3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

LỜI KINH LẠY CHA

Thánh Phaolô nói rằng Chúa Thánh Thần là bậc thầy vĩ đại của lời cầu nguyện, Đấng dạy chúng ta thưa chuyện với Thiên Chúa, gọi Thiên Chúa bằng những lời trìu mến “Abba, Cha ơi” mà trẻ thơ vẫn dùng. Đây chính là điều Chúa Giêsu đã làm; ngay cả trong khoảnh khắc bi thảm nhất của cuộc đời trần thế, Ngài vẫn không bao giờ đánh mất niềm tin vào Chúa Cha và luôn kêu cầu Chúa Cha với lòng trìu mến của Người Con yêu dấu. Trong vườn Giếtsêmani, khi Ngài cảm thấy đau đớn vì cái chết đang đến gần, Ngài đã cầu nguyện: “Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14:36).

Ngay từ những bước đầu tiên trên hành trình của mình, Giáo Hội đã đón nhận lời cầu khẩn này và biến lời đó thành của riêng mình, đặc biệt là trong lời “Kinh Lạy Cha”, mà chúng ta đọc mỗi ngày: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6: 9-10).

Chúng ta thấy lời cầu nguyện này được lặp lại hai lần trong các Thư của Thánh Phaolô. Thánh Tông Đồ đã ngỏ lời này với tín hữu Galát: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4: 6). Và, ở trung tâm của bài thánh ca dâng lên Chúa Thánh Thần, tức chương tám của Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô tuyên bố: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: Abba! Cha ơi!” (Rm 8:15).

Kitô giáo không phải là một tôn giáo của sợ hãi, nhưng là của niềm tin và tình yêu dành cho Chúa Cha, Đấng yêu thương chúng ta. Cả hai lời khẳng định quan trọng này đều nói với chúng ta về việc Thiên Chúa sai Chúa Thánh Thần đến và việc chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thần, ân huệ của Đấng Phục Sinh, Đấng làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô, Con Một, và đặt chúng ta vào mối tương quan con thảo với Thiên Chúa, một mối tương quan tin tưởng sâu xa, như con cái; một mối tương quan con thảo giống như Chúa Giêsu, dù nguồn gốc và phẩm tính của mối tương quan đó khác nhau. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa vĩnh cửu, Đấng đã mặc lấy xác phàm; trong khi đó, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô, trong thời gian, qua đức tin và qua các bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Nhờ hai bí tích này, chúng ta được dìm mình vào Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần là ân huệ quý giá và cần thiết làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, mang đến ơn nghĩa tử mà tất cả nhân loại được mời gọi, bởi vì, như lời chúc phúc thiêng liêng trong Thư gửi tín hữu Êphêsô đã giải thích: “Trong Chúa Kitô, Ngài đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giêsu Kitô” (Êphêsô 1:4 -4).

Có lẽ con người ngày nay không nhận ra được vẻ đẹp, sự vĩ đại và niềm an ủi sâu xa chứa đựng trong từ “Cha”, mà chúng ta có thể kêu lên Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, bởi vì ngày nay hình ảnh người cha vốn thường không hiện diện đầy đủ và thường không đủ tích cực trong cuộc sống hàng ngày. Sự vắng mặt của người cha, vấn đề của một người cha không hiện diện trong cuộc đời của một đứa con, là một vấn đề nghiêm trọng của thời đại chúng ta. Do đó, hiểu được ý nghĩa của việc nói rằng Thiên Chúa thực sự là Cha của chúng ta là điều thật khó. Chính từ Chúa Giêsu, từ mối tương quan con thảo của Ngài với Thiên Chúa Cha mà chúng ta có thể học được ý nghĩa thực sự của từ “Cha” và bản chất đích thực của Chúa Cha trên trời là gì.

Những người chỉ trích tôn giáo đã nói rằng việc nói về “Cha”, về Thiên Chúa, là sự phóng chiếu hình ảnh của tổ tiên chúng ta lên cõi trời. Nhưng điều ngược lại mới đúng: trong Tin Mừng, Chúa Kitô cho chúng ta thấy ai là Cha, và vì Người Cha đó là một Người Cha đích thực, nên chúng ta mới có thể hiểu được tình phụ tử đích thực là gì và thậm chí học được tình phụ tử đích thực đó. Chúng ta hãy suy ngẫm về những lời của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu nói: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:44-45). Chính tình yêu của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa, Đấng đã đi đến chỗ hiến mình trên Thập Giá, đã mạc khải cho chúng ta bản chất đích thực của Chúa Cha: Ngài là Tình Yêu, và trong lời cầu nguyện của chúng ta, với tư cách là con cái, chúng ta cũng bước vào vòng tròn tình yêu này, tình yêu của Thiên Chúa thanh tẩy những ham muốn, những thái độ khép kín, tự mãn và tính ích kỷ đặc thù của con người xưa cũ.

Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng thực tại Thiên Chúa là Cha có hai chiều kích. Trước hết, Thiên Chúa là Cha chúng ta bởi vì Ngài là Đấng Tạo Hóa của chúng ta. Mỗi người chúng ta, nam cũng như nữ, là một phép lạ của Thiên Chúa, được Ngài mong muốn và được Ngài biết đến một cách cá vị riêng tư. Khi Sách Sáng Thế nói rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (1:27), Kinh Thánh cố gắng diễn tả chính xác thực tại này: Thiên Chúa là Cha chúng ta, nhờ Ngài và vì Ngài, chúng ta không vô danh, không phải là những hữu thể phi ngôi vị nhưng có một danh xưng. Và một câu trong Thánh Vịnh luôn làm ta xúc động mỗi khi cầu nguyện. Tác giả Thánh Vịnh nói “Tay Chúa đã nắn con nên hình nên dạng” (Tv 119 :73). Trong hình ảnh tuyệt đẹp này, mỗi người chúng ta có thể diễn tả mối tương quan cá nhân của mình với Thiên Chúa. “Bàn tay Chúa đã nắn nên con. Chúa đã nghĩ đến con, đã tạo dựng và mong muốn con”.

Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ. Thần Khí Chúa Kitô mở ra cho chúng ta một chiều kích thứ hai của tình phụ tử Thiên Chúa, vượt ra ngoài tạo vật, bởi vì Chúa Giêsu là “Con” theo nghĩa trọn vẹn là “đồng bản thể với Chúa Cha”, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Trở nên con người như chúng ta, qua việc Nhập Thể, chịu chết và Phục Sinh, Chúa Giêsu đến lượt Ngài đón nhận chúng ta trong nhân tính của Ngài và thậm chí trong bản tính Ngôi Con của Ngài, để chúng ta cũng được tham dự vào sự thuộc về Thiên Chúa cách đặc biệt của Ngài. Dĩ nhiên, việc chúng ta là con cái Thiên Chúa không có được sự trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúng ta phải ngày càng trở nên trọn vẹn như Chúa Giêsu trong suốt hành trình đời sống Kitô hữu, phát triển trong việc theo Chúa Kitô và hiệp thông với Ngài để ngày càng đi sâu hơn vào mối tương quan tình yêu với Thiên Chúa Cha, Đấng duy trì sự sống của chúng ta.

