21. Các Bài Độc Giả Gửi Tới

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - BA CHUYỆN TÌNH THẬT HAY

  •  
    Kim Vu

    3 CHUYỆN TÌNH, TÌNH BẠN, TÌNH MẸ, TÌNH NGƯỜI

     

    Tình Bạn : Tại sao anh khóc?

    Một anh nọ đến gõ cửa nhà anh bạn Bedouin để nhờ vả:

    “Tôi muốn anh cho tôi mượn bốn ngàn dinar vì tôi phải trả nợ. Anh giúp tôi được không?”

    Anh bạn bảo vợ gom hết mọi thứ giá trị họ đang có, nhưng cũng không đủ. Hai vợ chồng phải đi mượn hàng xóm cho tới khi gom đủ số tiền.

    Khi anh nọ đi rồi, vợ thấy chồng mình khóc.

    “Sao anh lại buồn? Giờ đến lượt hai vợ chồng mình lại nợ hàng xóm, có phải anh sợ mình không trả nợ nổi?”

    “Chẳng phải vậy đâu! Anh khóc vì anh ấy là người anh rất quý mến, vậy mà anh chẳng hề biết anh ấy gặp hoạn nạn. Anh chỉ nhớ tới anh ấy khi anh ấy đến gõ cửa hỏi mượn tiền.”

     

    Tình Mẹ : Không chịu buông tay!

    Vài năm về trước, vào một ngày mùa hè , một cậu bé quyết định đi bơi ở con sông gần nhà. Trời thì nóng mà nước sông thì mát, cậu mừng rỡ nhảy ào xuống, bơi ra giữa sông mà không để ý rằng một con cá sấu đang bơi lại phía sau!

    Cùng lúc đó, mẹ cậu bé đang ở trong nhà và khi nhìn ra cửa sổ, bà hoảng hốt khi thấy con cá sấu tiến ngày càng gần cậu con trai hơn! Hoảng sợ tột độ, bà mẹ lao ra, nhanh gấp nhiều lần cậu bé khi cậu chạy đi bơi, vừa chạy, vừa hét gọi con trai. Nghe tiếng mẹ gọi, cậu phát hiện ra con cá sấu và bơi ngược trở lại về phía bờ. Nhưng quá muộn, đúng khi cậu bơi tới bờ thì cũng là lúc con cá sấu đớp được chân cậu! Từ trên bờ, người mẹ chậm một giây, chộp lấy cánh tay cậu. Và bắt đầu một trận kéo co không cân sức. Con cá sấu khoẻ hơn người mẹ rất nhiều, nhưng người mẹ còn quá nhiều tình thương và không thể buông tay.Lúc đó, một bác nông dân đi qua, nghe tiếng kêu cứu của người mẹ nên đã vội vã lấy một chiếc gậy to ra cùng chiến đấu với con cá sấu! Con cá sấu đành thả chân cậu bé ra.Sau hàng tuần, hàng tuần trong bệnh viện, cậu bé đã được cứu sống. Nhưng chân cậu có một vết sẹo rất to, trông rất khủng khiếp – bằng chứng của lần bị cá sấu tấn công.Một phóng viên tới gặp cậu bé khi cậu đã hoàn toàn bình phục. Phóng viên này hỏi cậu bé có thể cho xem vết sẹo được không. Cậu bé kéo ống quần lên, để lộ vết sẹo cho phóng viên chụp ảnh. Và phóng viên nọ đã nói rằng vết sẹo này cậu bé sẽ không thể nào quên!- Không đâu, hãy nhìn tay cháu đã! – cậu bé nói rồi kéo tay áo lên. Trên tay áo của cậu là một vết sẹo to, thậm chí còn sâu hơn cùng với những vết cào xước rất đậm và kéo dài do móng tay của mẹ cậu – khi người mẹ dồn tất cả sức lực và yêu thương đễ giữ lại đứa con trai yêu quý. Cậu bé nói với phóng viên:- Chính vết sẹo này cháu mới không bao giờ quên được! Và cháu tự hào về nó, tự hào vì mẹ cháu đã không chịu buông tay.Trong cuộc sống những người cha – người mẹ luôn như thế đấy, họ yêu đứa con của mình bằng cả trái tim và chấp nhận hy sinh, chấp nhận đau đớn và níu giữ lấy ngay cả những hy vọng nhỏ nhoi, mong manh nhất chỉ cần đứa con mình được sống, được no đủ và êm ấm.
    Bất cứ người cha, người mẹ nào cũng sẽ không bao giờ buông tay khi con mình đang ở trong tận cùng hiểm nguy. Nơi bình yên nhất, chính là trong vòng tay gia đình thân yêu!
    Gia đình chính là nơi bình yên và luôn dang tay che chở ta. Là nơi ta tìm về khi mệt nhòai trên con đường đời đầy rẫy chông gai.



     

