3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Ơn Bền Đỗ

(Chúa Nhật IV Phục Sinh)
(Cv 13,11.43-52; Kh 7,9.14b-17; Ga 10,27-30)
 

Chia sẻ tâm tình của một Kitô hữu: Mỗi khi im lặng quanh tôi, dù ban ngày hay ban đêm, tôi thường giật mình vì một lời than. Lần đầu tiên tôi nghe thấy tiếng than, tôi ra tìm kiếm và thấy một người đang đau đớn bị đóng đinh trên thánh giá. Và tôi nói: Xin Ngài để tôi đem Ngài xuống. Rồi tôi cố gắng tháo gỡ đinh nơi chân Ngài. Nhưng Ngài nói: Thôi hãy để vậy, vì Ta không xuống được cho đến khi nào mọi người đàn ông, đàn bà và con trẻ cùng đến gỡ Ta xuống. Tôi thưa Ngài: Vậy tôi phải làm gì? Hãy đi khắp thế gian loan báo cho mọi người rằng ngươi đã gặp thấy một người chịu đóng đinh trên thập giá để cứu chuộc họ.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã gom tụ các Tông đồ và sai các Ngài tiếp tục đi rao giảng tin mừng Chúa Kitô chịu chết và đã sống lai. Đã có nhiều người được ơn trở lại tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta biết tâm hồn của con người rất sâu thẳm và khó lường. Đôi khi có những tâm hồn nhẹ dạ cả tin và tin đủ mọi thứ. Có khi tâm linh cứng cỏi và chối từ tin mừng sự thật. Cũng có khi tin cuồng nhiệt và không phân biệt phải trái, đúng sai. Đức tin là nhân đức đối thần và là ân sủng được trao ban. Mỗi người hãy mở cửa tâm hồn để đón nhận. Ngay từ buổi sơ khai, đã có nhiều người tòng giáo đi theo các Tông đồ: Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa (Cv 13,43). Vâng lời Thầy, các ông đã ra đi chài lưới từng tâm hồn. Đây là một sứ mệnh đòi hỏi sự kiên trì, bền đỗ và xả thân.

Tâm hồn con người vốn yếu đuối và mỏng manh dễ bể. Những ảnh hưởng cuộc sống xã hội, truyền thống, văn hoá và các thế lực chống đối ghen tương thù ghét luôn rình rập để ngăn cản và phá huỷ. Ngay thuở ban đầu, Giáo Hội bé nhỏ đã gặp rất nhiều những khó khăn bách hại và ngăn trở trong việc rao giảng Tin Mừng: Thấy những đám đông như vậy, người Dothái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông (Cv 13,45). Chúng ta biết dân tộc Dothái được chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế, nhưng không phải tất cả mọi người đều đồng lòng chấp nhận tin mừng cứu độ. Các nhân chứng phục sinh đã đối diện với rất nhiều khó khăn phức tạp ngay cả với các đồng hương. Thánh giá cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu vẫn chưa có thể thuyết phục vì còn nhiều tâm hồn vẫn còn khép kín.

Ngay thời Giáo Hội sơ khai, người đời đã biết sự ảnh hưởng lớn lao của những phụ nữ đạo đức giàu có. Người ta đã biết cách rỉ tai xúi giục và lấy lòng các bà để tạo sức ép: Nhưng người Dothái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ (Cv 13,50). Dù phải rời nơi này sang nơi khác, các Tông đồ luôn kiên trì bền đỗ trong ơn gọi. Đây chính là những thách thức trong công việc truyền giáo. Xưa cũng như nay, các nhà truyền giáo luôn phải đối diện với các khó khăn và thử thách. Chúng ta rất vui mừng, trong Giáo Hội luôn luôn có những tâm hồn nhiệt thành dám hy sinh và xả thân cho Nước Chúa.

Trong sứ vụ, vai trò của các phụ nữ ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống Giáo Hội. Người phụ nữ mang tâm tình của một người mẹ luôn biết yêu thương, hy sinh chăm lo cho gia đình và Giáo Hội. Chúng ta phải trân trọng những gia sản quý báu nơi tâm hồn các người nữ. Qua đức bác ái, sự kiên nhẫn, lòng đạo đức, tính nhiệt thành, ơn bền đỗ và sự khôn ngoan đích thực, người phụ nữ đang đóng góp phần rất quan trọng trong đời sống đức tin và các sinh hoạt của Giáo Hội. Trong Giáo Hội, đa số các phụ nữ tham gia một cách tích cực vào mọi sinh hoạt trong các dòng tu, nhóm hội và cộng đoàn giáo xứ. Các phụ nữ đã khơi dậy niềm tin yêu trong đời sống của Giáo Hội một cách rất sinh động. Thánh lễ Tiệc Ly, Tuần Thánh năm 2013, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã cử hành nghi thức rửa chân cho 12 phạm nhân trong Nhà Giam, trong đó có hai người phụ nữ. Đây là một dấu chỉ mới!