Chính thực tại nền tảng này được mạc khải cho chúng ta khi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần và Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta hướng về Thiên Chúa mà nói “Abba! Lạy Cha”. Chúng ta thực sự đã đi “trước cả khi tạo thành vũ trụ”, bước vào ơn được nên nghĩa tử cùng với Chúa Giêsu; được hiệp nhất, chúng ta thực sự ở trong Thiên Chúa và là con cái của Ngài theo một cách thức mới, trong một chiều kích mới.

Thánh Phaolô có hai đoạn văn nói về hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lời cầu nguyện mà chúng ta đang suy ngẫm. Đây cũng là hai đoạn văn tương ứng với nhau nhưng mang một sắc thái khác nhau. Thực vậy, trong Thư gửi tín hữu Galát, Thánh Tông Đồ nói rằng Chúa Thánh Thần kêu lên: “Abba! Cha ơi!” trong chúng ta. Trong Thư gửi tín hữu Rôma, ngài nói rằng chính chúng ta kêu lên: “Abba! Cha ơi!” Và Thánh Phaolô muốn chúng ta hiểu rằng lời cầu nguyện của người Kitô hữu không bao giờ chỉ có một chiều, không bao giờ chỉ diễn ra từ chúng ta đến Thiên Chúa, không bao giờ chỉ là “một hành động của chúng ta”, mà đúng hơn, là sự biểu lộ của một mối tương quan qua lại, trong đó Thiên Chúa là Đấng hành động trước; chính Chúa Thánh Thần kêu lên trong chúng ta và chúng ta có thể kêu lên vì có động lực đến từ Chúa Thánh Thần.

Chúng ta sẽ không thể cầu nguyện nếu lòng khao khát Thiên Chúa, khao khát được làm con Thiên Chúa, không được khắc ghi trong sâu thẳm trái tim chúng ta. Từ khi xuất hiện, con người thông minh, homo sapiens, luôn tìm kiếm Thiên Chúa và nỗ lực thưa chuyện với Ngài bởi vì Thiên Chúa đã khắc ghi chính Ngài trong cõi lòng chúng ta. Do đó, sáng kiến đầu tiên đến từ Thiên Chúa, và với Bí tích Rửa tội, một lần nữa Thiên Chúa hành động trong chúng ta, Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta; Ngài là Đấng khởi xướng lời cầu nguyện đầu tiên để chúng ta thực sự có thể trò chuyện với Thiên Chúa và thưa “Abba! Cha ơi!” với Thiên Chúa. Do đó, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần làm cho những lời cầu nguyện và cuộc sống của chúng ta được mở rộng ra, ra mãi tới tận những chân trời của Ba Ngôi Thiên Chúa và của Giáo hội.

Thêm vào đó, chúng ta nhận ra điểm thứ hai, rằng lời cầu nguyện của Thánh Thần Chúa Kitô trong chúng ta và lời cầu nguyện của chúng ta trong Ngài không chỉ là một hành động cá nhân mà là một hành động của toàn thể Giáo hội. Khi cầu nguyện, tâm hồn chúng ta được mở ra, chúng ta không chỉ hiệp thông với Thiên Chúa mà còn thực sự hiệp thông với tất cả con cái của Thiên Chúa, bởi vì chúng ta là một thân thể. Khi chúng ta hướng về Chúa Cha trong không gian nội tâm của mình trong thinh lặng và tĩnh tâm, chúng ta không bao giờ cô đơn. Những ai thưa chuyện với Thiên Chúa thì không cô đơn. Chúng ta đang ở trong lời cầu nguyện lớn lao của Giáo Hội, chúng ta là một phần của bản giao hưởng vĩ đại mà cộng đoàn Kitô hữu trên khắp thế giới và trong mọi thời đại dâng lên Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhạc công và nhạc cụ khác nhau, và đây là một yếu tố làm phong phú, nhưng giai điệu ngợi khen thì duy nhất và hòa hợp. Vì vậy, mỗi khi chúng ta kêu lên hoặc thưa: “Abba! Cha ơi!”, thì chính Giáo Hội, toàn thể cộng đoàn dân Chúa đang cầu nguyện, nâng đỡ lời cầu khẩn của chúng ta, và lời cầu khẩn của chúng ta chính là lời cầu khẩn của Giáo Hội.

Điều này cũng được phản chiếu trong sự phong phú của các đặc sủng, các thừa tác vụ và nhiệm vụ mà chúng ta thực hiện trong cộng đoàn. Thánh Phaolô viết cho các Kitô hữu Côrintô: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người” (1 Cr 12:4-6).

Lời cầu nguyện vốn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Đấng khiến chúng ta thưa lên “Abba! Cha ơi!” cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, đưa chúng ta vào bức tranh khảm vĩ đại của gia đình Thiên Chúa, trong đó mỗi người đều có một vị trí và vai trò quan trọng, trong sự hiệp nhất sâu sắc với toàn thể.

Cuối cùng: chúng ta cũng học cách kêu lên “Abba! Lạy Cha!” cùng với Đức Maria, Mẹ của Con Thiên Chúa. Sự viên mãn của thời gian, mà Thánh Phaolô nói đến trong Thư gửi tín hữu Galát: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”(4:4), được thực hiện vào khoảnh khắc Đức Maria thưa “Xin vâng”, khoảnh khắc Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1: 38).

Chúng ta hãy học cách cảm nếm, trong những lời kinh của chúng ta, vẻ đẹp của việc được làm bạn, làm con cái thực sự của Thiên Chúa, được kêu lên Ngài với lòng tin tưởng của một người con dành cho cha mẹ yêu thương mình. Chúng ta hãy mở lòng cầu nguyện để cho Chúa Thánh Thần hoạt động, để trong chúng ta Ngài kêu lên Thiên Chúa lời: “Abba! Cha ơi!”, và để lời cầu nguyện của chúng ta biến đổi và liên tục hoán cải cách suy nghĩ cũng như hành động của chúng ta, để đưa chúng ta ngày càng gần gũi hơn với Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI

(Tiếp kiến chung, tại quảng trường Thánh Phêrô, thứ Tư, ngày 23 tháng 5 năm 2012.)

Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung

https://www.vatican.va

THAM VỌNG

Lễ Kính Thánh Giacôbê Tông đồ

“Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”.