    Tình Người : Tiếng đóng cửa
    Tôi mới chuyển đến nơi ở mới, cứ gần nửa đêm đang lúc ngủ ngon, tôi bị thức giấc vì tiếng đóng cửa rất mạnh ở lầu trên và tiếng chân lộp cộp rất khó chịu.
    Nhiều ngày kế tiếp nhau, vẫn tiếng đóng cửa và tiếng dép vào đúng giờ ấy khiến tôi không sao chịu nổi.
    Mẹ tôi khuyên: "Thôi con à, chúng ta mới đến, con đừng vội, kẻo làm mất lòng hàng xóm".
    Tôi đem chuyện ra than thở với mấy người trong xóm. Có người khuyên: "Bà và chị cố gắng chịu đựng tiếng đóng cửa đó một thời gian. Chắc sẽ không lâu đâu..."
    Rồi người ấy nói tiếp: "... Nửa năm trước, người cha bị tai nạn xe qua đời; người mẹ bị ung thư, liệt giường, không đi lại được. Tiếng đóng cửa đó là của người con. Hoàn cảnh khá đáng thương, xin bà và chị thông cảm!
    Cậu thanh niên này mới chỉ độ 16 tuổi. Tôi tự nhủ: "Trẻ người non dạ, cố chịu đựng thôi".
    Thế nhưng, tiếng đóng cửa vẫn tiếp tục xảy ra. Tôi quyết định lên lầu nhắc nhở.
    Cậu bé mở cửa, hốt hoảng xin lỗi: "Dì thứ lỗi, cháu sẽ cố gắng cẩn thận hơn..."
    Thế nhưng, cứ khi tôi vừa thiu thiu giấc ngủ, tiếng đóng cửa quen thuộc lại vang lên đập vào tai tôi như thách thức.
    Mẹ tôi an ủi: "Ráng đi con, có lẽ nó quen rồi! Từ từ mới sửa được..."
    Rồi khoảng một tháng sau, đúng như lời mẹ nói, tiếng đóng cửa đột nhiên biến mất.
    Tôi nằm trên giường nín thở lắng tai nghe, tiếng khép cửa thật nhỏ, và bước chân nhẹ nhàng cẩn thận.
    Tôi nói với mẹ: "Mẹ nói đúng thật!"
    Nhưng tôi bỗng bất ngờ… khi thấy hai mắt mẹ tôi ngấn lệ.
    Mẹ tôi nghẹn ngào nói: "Mẹ thằng bé trên lầu đã ra đi rồi, tội nghiệp thằng bé, ban ngày đi học, đêm đến quán chạy bàn.
    Nó cố gắng đi làm thêm để kiếm tiền chạy chữa cho mẹ, nhưng rồi bà ấy vẫn không qua khỏi
    Trong tình hàng xóm, tôi sắp xếp thời gian viếng xác người phụ nữ ấy.
    Cậu bé cúi thấp đầu, tiến đến gần tôi và nói: "Dì! Nhiều lần cháu làm Dì mất ngủ, cháu xin Dì tha lỗi".
    Rồi cậu nói trong tiếng nấc: "Mẹ cháu mỗi ngày một yếu, nói không được, nghe không rõ, cháu đóng cửa mạnh để mẹ biết cháu đã về, có thế bà mới an tâm ngủ, Nay mẹ cháu không còn nữa, Dì ạ..."
    Nghe câu chuyện, tôi bỗng cảm thấy như bị ù tai, lệ từ hai khóe mắt tôi bỗng tuôn trào ra...Tôi thấy mình quả là vô tâm, thiếu cảm thông với hoàn cảnh của người khác.
    Cảm thông là tối cần trong các mối quan hệ và lòng khoan dung là quà tặng đáng giá nhất trên đời.
    Xin Bạn đừng bao giờ khép lại lòng mình,
    Cầu mong cho con người chúng ta luôn hướng đến một nhịp đập trái tim quảng đại, tấm lòng vị tha, nhân ái, vượt qua những suy nghĩ tầm thường, để mặc lấy tâm tình yêu thương.
    Tạo Hóa ban tặng riêng chỉ có ở "Con Người"...
     
     
     
     

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - THÁNH ANTON - CHI TRAN-LEYEN

  •  
    Chi Tran - LEYEN
     
     
     
     