Người Dothái theo Đạo Dothái (Môisen). Họ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Họ tuân giữ các giới răn, chỉ thị và các huấn lệnh trong Sách Luật. Họ vẫn tiếp tục chờ đón Đấng Cứu Thế theo quan điểm của họ. Họ sống trung thành với lề luật của các tiên tri. Thế nên, muốn thay đổi từ Đạo Dothái của cha ông để tin vào Chúa Kitô phục sinh là một sự vượt qua rất quan trọng. Sự thăng tiến niềm tin, cải đổi não trạng và thay đổi quan niệm sống luôn là vấn đề rất tế nhị và nan giải. Chúng ta cũng không thể xét đoán bất cứ ai, vì có thể họ chưa sẵn sàng hay tâm trí chưa được thuyết phục. Chính Chúa Giêsu cũng đã kiên nhẫn dong duổi đi tìm kiếm từng con chiên lạc. Khi gặp được, Ngài vác chiên trên vai đem chúng về: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi (Ga 10,27). Sứ vụ của các mục tử là tìm kiếm, dẫn dắt và qui tụ mọi kẻ tin về một mối.

Chúng ta học biết rằng ơn trở lại là một tiến trình và là một cuộc đổi đời toàn diện. Thay thế một niềm tin cho một niềm tin là một cuộc vượt qua mới. Chúa Giêsu đã vượt qua từ cõi chết đến sự sống. Ngài đã mở ra một kỷ nguyên mới trong tin yêu hy vọng. Giúp chúng ta vượt qua sự hận thù và ghen ghét đến yêu thương. Vượt qua sự đam mê lầm lạc đến sự ăn năn hối cải. Vượt qua sự nô lệ cho sự dữ và tội lỗi tới sự tự do của tình yêu. Vượt qua sự kết án luận tội đến sự tha thứ. Vượt qua bóng tối đêm đen tới ánh sáng. Vượt qua sự chết tới sự sống lại. Sự phục sinh của Chúa là lời mời gọi mỗi người chúng ta phải vượt qua. Vượt qua chính mình nơi những đam mê lầm lạc, những thói hư tật xấu và những nghiện ngập chôn vùi để mở ra một hướng mới tỏa sáng cuộc đời. Chúa Giêsu phục sinh đã hứa ban ân sủng cho những kẻ biết đặt niềm tin vào Ngài: Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi (Ga 10,28). Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hãy can đảm lên đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian.

Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Ngài đã bước vào cõi sống vĩnh hằng. Thánh Gioan đã diễn tả thị kiến: Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế (Kh 7,9). Chúng ta không thể đi con đường tắt để được lãnh nhận triều thiên vinh quang. Phải trải qua gian khó, thử thách, kiên tâm, chịu đựng, sống đạo và hành đạo mỗi ngày, chúng ta mới hy vọng chia phần vinh quang với Chúa. Gioan đã vẽ lối chỉ đường cho chúng ta. Tôi trả lời: "Thưa Ngài, Ngài biết đó." Vị ấy bảo tôi: "Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên." (Kh 7,14). Những ai đặt trọn niềm tin tưởng vào Chiên Thiên Chúa, Chúa sẽ dẫn họ vào cuộc sống hạnh phúc miên trường: "Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ." (Kh 7,17).

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Tin là đổi đời. Tin là hướng lên thượng giới. Nhiều lúc chúng con tuyên xưng niềm tin ngoài môi miệng nhưng lòng chúng con lại rời xa Chúa. Xin cho đức tin thấm nhập vào tâm hồn, để chúng con biết sống niềm tin mỗi ngày. Chúng con tin thờ Chúa Giêsu là Chúa. Chính Chúa đã mạc khải cho chúng con: Tôi và Chúa Cha là một (Ga 10,30). Lạy Chúa, con tin.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

THỰC SỰ YÊU

Thứ Bảy Tuần 3 Phục Sinh C

“Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời!”.

“Một đời sống theo Chúa không được thúc đẩy bởi nghĩa vụ hay sợ hãi, mà bởi một tình yêu không thể cưỡng lại với Đấng đã yêu chúng ta trước!” - Francis Chan.

Kính thưa Anh Chị em,

Với Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu - Đấng đã yêu chúng ta trước với một tình yêu không thể cưỡng lại - kết thúc diễn từ Bánh Hằng Sống. Và như thường lệ, chúng ta chứng kiến hai phản ứng rất khác nhau - nếu không muốn nói là đối lập - từ những người lắng nghe Ngài. Một số bỏ đi, số khác ở lại vì họ ‘thực sự yêu’ Ngài.

Với một số người, lời Chúa Giêsu quá khắc nghiệt, không thể hiểu được đối với tâm lý khép kín của họ, và Gioan nói - với một nỗi buồn man mác - rằng, “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui!”. Kết quả là họ đã trở lại với lối sống cũ. Và cũng chính Gioan chỉ ra manh mối để chúng ta hiểu được thái độ của những người này: họ không tin, không muốn chấp nhận những lời dạy của Ngài. Thế nhưng, bên cạnh đó, cũng có một số người bỏ Chúa không vì Lời Chúa ‘chướng tai’ nhưng vì Kitô hữu sống ‘chướng mắt!’. Những gì họ nghe người đạo gốc nói, thấy người đạo dòng làm, họ hồ nghi và mất niềm tin. Không ít người dè bĩu với trái tim khoá chặt!