“Chúng ta đến với thế giới để sống; Ngài đến với thế giới để chết! Chúa các chúa nên tôi tớ hèn hạ để phục vụ một nhân loại khốn cùng! Con người của các nỗi buồn làm quen với vực thẳm đau buồn để trở thành niềm vui cho thế giới!” – Anthony Fortosis.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng lễ thánh Giacôbê mô tả bức tranh nội tâm ‘tham vọng’ của người môn đệ mọi thời! Hai người ‘chạy chọt’ chỗ nhất, 10 người tức tối; cả 12 người ‘đến với thế giới để sống!’. Con Thiên Chúa – hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người – ‘đến với thế giới để chết!’.

Gioan và Giacôbê đã quảng đại khi bỏ lại gia đình và lưới cá để theo Chúa Giêsu, nhưng họ không hiểu được chiều kích mới mẻ Ngài đặt ra. Vì vậy, mẹ của họ đã cầu xin một điều gì đó vừa đủ tốt đẹp, nhưng không vượt quá ‘tham vọng’ thế tục. Cách tương tự, chúng ta đi theo Chúa nhưng không phải lúc nào cũng hiểu trọn vẹn sứ điệp của Ngài; nhiều lần chúng ta chạy vạy tìm kiếm những sở thích và ‘tham vọng’ cá nhân trong Giáo Hội. “Tham vọng và háo danh là phong cùi – phong cùi trong lòng Giáo Hội!” – Phanxicô.

Chúng ta quên rằng, không thể nghĩ đến vinh quang nếu chưa chấp nhận thập giá. Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh chính xác vào khía cạnh này! Để được chia sẻ Vương Quốc, điều quan trọng là cùng Ngài uống một chén, là sẵn sàng và ước mong hiến mạng sống vì tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. “Cám dỗ nguy hiểm nhất là dùng sứ mạng của Thiên Chúa để thực hiện sứ mạng của chính mình!” – Von Balthasar. Chúa Giêsu chỉ ra bài học về sự vĩ đại thực sự. Đó không phải là vấn đề địa vị hay quyền lực, nhưng là cống hiến hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và hạnh phúc của người khác.

Chính Chúa Giêsu là kiểu mẫu sống động về điều này. Toàn bộ cuộc đời Ngài là một sứ mệnh yêu thương và phục vụ vô điều kiện. Ngài đã chết trong sự xấu hổ và ô nhục của một kẻ vô danh. Và đó là sự vĩ đại. Tất nhiên, theo thời gian, Giacôbê sẽ học được bài học này và sẽ noi gương Thầy mình trong việc ‘uống chén đắng’ và hiến dâng mạng sống vì Tin Mừng. Phaolô cũng đã mô tả chén đắng đi kèm với sứ mệnh, “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu” – bài đọc một. “Chén mà Chúa Giêsu mời gọi ta uống là chén sầu đau, nhưng cũng là chén hoan lạc – của sự hiệp thông sâu xa với nỗi khổ đau của thế giới!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

May thay, những con người như Giacôbê, như các tông đồ, vốn từng ‘đến với thế giới để sống’ cho những ‘tham vọng’ của mình đã được Chúa Phục Sinh biến đổi, và họ đã nên giống Thầy mình; đã trở thành những con người phục vụ, trở thành niềm vui cho thế giới. Không chỉ đến với thế giới để chết; Giacôbê và các tông đồ cùng những ai tiếp nối các ngài còn đến với thế giới để sống và cứu rỗi nó. Cũng thế, không để hỏng cuộc gọi, bạn và tôi hãy cho phép mình được biến đổi. “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để có thể trở thành niềm vui cho thế giới, giúp con gạt bỏ mọi ‘tham vọng’ nặng mùi thế gian!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

KHO TÀNG VÔ GIÁ

Hôm ấy, khi được Chúa Giê-su đến thăm nhà, Mác-ta vui mừng tiếp đón và tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo của mình.

Vậy mà Chúa Giê-su lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mác-ta: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi" (Lc 10, 41-42).

Maria đã chọn phần tốt nhất, vì lắng nghe Lời Chúa là việc hệ trọng nhất trên đời, là khai thác một kho tàng vô giá, là nắm lấy bí quyết để được sống hạnh phúc muôn đời...    

Lời Chúa biến đổi lòng người

Trong nhiều trường hợp, người ta chỉ cần đón nhận một câu Lời Chúa thôi cũng đủ để thay đổi cuộc đời. Xin nêu lên vài trường hợp tiêu biểu:

- Thứ nhất: Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e sinh tại Tây Ban Nha năm 1506. Năm 19 tuổi, anh đến Pa-ri, vào đại học với ước mơ trở thành giáo sư.

Tại đây, anh gặp thánh I-nha-xi-ô và được ngài lấy Lời Chúa nhắc nhở rằng: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mt 16,16).

Những lời nầy đã xoay chuyển hoàn toàn cuộc đời Phan-xi-cô, soi cho anh thấy công danh sự nghiệp đời nầy chỉ là phù du, hư ảo. Thế là Phan-xi-cô dứt khoát từ bỏ danh vọng thế gian, hiến dâng đời mình để phụng sự Chúa và cứu rỗi các linh hồn, mang Tin mừng Chúa đến với các dân tộc Á Châu tại Ấn-độ, Malaysia, Indonesia và Nhật Bản.

- Thứ hai: Một câu Lời Chúa quen thuộc khác là: “Những gì các con đã làm cho những anh em bé mọn của Ta đây là đã làm cho chính Ta” cũng tác động mạnh mẽ tâm hồn mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta, thôi thúc mẹ cũng như hàng ngàn chị em trong Hội dòng Thừa sai Bác ái do mẹ thành lập, tận hiến cả cuộc đời, dấn thân phục vụ hết sức tận tình những người bất hạnh khắp nơi trên thế giới.

Lời Chúa xóa bỏ hận thù, xây đắp tình yêu thương

Cụ thể là:

- Nhờ Lời Chúa soi sáng, người ta sẽ không xem người khác là xa lạ, là kẻ thù… nhưng là anh chị em ruột thịt có chung một người Cha là Thiên Chúa; nhờ đó, thay vì sống thờ ơ, vô cảm, ghét bỏ người khác… mọi người sẽ yêu thương đùm bọc nhau.

- Nhờ Lời Chúa dạy, người ta nhận ra Chúa Giê-su đang hiện diện nơi những người chung quanh, đang thực sự sống trong mỗi người; nhờ đó, người ta sẽ tôn trọng nhau như tôn trọng Chúa, ân cần phục vụ người khác tận tình như phục vụ chính Chúa Giê-su.