    THÁNH AN-TÔN
    VỊ THÁNH ĐƯỢC ẴM CHÚA GIÊSU HÀI ĐỒNG TRÊN TAY VÀ CÓ CHIẾC LƯỠI KHÔNG HỀ BỊ PHÂN HUỶ
     
    (Ngày 13.06 hàng năm, Giáo hội mừng kính Thánh An-tôn, vị Thánh hay làm phép Lạ. Ngài được phong làm Tiến sỹ Phúc Âm và Tiến sỹ Hội Thánh, Tiến sỹ Tình yêu thương).
    Nếu ai muốn chứng kiến phép lạ, muốn xin các phép lạ, muốn hiểu tường tận về Kinh Thánh, muốn hiểu sâu sắc về Thiên Chúa, muốn luôn bình an hạnh phúc, thì phải từ bỏ tội lỗi, phải sám hối chân thành, phải khiêm nhường thẳm sâu, phải thành tâm thiện chí, phải có ý ngay lành, phải tín thác tuyệt đối, và phải tìm ngay đến Thánh An-tôn.
    Thánh An-tôn là ai ?
    Ngài là vị Thánh hay làm phép lạ và đã làm cả kho tàng phép lạ.
    Ngài sinh năm 1195 tại Lisbon thủ đô nước Bồ Đào Nha, cách nơi Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima chừng 140 km.
    Ngài là một trong những vị thánh nổi tiếng nhất, lừng danh nhất của Giáo hội Công giáo.
    Ngài không những được tôn kính ở vùng Padova mà còn được sùng mộ ở khắp nơi trên thế giới.
    Ngài từng là tu sỹ dòng Thánh Augustinô, nhưng sau đó, do ý Chúa định liệu an bài, Ngài lại làm tu sỹ và làm linh mục dòng Thánh Phanxicô khó khăn.
    Ngài từng nói câu nổi tiếng:---"Cây sẽ chết nếu không có gốc, Linh hồn sẽ chết nếu không có sự khiêm nhu". ---"Không có tình yêu thương đích thực thì không thể có Đức tin vững mạnh". ---"Hãy dâng tặng cho Chúa tất cả những gì bạn có, rồi Chúa sẽ trao tặng chính mình Ngài cho bạn". ---"Giảng giỏi, nói hay mà hành động dở, thì cũng như cây chỉ xum xuê lá mà không có trái. Thật là vô tích sự".---"Người giàu như cây sậy. Gốc rễ của nó ở trong bùn, bề ngoài thì nó có vẻ thẳng, nhưng ruột bên trong thì rỗng. Nếu ai dựa vào nó thì cây sậy sẽ gãy và sẽ đâm vào tâm hồn người đó".
    Ngài đã làm rất nhiều phép lạ ngay lúc sinh thời, nhưng Ngài một mực hạ mình khiêm nhu, vì Ngài luôn tâm niệm, phép lạ Ngài làm là do bàn tay Thiên Chúa ban cho.
    Chính sự khiêm nhượng cùng với lòng mến Chúa cháy bỏng, yêu Ðức Mẹ say mê và thương người tha thiết của Ngài đã giúp Ngài làm được nhiều phép lạ.
    Ngài là Đấng bảo trợ đặc biệt của những ai mất tiền của, những người đau liệt, những kẻ tù đày và những người bị quỷ ám.
    Ngài từng được vinh dự thay Đức Giám mục để giảng trong Thánh Lễ Truyền chức Linh mục khi vẫn đang là 1 tu sỹ tầm thường.
    Ngài là khắc tinh kinh hoàng của những kẻ lạc giáo, ly giáo, bè rối và ma quỷ.
    Ngài thường được nhiều người gán cho biệt danh là "Hòm Bia giao ước" hoặc "Cái búa của bọn lạc giáo".
    Ngài là vị Tiến sỹ Tin Mừng, vị tiến sỹ Giáo Hội, vị giảng thuyết lừng danh và là Đấng Cầu bầu vô cùng linh nghiệm.
    Ngài là người duy nhất có đặc ân được ẵm bế Chúa Giêsu Hài Đồng trên tay:
    Trong khi đi giảng thuyết trên nước Pháp; một hôm thầy An-tôn trọ đêm trong phòng vắng vẻ của một nhà kia.
    Bỗng nửa đêm phòng thầy sáng rực.
    Chủ nhà mon men tới xem thì thầy Người đang ngất trí cầu nguyện và Chúa Hài đồng hiện đến ngự trị trên cánh tay Người vẻ đơn sơ, âu yếm để cho Người ẵm bồng và hôn kính.
    Rồi chủ nhà nhẹ nhàng rút lui, tưởng thánh nhân không biết.
    Chẳng dè, sáng hôm sau, trước khi ra đi, Người dặn chủ nhà không được tiết lộ việc ấy ra.
    Vâng theo lời dặn, ông ấy giữ kỹ điều bí mật.
    Đến khi thánh nhân qua đời rồi, ông mới tỏ ra vinh danh của ông thánh, vì Người đã được Chúa Giêsu yêu mến như vậy.
    Do phép lạ này mà tượng thánh Antôn thường bồng Chúa Hài đồng trên tay.
    Ngài từng giảng cho cá nghe. Ngóc đầu lên khỏi mặt nước, chúng đều hướng về thầy Antôn, người liền bảo cá rằng:
    “Hỡi loài cá mú! Hãy tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Vì Ngài đã tạo dựng nên bay: đã ban biển cả mênh mông cho bay bơi lội, đã khoét hang hóc an toàn cho bay ẩn mình lúc phong ba bão táp.
    Đại hồng thuỷ đã tiêu diệt loài người, loài vật, nhưng Chúa vẫn bảo tồn bay, cho bay được sống, được sinh sản thêm nhiều và ban lương thực hàng ngày cho bay.
    Vì thế hỡi loài cá mú! Bay phải tạ ơn Thiên Chúa chẳng cùng”.
    Khi được tin cá đến nghe thầy Antôn giảng, thì dân thành nô nức kéo ra. Họ thấy khi thầy Antôn giảng, cá cất đầu, hà hơi, vẫy đuôi tỏ ý vui sướng, tán thành.
    Sau khi ban phép lành và cho cá giải tán, thầy Antôn quay lại bảo kẻ rối đạo rằng:
    “Anh xem đó! Cá là loài vô tri mà còn biết nghe lời Thiên Chúa; mà anh em là loại hữu tri, đã được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Giêsu, mà chẳng muốn nghe lời Thiên Chúa, chẳng muốn phụng sự kính mến Ngài hay sao?”.
    Từ đó về sau, kẻ rối đạo siêng năng đến nghe lời thầy Antôn giảng, và có nhiều người quy hồi chính đạo.
    Có những sự kiện tỏ ra thầy Antôn được Thiên Chúa thương yêu chừng nào thì ma quỷ ghen ghét chừng ấy.
    Ngoài tài hùng biện tự nhiên, dường như thầy còn có sự hấp dẫn siêu nhiên nữa.
    Khi thầy đứng giảng, thì người ta tưởng như nghe một vị thiên thần đang nói với mình.
    Lý lẽ mạnh, cung giọng thiết tha, trầm ấm, truyền cảm của thầy làm cho nhiều kẻ lòng chai dạ đá cũng phải mềm ra.
    Đã biết bao kẻ tội lỗi ăn năn trở về đàng ngay, bao kẻ rối đạo được ơn trở lại, bao kẻ thù địch được thuận hoà êm ấm, người bất hạnh được được trả ơn, trả của…
    Chúa cũng cho thầy làm phép lạ nhãn tiền để khuất phục kẻ chai lòng cứng dạ.
    Ngài từng làm một phép lạ lừng danh là yêu cầu một con lừa quỳ xuống thờ lạy Bí tích cực trọng Thánh Thể trước mặt một người Do thái không tin Chúa Giê-su hiện diện trong Bí tích này.
    Thánh nhân nói ông ta:
    - Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có tin không ?
    Người Do thái nhận lời thách thức và hứa sẽ tin.
    Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật quên đói quay sang thờ lạy Chúa.
    Người Do thái đã ngỡ ngàng sửng sốt và đã buộc phải tin vào Bí tích Thánh Thể.
    Lời giảng nảy lửa của Thánh Antôn có phép lạ Chúa đi kèm, nên làm cho nhiều kẻ bỏ đạo được ăn năn, người lạc đạo được trở lại đường ngay nẻo chính.
    Ngài qua đời ngày 13 tháng 06 năm 1231 khi mới vừa 36 tuổi.
    Chỉ một năm sau, Ngài đã được Đức Giáo hoàng Grêgôriô IX tôn phong Hiển thánh.
    Khi còn sống, Thầy Antôn đã làm rất nhiều phép lạ. Sau khi chết, Ngài còn làm rất nhiều phép lạ ấn tượng hơn.
    Phép lạ vĩ đại nhất sau khi chết là chiếc lưỡi của Ngài, đến nay tròn 788 năm, mà vẫn không hề bị phân hủy:
    Năm 1263, trong dịp lễ thánh nhân, người ta đưa hài cốt Thánh Antôn từ tu viện đến nhà thờ mới, dưới sự điều khiển của thánh Bonaventura, cũng thuộc dòng Phan sinh.
    Khi khai quật lên thì thấy da thịt đã tiêu tan hết, nhưng riêng lưỡi thì còn y nguyên.
    Thánh Bonaventura hôn kính “lưỡi đáng kính trọng” ấy, rồi thốt lên:
    “Bởi lưỡi thánh này đã ngợi khen Thiên Chúa và khuyên dụ nhiều người ngợi khen Thiên Chúa, nên Ngài đã gìn giữ lưỡi này còn nguyên vẹn cho đến bây giờ”.
    Rồi truyền đạt cất lưỡi ấy vào một bình bạc để tôn kính riêng.
    Từ đó khách hành hương từ khắp nơi đến viếng nhà thờ và mộ thánh để cầu nguyện và xin ơn.
    Trên mộ Ngài có hàng trăm đèn thắp nến sáng đêm ngày. Và thánh nhân hằng ban ơn giáng phúc, chẳng những về thể xác mà nhất là về phần linh hồn.
    Chính thánh Bonaventura đã chứng kiến và ca ngợi rằng:
    “Ai muốn nhờ phép lạ thì phải chạy đến cùng Thánh Antôn. Người cứu chữa lúc gian nan, giúp đỡ khi túng cực. Hãy hỏi dân thành Padua , hãy hỏi các khách hành hương, họ sẽ nói lên sự thật ấy”.
    Ai muốn chiêm ngưỡng chiếc lưỡi không phân hủy của Ngài, thì xin kính mời qua Bồ Đào Nha quê hương của Ngài.
    Lạy Thánh An-tôn hay làm phép Lạ, Tiến sỹ Phúc Âm, Tiến sỹ Hội Thánh và chỉ dùng miệng lưỡi để ca tụng, rao truyền tình yêu và lòng thương xót Chúa, xin cho chúng con biết học hỏi sự nhiệt huyết, thánh thiện, khiêm cung của Ngài và xin luôn bầu cử cho chúng con. Amen.
    Giuse Kích tổng hợp và biên soạn.
    Không có mô tả ảnh.
     
