và những yếu đuối của tha nhân. Cảm nhận được sự săn sóc, chữa trị mà mình đã lãnh nhận sẽ giúp chúng ta hiểu biết để lau lọt, băng bó vết thương cho tha nhân. Được bồi bổ, tăng thêm sức mạnh, chúng ta mới có đủ nghị lực để lo cho những kẻ yếu đuối, xấu số và bất hạnh hơn mình.

    Và chỉ như vậy chúng ta mới thực sự biết cảm, biết thương, biết “rung động đến ruột gan” như Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương đối với thân phận tội nhân của chúng ta trên đường về Giêrusalem vĩnh cửu.

    --------------------------------------------------