- Nhờ ánh sáng của Lời Chúa, người ta nhận biết sự thật tuyệt vời là có cuộc sống đời sau; biết trần gian chỉ là quán trọ, thiên đàng mới là quê hương; biết cùng đích của đời người không phải là nấm mồ hoang lạnh, nhưng là cõi phúc hoan lạc đời đời trên thiên quốc.

- Ngoài ra, Lời Chúa còn cải thiện cuộc sống con người, giúp họ diệt trừ thói hư tật xấu để sống quảng đại, tốt lành, nhân ái hơn.

Tóm lại, Lời Chúa đẩy lùi sự gian ác, xóa bỏ hận thù, dập tắt lửa chiến tranh.

Lời Chúa mang lại hòa bình, vun đắp tình yêu thương, mang lại hạnh phúc cho muôn người.

Chính vì vậy, lắng nghe và thực hành Lời Chúa là việc cần thiết và quan trọng nhất trên đời.

Lạy Chúa Giê-su,

Lời Chúa như ngọn hải đăng soi đường cho nhân loại giữa biển đời tăm tối; Lời Chúa là kim chỉ nam chỉ lối cho người lạc bước giữa rừng sâu.

Xin cho chúng con luôn quý trọng Lời Chúa và để cho Lời Chúa hướng dẫn mọi hoạt động hằng ngày của mình; nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ trở nên thánh thiện, an vui và hạnh phúc. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Lu-ca (Lc 10, 38-42)

38 Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. 39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói : "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !" 41 Chúa đáp : "Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! 42 Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."

ĐÓN TIẾP CHÚA LÀ VIỆC CẦN THIẾT

Có những lúc, giữa bao bộn bề của cuộc sống, chúng ta chỉ muốn một phút ngồi xuống, thở chậm lại và tự hỏi: “Điều gì là quan trọng nhất trong đời tôi lúc này?” Chúa Giêsu trả lời: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,41-42). 

  1. Khi Thiên Chúa đến trong dáng vẻ người khách lạ

Trong một buổi trưa nắng gắt, “vào lúc nóng nực nhất trong ngày” (St 18: 1), ông Abraham đang ngồi nơi cửa lều thì bỗng thấy ba người lạ đứng gần. Ông không biết họ là ai, nhưng đã lập tức chạy ra đón, sụp mình lạy họ, khẩn khoản mời vào nhà: “xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài” (St 18: 3).

Không một chút do dự, ông vội vã vào lều bảo vợ lấy bột làm bánh, chọn con bê non mềm và ngon để làm thịt, rồi dọn sữa chua, sữa tươi đãi khách. Khi mọi sự đã sẵn sàng, ông “đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa” (St 18: 8). Một chủ nhà nhưng lại đứng hầu khách như đầy tớ.

Ông Abraham không ngờ rằng mình vừa tiếp đón chính Thiên Chúa cùng hai thiên thần. Chính từ cuộc viếng thăm ấy, một lời hứa vĩ đại được ban ra: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai” (St 18: 10). Cuộc đời tưởng như đã khép lại của ông và vợ mình bỗng mở ra chương mới, mang tên Lời Hứa.

Thánh Gioan Kim khẩu suy niệm: “Thật tuyệt vời và đáng chú ý khi chúng ta tiếp đón với lòng thiện chí lớn lao bất cứ ai tình cờ đi ngang qua, ngay cả những người bị ruồng bỏ và những người vô giá trị. Chúa Kitô đã nói: Mỗi lần các ngươi làm điều đó cho một trong những người bé nhỏ nhất này, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy… Ở khắp mọi nơi, Chúa Kitô đều nói nhiều về những người nhỏ bé và tầm thường. Abraham cũng biết điều này, nên ông không hỏi những người đi ngang qua họ là ai và họ đến từ đâu, như chúng ta vẫn làm ngày nay; ông chỉ đơn giản chào đón tất cả những người qua đường. Vì nếu bạn muốn thể hiện lòng nhân từ, bạn không yêu cầu người khác cần phải có tiêu chuẩn gì, nhưng chỉ cần đáp ứng nhu cầu của họ” (Bàn về sự giàu có và nghèo đói, bản dịch: Catharine P. Roth, Crestwood, NY: SVS Press, 1984, 50-52). Bởi Thiên Chúa không chỉ đến trong ánh chớp hay gió lớn, mà còn đến trong hình dáng một người lạ xin nước uống ven đường.

  1. Mácta và Maria: phục vụ phải đi kèm lắng nghe

Đối chiếu với câu chuyện Ápraham là hình ảnh hai chị em Mácta và Maria (Lc 10: 38 - 42). Một lần khác, cũng là tiếp đón, nhưng phản ứng của hai người lại hoàn toàn khác.

Cô Mácta đón Chúa Giêsu vào nhà và lập tức “tất bật lo việc phục vụ” (Lc 10: 40). Bếp núc, khăn bàn, dọn dẹp, tất cả đổ dồn lên cô. Trong khi đó, cô em Maria chỉ ngồi yên bên chân Chúa, lắng nghe Lời Ngài dạy. Sự trái ngược khiến Mácta không chịu nổi. Cô lên tiếng phàn nàn với Chúa: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10: 40).

Phản ứng của Chúa thật nhẹ nhàng mà cũng sâu xa: “Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10: 41 - 42).

Thánh Augustinô nhận định: “Không phải Chúa trách Mácta vì phục vụ, mà vì cô đã để công việc làm tâm hồn rối loạn. Maria được khen không phải vì lười biếng, mà vì đã biết lắng nghe trong thinh lặng” (Sermo 103, PL 38).

Cả Mácta và Abraham đều tiếp đón Chúa bằng hành động cụ thể: dọn bữa, phục vụ. Nhưng Maria đón Chúa bằng cách lắng nghe. Lắng nghe nơi chân Ngài, không để tiếng ồn ào nào che lấp được giọng nói yêu thương.

  1. Thánh Phaolô: đón Chúa trở thành mang lấy Chúa

Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôxê đưa việc “đón tiếp Chúa” đến một chiều sâu hơn nữa. Đó không chỉ là hành động, hay thậm chí là cầu nguyện, mà là một đời hiến dâng. Ngài viết: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh” (Cl 1,24).

Với Phaolô, tiếp đón Chúa là mang lấy thập giá của Ngài, mang lấy cuộc đời và sứ mạng của Ngài, như một người tôi tớ trung tín. Và mầu nhiệm ấy là “Chính Chúa Kitô đang ở giữa anh em” chính là “Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1: 27). Nơi Phaolô, ta thấy một người không chỉ đón nhận Chúa một lần, mà là mang lấy Chúa trọn đời, cả trong đau khổ, rao giảng, và hy sinh.