     
     
    55
     
    4 lượt chia sẻ
     
    Chia sẻ
     
     

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - MARYKNOLL MISSION

  •  
    Kris East
     
     
    Maryknoll Mission Education

    Hi Deacon Dinh,

     

    An old Chinese proverb proclaims, ”old roots, new shoots,” so it is with the old but continuous prophetic tradition as a foundation of our Christian faith life. A new generation of prophets always appears to carry on this rich tradition of prophetic figures like Dorothy Day and Martin Luther King. 

     

    This Second Week of the Advent Season we are challenged to discover and celebrate the witness of these "new shoots” who in their own unique way speak truth to power like Day and King in their time. Although each representative of this prophetic tradition speaks to diverse situations, they all are in the words of today’s Gospel, “voices crying out from the desert”. Let us heed the message of “old roots and new shoots” in our world today!

     

    To help, we have Advent Reflection Guides based on the Sunday Gospels that can be used in a group or on your own. We also have Guides especially for families and children. Explore our website to see all our Advent Resources.

     

    We are with you in our prayers this Advent,

    Fr. Steve and the Maryknoll Mission Formation Projects Team

    Second Sunday1
    Prayer
     

    Good and gentle God send us new prophets to respond to the pain and hurt in our world by the courageous witness of their lives to bring about hope and healing in our world to prepare the way for the birth of Christ among and with us!

     

    Maryknoll Vocations | Follow us on Facebook   |  Visit us at www.maryknoll.us 

     

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - QUÝ VÂN

  •  
    Quyvan Vu
    Fri, Dec 2 at 7:21 PM
     
     

    KHÁI NIỆM “ÔNG TRỜI”

                Số phận của một dân tộc tùy thuộc vào sự hiểu biết và mối liên hệ của dân tộc đó với Đức Chúa Trời.

                Số phận của một người cũng hoàn toàn tùy thuộc vào sự hiểu biết và mối liên hệ của người đó với Đức Chúa Trời.

                Sáng láng hay tối tăm, văn minh hay chậm tiến, hy vọng hay vô vọng, hiền lành hay hung dữ, tự do hay nô lệ, dân chủ hay độc tài, sống vĩnh phúc hay chết mất trầm luân… tất cả đều tuỳ thuộc vào mối liên hệ hay không liên hệ với Đức Chúa Trời. Thực tế lịch sử và xã hội của các dân tộc ở Tây Phương cũng như ở Đông Phương chứng minh rõ điều nầy. Số phận của dân tộc Việt Nam tùy thuộc vào sự hiểu biết và mối liên hệ của người Việt chúng ta với Đức Chúa Trời. Số phận của đời bạn, đời tôi cũng như vậy.