Thánh Giáo Hoàng Phaxicô nói: “Mọi sự đều phải được gác sang một bên khi Chúa Kitô đến thăm viếng chúng ta trong cuộc sống; sự hiện diện và lời Ngài phải được đặt lên trên hết mọi sự. Khi chúng ta thực sự tập trung lắng nghe Ngài, mây mù tan biến, nghi ngờ nhường chỗ cho chân lý, sợ hãi được thanh thản, và những tình huống khác nhau của cuộc sống được đặt đúng chỗ…Thái độ cầu nguyện của người tín hữu là ở trong sự hiện diện của Chúa để lắng nghe Ngài và hòa hợp với Ngài…là dừng lại vài phút trong ngày để tập trung vào sự thinh lặng, để dành chỗ cho Chúa…để ở lại một chút bên lề với Ngài, sau đó trở lại với những công việc hàng ngày với sự thanh thản và sức mạnh. Khi khen ngợi Maria đã chọn phần tốt hơn, Chúa Giêsu dường như lặp lại với mỗi người chúng ta: Đừng để mình bị choáng ngợp bởi những việc phải làm, nhưng trước hết và trên hết, hãy lắng nghe tiếng Chúa, để thực hiện đúng đắn những nhiệm vụ mà cuộc sống giao phó cho bạn” (Kinh truyền tin, quảng trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật, 21 tháng 7 năm 2019).

  1. Một chuyện cần thiết mà thôi

Câu trả lời của Chúa Giêsu với Mácta: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” (Lc 10: 42), nghe thì đơn giản, nhưng đòi hỏi cả một đời chiêm nghiệm. Trong một thế giới ồn ào, vội vã, chúng ta thường giống Mácta hơn là Maria: luôn bận bịu, lo toan, băn khoăn điều này điều kia. Ngay cả khi làm việc tốt, như phục vụ người khác, ta cũng có thể quên mất lý do tại sao ta làm như vậy.

Lời Chúa nhắc nhở chúng ta phục vụ phải đi đôi với lắng nghe; hành động phải được nuôi dưỡng từ tương quan nội tâm với Thiên Chúa. Nếu không, phục vụ sẽ trở thành gánh nặng, sự bực tức, như Mácta đã cảm thấy. Và “chuyện cần thiết” ấy là gì? Là ở bên Chúa. Là để Chúa yêu ta. Là cho Ngài một chỗ nơi tâm hồn ta. Là mở cửa để Ngài bước vào.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết trong Tông huấn Hãy Vui mừng Hoan hỉ - Gaudete et Exsultate: “Chúng ta không thể bỏ qua cầu nguyện thinh lặng lâu giờ vốn có thể giúp chúng ta nhận rõ hơn tiếng nói của Chúa, để hiểu ý nghĩa thực sự của những linh hứng mà chúng ta tin rằng mình đã tiếp nhận, để xoa dịu những lo âu và để tái tạo toàn thể cuộc sống của mình cách mới mẻ trong ánh sáng của Chúa.” (GE số 171)

  1. Những cụm sồi Mamrê hôm nay

Thế giới hôm nay vẫn có những cụm sồi Mamrê, nơi Chúa đến gõ cửa, không phải dưới hình ba người khách lạ, mà có thể là:

  • Một người nghèo xin ta giúp đỡ giữa trưa hè nắng gắt.
  • Một đứa con cần mẹ lắng nghe mà không bị gián đoạn bởi điện thoại.
  • Một người bạn gọi ta giữa lúc ta đang bận, chỉ để xin lời khuyên.

Đón tiếp Chúa không chỉ là tham dự Thánh lễ hay đọc kinh sáng tối, mà là sống với trái tim rộng mở, nhạy cảm trước nhu cầu của tha nhân.

Cha xứ của một giáo xứ ngoại thành Sài gòn kể chuyện: một ngày nọ, cha đang họp thì có một bà cụ lạ mặt già yếu gõ cửa xin ly nước. Ông giúp việc định từ chối, nhưng cha xứ động lòng thương, mời bà vào uống nước và nói chuyện. Qua chuyện trò, bà cho cha xứ biết bà từng là người phục vụ các sơ trong một nhà dòng. Nay bà già yếu, một mình, nương tựa người này người nọ, sống lây lất qua ngày. Cha xứ thấy tội nghiệp bà quá liền xin bà con trong xứ giúp bà vào ở trong nhà dành riêng cho các cụ ông cụ bà neo đơn trong xứ. Bà vào đó ở, được chăm sóc ăn uống và thuốc men, mãi cho đến khi bà chết lành, trong ơn nghĩa Chúa và bình an. Cha xứ kết luận: “Nếu hôm đó tôi quá để ý đến cuộc họp hơn là quan tâm đến một người khát nước, thì tôi đã bỏ lỡ chính Chúa rồi.”

Suy cho cùng, điều đẹp nhất không chỉ là đón Chúa vào nhà mình, mà là để Ngài cư ngụ nơi mình, rồi trở nên người mang Chúa đến cho người khác. Như Abraham, ta tiếp Chúa bằng lòng hiếu khách, rồi Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Ngài. Như Maria, ta ngồi lắng nghe, rồi đem Lời Chúa gieo vào lòng người. Như Phaolô, ta mang lấy Chúa, để chia sẻ Ngài với Hội Thánh.

Từ đón tiếp  đến lắng nghe rồi mang lấy và rao giảng, đó là hành trình thiêng liêng của người môn đệ Chúa Giêsu Kitô. Giữa những xô bồ của đời sống, Chúa vẫn đến với ta mỗi ngày: qua những tiếng gọi nhẹ nhàng, những khuôn mặt mệt mỏi, những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Câu hỏi là: Liệu ta có đang ở cửa lều như Abraham, sẵn sàng mở lòng? Hay ta đang tất bật như Mácta, đến mức chẳng còn giờ để lắng nghe Chúa nói? Hãy chọn phần tốt nhất. Hãy để mỗi căn nhà, trái tim, và công việc của bạn trở thành một cụm sồi Mamrê, nơi Thiên Chúa được tiếp đón, yêu mến, và ngự trị.

Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” (Lc 10: 42). Lạy Chúa, xin cho con biết chọn lắng nghe Lời Chúa, sống nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa, hôm nay và mãi mãi.