    Chúa Cưú Thế Giê-su đã từng khẳng định: “Các con sẽ biết lẽ thật và lẽ thật sẽ giải phóng các con.” Thật vậy, nếu người Việt biết rõ Đức Chúa Trời là ai, Ngài đã làm gì cho chúng ta và Ngài muốn chúng ta làm gì, chắc chắn nhiều người sẽ được giải phóng thoát khỏi tâm trạng sợ hãi, lo âu, mặc cảm tội lỗi, và những gánh nặng trong lòng. Người đó sẽ thấy rõ hướng đi. Người đó sẽ sống có mục đích. Ánh sáng chân lý bình an sẽ đến tràn ngập tâm hồn và đời sống những người có Chúa. Học giả C. S. Lewis, người Anh đã nói một câu rất hay, “Tôi tin Đạo Chúa giống như tôi tin mặt trời, không chỉ vì tôi thấy mặt trời nhưng là nhờ mặt trời mà tôi thấy mọi sự.”

    Mời bạn tiếp tục đọc để biết Đức Chúa Trời là ai, Ngài đã làm gì cho chúng ta và Ngài muốn chúng ta làm gì.

    Khái Niệm “Ông Trời” Trong Văn Hóa Việt Nam

    Từ lâu người Việt Nam đã biết có Ông Trời, tin Ông Trời và cầu khẩn Ông Trời. Niềm tin nầy vốn có trong tiềm thức của người dân Việt ngay cả trước khi có các tôn giáo khác du nhập vào nước ta. Niềm tin nầy thể hiện qua ngôn ngữ và qua nếp sống của chúng ta.

    Kêu Trời

    Điều dễ hiểu nhất và không ai phủ nhận được là hễ gặp bất cứ việc gì bất chợt xảy đến, dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, câu nói buột miệng của người Việt Nam trước hết là kêu: “Trời ơi!” giống như người Mỹ kêu: “Oh my God!”

    Khi rủi ro đứt tay, vấp chân, té ngã, người ta kêu Trời. Khi gặp buồn khổ, chán nản, chết chóc, thất bại, người ta kêu Trời. Khi thành công, hạnh phúc, bình an, người ta nói Nhờ Trời. Khi gặp tai nạn người ta kêu Trời cứu, cầu Trời cho tai qua nạn khỏi…

    Kính Trời

    Tuy không biết rõ Ông Trời là Đấng như thế nào, nhưng người Việt Nam ai cũng kính Trời vì hiểu rằng có ta đây là vì có Ông Trời. Trong ngôn ngữ bình dân, dù là câu nói vui đùa, mỗi khi xưng hô nhắc đến Trời thì người ta không dám nói thiếu chữ Ông đi trước chữ Trời. Người ta gọi Ông Trời với lòng tôn kính. Người Tin Lành tôn thờ Ngài nên gọi Ngài là Đức Chúa Trời.

    Một cô gái quê vui đùa hỏi bí bạn trai:

                Thấy anh hay chữ

                Em hỏi thử đôi lời

                Thuở tạo thiên lập địa

                Ông Trời tròn ai xây?

    Cầu Trời

    Người Việt phần lớn sống bằng nông nghiệp, biết rằng mùa màng được hay mất cũng do Trời.

    “Nhờ Trời năm nay được mùa!”

    Người nông dân lúc nào cũng tâm nguyện cầu Trời cho cơm no áo ấm:

                Lạy Trời mưa xuống

                Lấy nước tôi uống

                Lấy ruộng tôi cày

                Lấy đầy bát cơm…

    Hoặc họ truyền tụng về ơn Trời bằng những câu ca dao, bài hát bình dân:

                Nhờ Trời mưa thuận gió hòa

                Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.

                Lạy Trời mưa thuận gió đều

                Cho đồng lúa tốt, cho chiều lòng em.

    Người Việt thường tôn trọng chữ hiếu và mong cho cha mẹ sống lâu, gia đình được phước. Vì thế họ lập bàn thờ Thiên để thờ Trời ngay trước cửa nhà. Người con có hiếu từng đêm đến trước bàn thờ cầu khẩn:

                Mỗi đêm mỗi thắp đèn Trời

                Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

    Tin Trời

    Trải bao đời, người Việt tin Ông Trời là Đấng Tạo Hóa, tạo thiên lập địa, Đấng cầm quyền sống chết, làm chủ vận mệnh muôn loài, quyền phép vô cùng. Người Việt Nam quen thuộc với những khái niệm:

                Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh.

                Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần.

                Trời sinh voi sinh cỏ.

                Trời cho ai nấy hưởng.

                Trời kêu ai nấy dạ.

                Sống nhờ ơn Trời, chết về chầu Trời.

    Cũng có câu: “Trời cho không ai thấy, Trời lấy không ai hay.”

    Người Việt công nhận và tin tưởng Ông Trời cầm quyền thành bại trong cuộc sống của loài người:

             Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.

    Người Việt tin Trời là Đấng công bình, cầm quyền họa phúc, vì vậy đã thường nhắn nhủ với nhau:

             Ở hiền thì lại gặp lành

             Những người nhân đức Trời dành phúc cho.

    Người Việt cũng tin tưởng “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân,” nghĩa là Trời không phụ bạc người có lòng tốt bao giờ.

    Trong hôn nhân lứa đôi, người Việt tin tưởng hạnh phúc vợ chồng do Ông Trời sắp đặt:

               Duyên ba sinh Trời đã sẵn dành.

    Tuy nhiên đôi khi thấy số phận không may hoặc tình duyên dang dở, người ta thường ngửa mặt lên trời than thở, dường như muốn nói với Đấng Hóa Công hết nỗi lòng mình:

                Chữ bạc mệnh ai ơi thấu với

                Câu đa đoan Trời hỡi thấu chăng?

               (trong Tự Tình Khúc của Cao Bá Nhạ).

    Trong cuộc sống với những nghịch lý, những bất công xã hội, những mơ ước không thành, người Việt cũng nhiều khi đã đưa ra thắc mắc với ông Trời:

    Trời ơi, Trời ở chẳng cân

    Người ăn không hết, người mần không ra

    Người thì mớ bảy mớ ba

    Người thì áo rách như là áo tơi?

    Trong Cung Oán Ngâm Khúc cũng có câu:

                Quyền họa phúc Trời giành mất cả

                Chút tiện nghi chẳng trả phần ai.

    Nói thì nói vậy nhưng người Việt thường chấp nhận hài lòng với khái niệm về Thiên Mệnh. Thi hào Nguyễn Du đã khuyên trong Truyện Kiều:

                Đã mang lấy nghiệp vào thân

                Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa

                Thiện căn tự bởi lòng ta

                Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

    Kết luận Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:

                Ngẫm hay muôn sự tại Trời

                Trời kia đã bắt làm người có thân

                Bắt phong trần phải phong trần

                Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

    Nhờ Trời

    Lịch sử Việt Nam có ghi chép chuyện về Danh Tướng Lý Thường Kiệt, trong lúc kháng cự quân Tống xâm lăng, đã làm 4 câu thơ và loan truyền là do Thần Linh báo mộng ban cho để khích lệ tinh thần binh sĩ yên tâm đánh giặc:

                Nam quốc sơn hà Nam đế cư

                Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư

                Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

                Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

    Học giả Hoàng Xuân Hãn đã dịch như sau:

                Sông núi nước Nam vua Nam coi

                Rành rành một phận ở sách Trời

                Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

                Bây sẽ tan tành, chết sạch toi.

    Đây là cách áp dụng chiến tranh tâm lý, mượn oai Trời. Kết quả là quân lính nức lòng đánh giặc, quân Tống không tiến được đành giảng hòa. Rõ ràng câu chuyện nầy nói lên niềm tin mãnh liệt của dân tộc Việt nơi sự tể trị của Ông Trời, trong đó mọi vận mệnh nhân dân đất nước do Trời định đoạt.

                 Nước non là nước non Trời

                Ai chia được nước ai dời được non.

    Thờ Trời

    Trải qua nhiều thế kỷ, ngay cả sau khi có các triết lý tôn giáo của Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo truyền đến, người dân Việt vẫn lấy tín ngưỡng thờ Trời làm nền tảng để giữ gìn truyền thống dân tộc, gia đình. Cả ba tôn giáo chính nói trên đã góp phần củng cố thêm cho niềm tin hợp với Đạo Trời. Ngay cả Phật Giáo với khái niệm mờ nhạt về Ông Trời khi đến Việt Nam cũng phải chấp nhận ý niệm “Cầu Trời Khẩn Phật”.

    Hợp lẽ Trời, thuận lòng người là đạo lý của người Việt Nam. Dù thực hành tín ngưỡng nào, người Việt ai nấy cũng công nhận: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong” nghĩa là thuận với Trời thì còn, nghịch với Trời thì mất.

    Chính vì đó mà người dân Việt thờ Trời. Ngay từ thời các Vua Hùng dựng nước, người ta đã biết thờ Trời. Mỗi năm nhà Vua thay mặt nhân dân lập đàn Tế Trời, Cầu Trời cho dân chúng an cư lập nghiệp. Trong gia đình, người cha thay mặt để cầu Trời phù hộ cho gia đình, con cháu hạnh phúc.  Các triết lý du nhập vào từ Trung Quốc hoặc Ấn Độ đã không đồng hóa hoàn toàn tín ngưỡng của người dân Việt. Trái lại những tín ngưỡng nào phù hợp với tình cảm thiêng liêng trong sáng của người dân Việt thì được tiếp thu với tinh thần chọn lọc, phê phán.

    Chịu ảnh hưởng của đạo đức Lão Trang, người Việt thường bảo nhau về cách ăn ở cho phải đạo, nhất là đạo làm con, đạo vợ chồng:

                Đạo làm con chớ hững hờ

                Phải đem hiếu kính mà thờ mẹ cha.

                Cây xanh thì lá cũng xanh

                Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

                Người trồng cây hạnh người chơi

                Ta trồng cây đức để đời mai sau.

    Người Việt Nam cũng tiếp thu truyền thống giữ gìn “luân thường đạo lý” của Khổng Giáo thật nhuần nhuyễn và bình dị như cuộc sống gần gũi lễ phép thân thương kính trên nhường dưới trong gia đình. Luân là cái mà con người phải noi theo trong mối tương quan xã hội. Thường là sự việc không biến đổi theo không gian và thời gian mà con người phải giữ. Trong Ngũ luân với quan hệ quân thần, phụ tử, phu thê, huynh đệ, bằng hữu, người Việt trân trọng những đức tính Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa. Trong Ngũ thường, người Việt trân trọng giữ gìn nhân, nghĩa, lễ, trí, tín theo đạo lý làm người.

                Anh làm trai học đạo thánh hiền

                Năm hằng chẳng trễ, ba giềng chớ sai.

    Chữ hiếu được mọi người đặt lên hàng đầu:

                Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên

                Chữ rằng mộc bổn thủy nguyên

                Làm người phải biết tổ tiên ông bà.

    Bổn phận hiếu đễ được minh giải thêm:

                Thờ cha mẹ ở hết lòng

                Ấy là chữ hiếu ở trong luân thường

                Chữ đễ có nghĩa là nhường

                Nhường anh, nhường chị,

                     lại nhường người trên

                Ghi lòng tạc dạ chớ quên

                Con em phải giữ lấy nền con em.

    Trong tinh thần phê phán chọn lọc, người Việt đã phân biệt chân giả, đúng sai trong từng tín ngưỡng thực hành. Chẳng hạn:

                Tu đâu cho bằng tu nhà

                Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

    Hoặc ai nấy đều đồng ý:

                Dẫu xây chín bậc phù đồ

          Không bằng làm phước cứu cho một người.