Phêrô Phạm Văn Trung

Maria đã chọn phần tốt nhất

A. DẪN NHẬP.

Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng muốn được người ta tôn trọng và đón tiếp, ai cũng ca tụng tính hiếu khách vì hiếu khách là một đức tính tốt, và người hiếu khách là người có tinh thần bác ái. Sách Sáng thế cho biết ông Abraham là một người hiếu khách, ông đã mời ba người khách lạ vào lều và hầu hạ họ như tôi tớ. Đáp lại tấm thịnh tình của ông, ba vị sứ giả của Thiên Chúa loan báo cho ông biết là ông sẽ có con trai trong tuổi già (Bài đọc 1). Martha và Maria cũng là người hiếu khách, hai chị em đã đón tiếp Đức Giêsu vào nhà và đã phục vụ Ngài một cách tận tình, tuy mỗi người có một cách phục vụ khác nhau (Tin mừng).

Trong cách tương giao, câu chuyện giữa chủ và khách  là một cuộc đối thoại chứ không phải là độc thoại. Theo tâm lý chung, ai cũng thích nói, muốn bộc lộ hết tâm tư cho người kia, nhưng người sành tâm lý và được người ta ưa chuộng là người biết lắng nghe, tạo cơ hội cho người kia bộc bạch hết tâm tình của mình.  Trong cuộc đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Martha chỉ bận rộn cho bữa ăn mà bỏ quên Ngài, còn Maria thì biết tạo cơ hội cho Ngài thổ lộ tâm tình và được hiểu biết những chân lý mà Ngài muốn mạc khải cho. Trong hai cách phục vụ thì Chúa thích lối phục vụ của Maria hơn, đó là biết lắng nghe :”Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Trong cuộc sống Kitô hữu, nhất là trong cuộc sống tông đồ, sinh hoạt để làm sáng danh Chúa là một điều tốt, nhưng những sinh hoạt ấy chỉ đem lại lợi ích nếu nó được đan dệt bằng sự cầu nguyện, bằng suy niệm và bằng sự thinh lặng trong sự hiện diện của Chúa. Chúng ta đừng đặt câu hỏi : Chúa có nói với chúng ta không, mà phải  hỏi ngược lại : chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để nghe Ngài hay không ?

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+  Bài đọc 1 : St 18,1-10a.

Bài đọc 1 hôm nay nói lên lòng hiếu khách của ông Abraham. Câu chuyện ấy như sau : Trong một bữa trưa nóng bức, Abraham đang ở trong lều thấy có ba người khách lạ đang đứng ở ngoài lều. Ông vội vàng mời ba người khách lạ vào nhà và tiếp đãi một cách rất nồng hậu : lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, lấy con bê béo tốt làm thịt đãi khách. Ông không ngờ đây là ba vị sứ giả của Thiên Chúa.

Đáp lại lòng hiếu khác và quảng đại của Abraham, ba vị sứ giả đã loan báo cho ông : Thiên Chúa sẽ ban cho ông một đứa con trai đầu lòng mà ông hằng mơ ước, mặc dầu hai ông bà  đều già quá tuổi sinh con.

+  Bài đọc 2 : Cl 1,24-28.

Mầu nhiệm được giữ kín nơi Thiên Chúa, nay được vén mở : đó là bản thân Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Là những người được hưởng nhờ mầu nhiệm này, chúng ta cũng phải chia sẻ cho người khác biết.

Thánh Phaolô đã hiểu được mầu nhiệm này, ngài cũng muốn chia sẻ cho người khác khi Ngài thi hành sứ mạng tông đồ. Vì thế, ngài vui sướng vì được chịu đau khổ, biến những đau khổ ấy thành niềm vui. Sở dĩ có được tinh thần ấy vì ngài ý thức rằng nhờ đó mà ngài được bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.

+  Bài Tin mừng : Lc 10,38-42.

Khi Đức Giêsu đến viếng thăm Martha và Maria, ta thấy mỗi người có một cung cách tiếp khách : Martha thì cho, còn Maria thì nhận .  Martha thì bận rộn lo đủ mọi chuyện để dâng cho Đức Giêsu một bữa cơm ngon miệng. Cô bận rộn đến nỗi phải xin Ngài bảo em giúp mình một tay. Còn Maria thì không làm gì cả, cô chỉ cung kính lắng nghe những lời Ngài dạy.

Câu chuyện này dạy cho chúng ta một bài học : điều Thiên Chúa muốn, không phải là chúng ta làm cho Ngài điều này điều nọ mà là để Ngài giáo huấn chúng ta , để chúng ta được biến đổi nhờ những lời giáo huấn ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi : biết lắng nghe Lời Chúa.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Lắng nghe Lời Chúa.

Truyện mở đầu : Vị vua đến thăm.

Ngày xưa có một vị vua muốn tìm cách giúp cho dân nước ấm no và hạnh phúc. Vua dự tính đi thăm viếng dân làng và hỏi ý kiến họ về tình hình đất nước. Nhà vua gửi sứ giả đến trước gặp hai gia đình ngài muốn thăm viếng để hỏi họ về những niềm hy vọng và ước mơ cho quê hương xứ sở.

Ngày đầu tiên vua đến với gia đình thứ nhất. Vì muốn làm cho vua vui lòng bằng một bữa tiệc  với những đồ ăn ngon quí giá chưa từng có, nên khi vua đến nơi, gia đình chủ nhà vẫn còn đang bận rộn vất vả dọn tiệc linh đình. Nhà vua và các quan cận thần phải ngồi ở sân trước nhà  để chờ đợi họ sửa soạn  bữa ăn. Bữa ăn rất ngon, nhưng khi dọn lên thì mọi người trong gia đình  đã quá mỏi mệt, không còn thì giờ và hứng thú để nói chuyện với vua về những điều vua muốn biết. Vua ra về và không mấy hài lòng.

Ngày hôm sau, vua đến thăm nhà thứ hai. Cả nhà ra đón tiếp vua một cách niềm nở. Mặc dù họ chỉ chuẩn bị một bữa ăn rất đơn sơ đạm bạc, nhưng buổi tối hôm đó mọi người trong gia đình đều ngồi quây quần bên vua, chia sẻ cởi mở  những uớc mơ và niềm hy vọng  của gia đình và dân làng. Họ rất phấn khởi  khi vua cho họ biết  những dự tính muốn thực hiện cho đất nước. Mặc dù không ăn uống thịnh soạn như tối hôm trước, nhưng khi ra về vua rất hài lòng  với buổi gặp gỡ đúng như ý ngài muốn.

Bài Tin mừng hôm nay (Lc 10, 38-42) cũng mang một nội dung như vậy : chị em Martha và Maria tiếp đón Đức Giêsu vào nhà mình, mỗi người có một cung cách tiếp đón. Vậy Đức Giêsu thích cách tiếp đón nào ? Của Martha hay của Maria ?

I. CÂU CHUYỆN NGƯỜI TIẾP ĐÃI KHÁCH.

1. Ông Abraham tiếp đón khách.

Bài sách Sáng thế ghi lại việc ông Abraham tiếp đãi sứ giả của Thiên Chúa một cách nồng hậu. Abraham đang ngồi hóng mát trước cửa lều trong buổi trưa nóng bức. Ông thấy ba người khách lạ đi ngang qua. Ông vội chạy ra mời họ quá bộ vào nghỉ mát, bưng nước cho khách rửa chân, dẫn khách nằm nghỉ dưới bóng cây. Ông bắt con bê béo làm thịt. Bà nhồi bột làm bánh. Ông hầu hạ khách như mình là tôi tớ. Đáp lại lòng hiếu khách của ông, sứ giả nói với ông :”Sang năm vào độ này, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”.

2. Martha và Maria đón tiếp Đức Giêsu.

Trên đường tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu ghé vào nhà chị em Martha , Maria và Lazarô ở làng Bêtania, cách Giêrusalem ba cây số. Martha đón rước Đức Giêsu vào nhà. Cô là chủ nhà và chưa có gia đình vì cô đón tiếp khách. Nếu có chồng thì chồng sẽ tiếp đón khách. Cách đón tiếp của Martha  đã chứng tỏ rằng gia đình này đã từng quen biết Ngài và đã có nhiều lần Ngài đến nhà như người quen biết thân mật (Ga 11,1-14).

Hai chị em có hai tính tình khác nhau : Martha là một người hoạt động, còn Maria là một người trầm lặng. Cô Maria cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Ngài. Còn cô Martha thì lăng xăng lo lắng đón tiếp Chúa, một vị khách quí mà cô muốn bầy tỏ hết lòng kính trọng. Martha cảm thấy khó chịu vì cô em không giúp mình một tay, sợ trễ giờ, đến nỗi phải xin Chúa can thiệp, với một giọng trách móc:”Xin Thầy bảo em con giúp con với”. 

Không biết câu trả lời của Đức Giês có làm cho Martha buồn không :”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi : Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”(Lc 10,42).

II. CÂU CHUYỆN NGƯỜI PHỤC VỤ VÀ LẮNG NGHE.

Như vậy, Martha và Maria xuất hiện ở đây như hai hai môn đệ nhiệt thành đón tiếp Đức Giêsu Thầy mình, nhưng Maria chỉ lắng nghe Lời Thầy, còn Martha lo dành riêng cho Thầy một sự đón tiếp nồng hậu.

1. Một Martha năng động. 

Martha là con người rất yêu mến Đức Giêsu, biết quan tâm tới sức khỏe của Ngài. Trên cuộc hành trình đi vào làng, Ngài mệt mỏi, đói bụng, phải được ăn uống bồi dưỡng để tiếp tục đi rao giảng Tin mừng. Sự lo lắng cho sức khỏe của người khác là nét tinh tế của người phụ nữ. Vì yêu Chúa nhiều, Martha mới lo lắng và lăng xăng như thế. Trong khi đó Ngài lại trách yêu Martha :”Martha, Martha, con lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá”(Lc 10,42). Nói như vậy, phải chăng là Ngài phê bình Martha chỉ đặt trọng tâm vào việc ăn uống ?

Căn cứ vào sự kiện Martha hối thúc nói với Maria giúp cô, một học giả Rachel Conrad Wehberg giải thích với một nét nhân từ hơn : Người ta phải suy luận rằng đây là công việc trong bếp hai người đã quen làm. Maria vẫn thường phụ giúp Martha. Nếu họ đã phân chia công tác: Martha nấu ăn, Maria tiếp khách, thì chẳng có vấn đề gì, vì mỗi người đều chấp nhận và kính trọng nhau. Nhưng ở đây, theo thói quen, cả hai chị em cùng làm công việc nấu nướng. Nếu cả hai cùng làm, sẽ mau có bữa ăn hơn, và cả hai chị em đều có cơ hội ngồi tâm sự với Chúa lâu giờ hơn. Do đó, Martha than phiền không phải vì bà chỉ bận tâm đến việc ăn uống, cũng không phải vì ghen tương, nhưng vì trái tim bà hối thúc muốn được cùng lắng nghe Lời Chúa, cùng ở bên Chúa với Maria. Đó là lý do Martha đã than phiền (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa lòng đời, năm C, tr 255-256).

Tuy nhiên, Đức Giêsu đang trong lúc bồn chồn lo lắng chuẩn bị cho cuộc tử nạn, Ngài muốn có người biết chia sẻ tâm tình hơn để làm vơi nỗi lòng mình, còn việc ăn uống lúc này thì chỉ là phụ thuộc, không cần thiết mấy. Maria đã đáp ứng đúng tâm trạng của Đức Giêsu.

Truyện : Thèm lòng chứ không thèm thịt.

Một người cha có thói quen, sau giờ làm việc, đi dạo chung với cô con gái. Ông cảm thấy rất hạnh phúc được chuyện trò với con. Thình lình, cô gái bắt đầu cáo lỗi vì không thể đi dạo hằng ngày với cha được. Người cha cảm thấy đau khổ nhưng không nói ra. Sau cùng vào ngày sinh nhật của ông, cô con gái mang đến tặng cha  một cái áo len mà cô mới đan. Người cha đã nhận thấy rằng cô con gái đã đan áo len trong lúc ông đi dạo một mình. Ông nói với con :”Martha. Martha, Ba rất quí chiếc áo này. Nhưng Ba thích con đi dạo với Ba hơn. Một cái áo len Ba có thể mua ở bất cứ tiệm bán quần áo nào. Nhưng con gái cưng của Ba, Ba không thể mua được. Con làm ơn đừng bao giờ bỏ rơi Ba nữa nhé”.

2. Một Maria trầm lặng. 

Cả hai chị em đều có đức tính đáng khen, cả hai đều yêu kính Thầy và ước ao được làm vui lòng Thầy. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Martha đã làm quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon lành. Còn Maria thì trực giác hơn được điều Chúa muốn, nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Ngài dạy. Cô biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, cô phải để ý đến ý muốn của vị khách trước, phải lắng nghe người khác nói. Trong việc tiếp đãi Thầy, cô đã làm được việc lớn hơn chị cô.

Bà Carnegie viết rất nhiều sách học làm người nổi tiếng. Trong cuốn “Đắc nhân tâm”, bà viết :”Cách làm cho khách vui lòng nhấùt là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như  vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc”. 

Truyện : Tổng thống Abraham Lincoln chia sẻ.

Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln  viết thư mời ông bạn cũ ở Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung là Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ  về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành  việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu, Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những nỗi suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại : “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln chỉ cần một người bạn thân thiết biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.

3. Một sự cần thiết mà thôi. 

Đức Giêsu trả lời cho Martha :”Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không ai lấy mất”. Câu trả lời của Đức Giêsu đã gây nên nhiều tranh luận và tùy cách hiểu mà dịch ra khác nhau.