    Người Việt Nam phần lớn không tin ở thuyết luân hồi. Bằng cớ là nhiều người Việt thờ cúng ông bà, tin rằng vong linh ông bà vẫn còn đó. Mỗi năm nhân dịp Tết cổ truyền, người ta rước ông bà về vui xuân với con cháu rồi tiễn ông bà đi. Nếu tin ở thuyết luân hồi thì phải tin ông bà cha mẹ đã hóa kiếp thành người ngoại quốc nào khác, hoặc con thú nào đó trong rừng, hoặc một con vật nào đó trong bầy gia súc trong vườn. Tin như thế, người ta sẽ không rước tiễn ông bà, cũng không dám ăn thịt, đánh đập hoặc giết chết một con vật nào.  Người Việt Nam tin ở giá trị thiêng liêng bất tử của linh hồn, tin ở đời sau. Linh hồn của mọi người chết là về chầu Trời.

    Người Việt Nam là dân tộc hiền hòa nhưng bất khuất. Lúc có cần ai nấy đều có thể chịu đựng hy sinh vì nghĩa lớn. Trong quan hệ bình thường, người Việt áp dụng tinh thần dĩ hòa vi quí. Trong cuộc sống với nhiều điều không lý giải được, người Việt vẫn tin tưởng ở mệnh Trời, hy vọng một ngày mai tươi sáng hơn.

                Không ai giàu ba họ

                Không ai khó ba đời.

                Còn trời còn đất còn non nước

                Có lẽ ta đâu mãi thế nầy?

    Người Việt tin tưởng và yêu chuộng những nguyên tắc như:

    Ởû hiền gặp lành,

    Ông Trời có con mắt,

    Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,

    Lưới Trời lồng lộng, thưa mà không lọt,

    Thiên bất dung gian.

    Người Việt quí trọng và ao ước những giá trị Trời ban như thiên ân, thiên tài, thiên bẩm, thiên chức, thiên hương, thiên tướng, thiên tư. Người Việt giữ gìn truyền thống tương thân tương trợ những khi tối lửa tắt đèn.

    “Bà con xa không bằng láng giềng gần.”

    Câu tục ngữ “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng,” đã được đem ra áp dụng thường xuyên trong những lúc hoạn nạn, tai ương với nhiều kết quả tốt đẹp.

    Trong quan hệ giữa người với người, người Việt luôn luôn giữ lấy chữ tình:

               Phàm sự lưu nhân tình

              Hậu lai hão tương kiến.

    Chính nhờ đó mà dân Việt Nam muôn đời vẫn còn tồn tại.

    Người Việt hiểu biết về “Ông Trời” chưa đầy đủ

    Giống như nhiều dân tộc khác trên thế giới, sự nhận biết về Đức Chúa Trời có thể nói là một thứ nguyên tri tự nhiên mà Ông Trời ban cho nhân loại. Dân tộc nào cũng có chữ Ông Trời hay Đấng Tạo Hóa trong ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.

    Thật vậy, khi nhìn xem vạn vật, thiên nhiên, với cảnh trí đẹp đẽ tuyệt vời, với không gian bao la vô tận, với sự cấu tạo tinh vi, diệu kỳ, muôn hình vạn trạng, với qui luật bốn mùa xuân hạ thu đông trật tự chính xác vô cùng, với bản năng lạ lùng bất biến của các loài vật… rồi nhìn lại con người với thân thể kỳ diệu, với mầu nhiệm sinh sản, với tình cảm thiêng liêng, với những giá trị tinh thần, với những kinh nghiệm về qui luật đạo đức trải qua các đời, với ý chí tự do lựa chọn… cùng với bao nhiêu chứng cớ khác nữa trong cuộc sống, người ta phải thừa nhận có Đấng Tạo Hóa, có Ông Trời. Chính Ông Trời đã tạo dựng nên tất cả, Ngài đang điều khiển, bảo tồn tất cả những qui luật thiên nhiên và đạo đức trên thế giới nầy.

    Nhưng thiên nhiên chưa đủ để con người biết rõ về thuộc tánh, ý muốn và chương trình vĩnh cửu của Đức Chúa Trời. Bởi trong thực tế khi nhìn thiên nhiên có người suy luận hữu thần, có người suy luận phiếm thần, hoặc có người suy luận đa thần, thậm chí cũng có người suy luận vô thần. Thiên nhiên chưa đủ để người ta biết rõ Đức Chúa Trời thực hữu độc lập với các tạo vật do Ngài dựng nên và Ngài là Chân Thần Duy Nhất.

    Người Việt biết có Ông Trời nhưng chưa biết Đức Chúa Trời là Chân Thần, là Đấng Tạo Hoá duy nhất tối cao.

    Người Việt biết Ông Trời có bản tính công bình nhưng chưa biết Đức Chúa Trời là Đấng đầy ân điển và yêu thương.

    Người Việt tin mệnh Trời không ai thay đổi được, kể cả số phận của mỗi người cũng được an bài, nhưng người Việt chưa biết Đức Chúa Trời là Đấng tôn trọng ý chí tự do của con người và là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.

    Người Việt biết mình cần ăn hiền ở lành, nhưng không biết rằng tất cả những việc lành mình làm dù cao quí vẫn còn thiếu hụt, không thể sánh với tiêu chuẩn trọn lành Đức Chúa Trời đòi hỏi, chẳng khác nào ngọn đèn cầy đem so với ánh mặt trời. Người Việt cần đón nhận chân lš cûa Chúa Nj bù đắp cho sự thiếu hụt của mình.

    Người Việt biết nguyên tắc “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” nhưng không biết căn nguyên của mọi nỗi đau khổ bất hạnh trong cuộc đời là do tội lỗi loài người xây lưng phản nghịch lại với Đức Chúa Trời. Người Việt cần trước hết được Chúa tha tội.