Một cách theo như nghĩa trong truyện thì cô Martha lo lắng cho nhiều làm chi, một món  ăn là đủ rồi.

Một cách khác theo như bản Phổ thông lấy theo nghĩa thiêng liêng. Đối nghịch với những bận rộn đón tiếp của cô Martha, chỉ có một sự cần thiết là lắng nghe Lời Chúa.

Ở đây thực ra không có ý so sánh những của đời này với của duy nhất trên trời, mà là lấy làm hơn thái độ của Maria chăm chú nghe Chúa, cô Martha chia trí lo lắng quá nhiều sự. Vì thế,  Đức Giêsu đã tuyên bố Maria đã chọn phần nhất là nghe Lời Chúa.

III. CÂU CHUYỆN NGƯỜI TÔNG ĐỒ BIẾT LẮNG NGHE.

1. Lạc giáo hoạt động (Hérésie de l’action). 

Ngày nay, trong Giáo hội, có phong trào tư tưởng cho rằng Giáo hội phải lăn xả vào công việc xã hội nhiều hơn, phải đi đến với người nghèo trước đã. Đạo có chiều dọc và chiều ngang. Hàng dọc hướng về Thiên Chúa, hàng ngang hướng về anh em. Tư tưởng  dấn thân trước tiên cho kẻ khác được cổ võ mạnh. Môn Thần học Giải phóng muốn đặt lại căn bản Đức tin : Mến Chúa yêu người, nhưng cứu người trước đã. Từ ngữ “giải phóng” được đem thay thế từ ngữ “cứu rỗi” của Thần học, vì “nó minh bạch và sáng sủa hơn”(Seguido – Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm C, tr 99).

2. Hoạt động và lắng nghe.

Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Martha với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, Nhưng dù sao Ngài cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất : đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.

R. Meynet chú giải thêm :”Martha đón tiếp Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ Ngài đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Ngài, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sự, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe Lời Chúa. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng : chính cô được Ngài tiếp đón mới đúng (Fiches dominicales, năm C, tr 253-154).

Ngày nay, người đàn bà danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Martha thời đại : chân phước Têrêsa Calcutta. Bà đã hiểu và truyền lại cho con cái thiêng liêng của Bà tinh thần bài Tin mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc kẻ nghèo hoặc đi vào trong các “nhà chết”.

Trong khi tiếp xúc với Chúa chúng ta phải biết trao đổi như người ta nói :”Có đi có lại mới toại lòng nhau”, nghĩa là phải biết nói và biết nghe, biết cho và biết nhận. Nhiều khi chúng ta rất hào phóng chỉ biết cho Chúa mà không biết nhận. Trong lúc Chúa muốn cho chúng ta  tạo điều kiện để Chúa có cơ hội ban cho chúng ta nhiều ơn, để chúng ta tiếp nhận, nhưng tiếc thay, Ngài không có cơ hội.

Câu chuyện trong Tin mừng cho chúng ta thấy sự khác biệt chủ yếu giữa Martha và Maria. Martha không có khả năng nhận, trong khi Maria thì có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Martha, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì.

3. Quân bình trong hoạt động và lắng nghe

Đặt thái độ của Martha và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe Lời Chúa, còn Martha tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Ngài; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Ngài, lời của Thiên Chúa.

Trong cuộc sống của người môn đệ, có lúc “tất bật”, và có lúc  “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình một thái độ không thể thiếu của một môn đệ : là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Ngài... Nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình (Fiches dominicales).

Các triết gia Tây phương có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Đông phương trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là :”Cầu nguyện và hoạt động”. Martha phải đi đôi vơiù Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.

P. Graef nói một câu rất thâm thúy :”Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”.  

Một nhà tâm lý trị liệu và nhà văn Mỹ, ông Thomas Moore nói :“Không còn nghi ngờ việc một số người có thể tiết kiệm chi phí và tránh cho mình sự phiền toái về tâm lý trị liệu chỉ vì họ đã dành mỗi ngày ít phút để nguyện ngắm. Hành động đơn giản này cung cấp cho họ điều họ thiếu trong cuộc sống – một thời gian bất động chủ yếu là để nuôi dưỡng linh hồn”.

Truyện : Bác học Ampère cầu nguyện

Frédéric Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quìø cầu nguyện cách sốt sắng ở dẫy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy  không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông  về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi :

- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không ?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ :

- Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép giáo sư cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin !

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn :

- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.

Chàng sinh viên liền hỏi :

- Thưa giáo sư, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không ?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh vên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời :

- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi.

4. Sống dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.

Đời sống Kitô hữu phải được đan dệt bằng hoạt động và cầu nguyện. Các tu sĩ sống đời chiêm niệm không phải chỉ có cầu nguyện mà còn phải làm việc; còn các tu sĩ sống đời hoạt động cũng phải cầu nguyện chứ không phải chỉ có hoạt động. Cha Don Marmion nói :”Sự cầu nguyện hỗ trợ cho công việc tông đồ là linh hồn của mọi sứ vụ truyền giáo”.

Người Kitô hữu sống ở trần gian, nhiều lúc phải tất bật với những công việc, nhưng không thể thiếu được sự cầu nguyện. Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh, nhưng đọc kinh chỉ là một trong những hình thức cầu nguyện. Cốt yếu của sự cầu nguyện là kết hợp với Chúa. Nhiều khi chúng ta không đọc kinh, chỉ thinh lặng trước sự hiện diện của Chúa cũng là một cách cầu nguyện rất hay. Thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện.

Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không làm gì cả. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu. Nếu chúng ta dành một số thời giờ cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa, thì không phải là thời gian lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.

Với cái nhìn nông cạn, nhiều người cho là phần việc của Maria có vẻ dễ dàng vì chỉ có ngồi đó, còn phần việc của Martha thì khó khăn hơn. Nhưng nếu suy cho kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú trọng hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh lợi ích rất lớn lao.

Truyện : Dưới sự hiện diện của Thiên Chúa.

Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin Ngài một lời khuyên khi ngài được truyền chức thánh là một bà cụ. Bà nói :

- Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng  suốt bốn mươi năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Ngài hỏi :

- Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không ?

Bà nói :

- Ồ không ! Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện sao ?

Ngài nói :

- Không. Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này : con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa.

Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì ? Không lâu sau, bà trở lại và nói :

- Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác, khi con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh ặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Ngươiø.

(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 514-515)

Để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần xác tín rằng:”Câu hỏi thường đặt ra  không phải Thiên Chúa có nói với chúng ta hay không, nhưng là chúng ta có thinh lặng và yên tĩnh đủ để lắng nghe Ngài hay không”.

 

Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Subcategories