    Người Việt biết mình cần được cứu rỗi và đã khổ công đi tìm sự cứu rỗi nhưng chưa biết con đường cứu rỗi duy nhất là chương trình do Đức Chúa Trời vạch sẵn đã được thực hiện bởi Con Ngài là Chúa Giê-su. Người Việt cần đặt đức tin nơi sự toàn năng, toàn tri, tồn thiŒn, tồn mÏ của một Đức Chúa Trời chân thật. Nhiều niềm tin của người Việt về Ông Trời rất gần với Thánh Kinh, nhưng chưa đầy đủ.

    Chính vì thếù mà người Việt chúng ta cần có sự mạc khải đặc biệt, đúng đắn, trực tiếp từ Đức Chúa Trời. Sự mạc khải đặc biệt nầy chỉ có thể tìm được trong Thánh Kinh và qua Chúa Cứu Thế Giê-su.

    Nguồn: Viện Đào Tạo Môn Đồ Việt Nam


    Sent from my iPad
     

CAC BÀI ĐỘC GIẢ GỞI TỚI - QUÝ VÂN

  •  
    Quyvan Vu
    Wed, Nov 30 at 7:24 PM
     
     
     Chúa Giê-xu đề cập đến tội lỗi không thể tha thứ trong sách Phúc Âm của Mác.3:20-
     Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, mọi tội lỗi sẽ tha cho con cái loài người, và hết thảy những lời phạm thượng họ sẽ nói ra cũng vậy; nhưng ai nói phạm đến Đức Thánh Linh thì chẳng hề được tha, phải mắc tội đời đời” (Mác 3:28-29).

    Nhưng phân đoạn này không dừng lại ở đó.

    Để hiểu đúng phân đoạn nói về tội lỗi không thể tha thứ, bạn cần nhìn vào cụm từ cuối cùng.

    Hãy xem lại lời kết của Chúa Giê-xu trong các câu 30: “’nhưng ai nói phạm đến Đức Thánh Linh thì chẳng hề được tha, phải mắc tội đời đời.’ Ngài phán như vậy, vì họ nói rằng: ‘Người bị tà ma ám.’” 
     

    Có một động từ trong tiếng Hy Lạp chứng minh rằng đó không phải là một phản ứng nhất thời.

    Trong câu chuyện của chúng ta ở Mác 3, có một sự thật thú vị mà chỉ được thấy rõ ràng trong Kinh Thánh Tân Ước tiếng Hy Lạp. Theo câu 22, các thầy thông giáo nói, “Người này bị Bê-ên-xê-bun ám.” Từ “nói” ở đây được chia ở dạng thì chưa hoàn thành. Nó có thể được dịch là, “Họ cứ nói hoài như vậy.” Đó không chỉ là vấn đề của một lời nói thiếu suy nghĩ đường đột hay một phản ứng nhất thời. Lời nói của họ thể hiện một thái độ cứng nhắc và một tấm lòng cay đắng không muốn ăn năn.

    Điều này cho chúng ta thấy sự chối Chúa liên tục có thể là điều nguy hiểm nhất.

    Nếu bạn lo lắng rằng bạn có thể đã phạm một tội lỗi mà Đức Chúa Trời sẽ không tha thứ… thì có thể bạn đã không phạm phải tội lỗi này đâu.

    Tóm lại, như thế này mới là “tội lỗi không thể tha thứ”:

    Về bản chất, tội lỗi không thể tha thứ sẽ khiến tấm lòng bạn chai sạn chống lại Đức Chúa Trời và liên tục từ chối đáp lại những lời kêu gọi của Ngài đối với linh hồn bạn. 

    Bằng cách tiếp tục chống đối và từ chối Chúa, bạn tạo nên những vết chai trên tâm hồn mình cho đến khi sự cáo trách của Thánh Linh Chúa không còn trong lòng . Bạn nghe Lời Chúa và điều đó không ảnh hưởng gì đến bạn. 

    Vì Đối với những người từ chối Chúa Giê-xu Ki Tô thì không có sự tha thứ dù là ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, ở thế giới này hay thế giới tiếp theo. Ngài đã chết vì bạn, và nếu bạn từ chối điều đó, thì không có sự hy sinh nào khác cho tội lỗi.

    Vì vậy, đừng lo lắng rằng bạn đã phạm phải tội lỗi không thể tha thứ. Nhưng nếu bạn không biết Chúa Giê-xu Christ là Cứu Chúa của cá nhân bạn, thì hãy lo lắng rằng bạn có thể đã phạm phải tội đó.

    Suy ngẫm: Bạn có đang chống Chúa?

    Nếu bạn đã chống đối Đấng Ki Tô  và từ chối Ngài là Cứu Chúa của bạn, và nếu điều gì đó xảy ra và bạn chết, bạn sẽ phạm tội không thể tha thứ. Bạn không có cơ hội thứ hai sau khi chết. Bất cứ điều gì chúng ta làm liên quan đến Đấng Ki Tô , chúng ta làm trong đời này. Đừng đánh cược rằng bạn sẽ vẫn còn nhiều thời gian hoặc bạn có thể trả lời sau. Kinh Thánh nói, “Hãy tìm kiếm Chúa trong khi còn tìm được,hãy kêu cầu Ngài đang khi Ngài ở gần (Ê-saia  55:6).

    Tôi ở đây để nói với bạn rằng Chúa Giê-xu là đường đi, chân lý và sự sống. Ngài là con đường duy nhất đưa chúng ta đến với Đức Chúa Trời. Ngài là Con Đức Chúa Trời và cũng là Con Người, Chúa Cứu Thế của chúng ta, Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, Đấng sinh trước nhất từ trong những kẻ chết. Ngài là Đấng Tạo Hóa của chúng ta, Đấng Bảo Vệ, Đấng Cứu Chuộc và Bạn Hữu của chúng ta. Ngài là Đấng Ki Tô , Vầng Đá của Thời đại, Nền vững chắc, Đá Góc Nhà. Một khi bạn không quên Ngài là Cứu Chúa của bạn, thì bạn sẽ không bao giờ phải lo lắng về tội lỗi không thể tha thứ.