Mặt khác, chúng ta thấy phản ứng của các tông đồ, đại diện bởi Phêrô, “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời!”. Không phải nhóm Mười Hai thông minh, giỏi giang hoặc hiểu biết Thánh Kinh hơn những người khác; không, chỉ vì bản chất của họ đơn giản hơn, tin tưởng, ngoan ngoãn cởi mở hơn; và nhất là họ ‘thực sự yêu’ Chúa Giêsu hơn tất cả những người khác!

Thỉnh thoảng, trong các Tin Mừng, chúng ta bắt gặp họ mắc lỗi này lỗi kia. Họ không hiểu Chúa Giêsu, họ tranh cãi về việc ai là quan trọng nhất, thậm chí còn sửa lỗi Ngài khi nghe công bố cuộc thương khó; nhưng có một điều chúng ta luôn luôn thấy, là họ hằng ở bên Ngài, trung thành theo Ngài. Bí quyết của họ là họ ‘thực sự yêu’ Ngài. Augustine diễn đạt, “Những thói quen tốt không để lại dấu ấn trên tâm hồn, nhưng một tình yêu tốt thì có! Đây thực sự là tình yêu: vâng lời và tin vào người mà bạn yêu!”.

Anh Chị em,

“Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời!”. Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta tự hỏi: tôi đặt tình yêu của mình ở đâu? Tôi có đức tin và sự vâng phục nào vào Chúa, vào lời Ngài và vào những gì Hội Thánh dạy? Tôi sống những giáo huấn này với sự ngoan ngoãn, đơn sơ và tin tưởng nào? Và nhất là tôi có ‘thực sự yêu’ Chúa Giêsu, bền bỉ theo Ngài như các tông đồ xưa? “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. “Lời khiêu khích đáng lo ngại này vang vọng trong lòng chúng ta và mong đợi một câu trả lời cá nhân từ mỗi người!” - Bênêđictô XVI. Câu hỏi này vẫn vang vọng qua các thời đại như một lời mời gọi yêu thương để mỗi người khám phá ra rằng, chỉ có Ngài mới có “những lời đem lại sự sống đời đời!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa ‘hào hoa’ gieo Lời, con ‘hào hiệp’ hứng Lời; giúp con ‘hào hùng’ sống Lời, hầu nó đơm hoa kết trái trong con, trong các tâm hồn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

ĐẤNG PHỤC SINH ĐẦY SỰ QUAN TÂM CHU ĐÁO 

Hôm nay chúng ta được Tin Mừng kể về Chúa Giêsu phục sinh hiện ra lần thứ ba với các môn đệ, trên bờ Biển Hồ Tibêria, với mẻ cá kỳ diệu (Ga 21:1-19). Sau những ngày khổ nạn và cái chết khủng khiếp của Chúa Giêsu, các tông đồ trở lại công việc thường ngày của họ: đi đánh cá. Chắc chắn họ thấy những chuyện đã xảy ra thật là khó hiểu. Có lẽ họ vẫn còn hoang mang, và sống trong một nỗi buồn như một đêm tối bao phủ. Thêm nữa, việc đánh cá tối nay chẳng mang lại kết quả gì. Mọi thứ dường như đã kết thúc, nhưng ngay lúc đó Chúa Giêsu lại đến tìm kiếm các môn đệ của Ngài. Chính Ngài là người đi tìm gặp họ.

  1. Thiên Chúa đến với chúng ta

Tin Mừng hôm nay bắt đầu vào ban đêm. Đây là thời điểm thích hợp để bắt cá. Đối với Thánh Gioan, ban đêm không chỉ hiểu theo nghĩa đen, mà còn ám chỉ đêm tối bên trong tâm hồn, sự vắng mặt của Thiên Chúa, sự cô đơn và khốn cùng, sự cám dỗ: “Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối” (Ga 13: 30). Cõi lòng các tông đồ bị sự tối tăm bao phủ, đó là trạng thái tâm hồn của các ông: “Nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả” (Ga 21: 3). Họ vẫn còn sợ hãi, mặc dù họ đã rời khỏi căn phòng có “các cửa đều đóng kín” nơi họ đã thấy Chúa Kitô Phục sinh “đến đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em!” (Ga 20: 19. 26). Họ trở về Galilê, nơi họ gặp Chúa Kitô lần đầu tiên, nơi họ đã từ bỏ mọi thứ để theo Ngài. Việc không bắt được gì trong chuyến đánh cá này càng khiến họ cảm thấy mình bất lực, không thể có được những gì họ mong muốn. Hẳn họ vẫn còn nhớ mẻ cá lạ lùng mà họ có được trong những ngày đầu họ đi theo Rabbi Giêsu, và có lẽ họ đang âm thầm mong sự xuất hiện của Đấng có thể đem lại cho họ thứ mà họ không thể đem lại cho chính mình. Đêm tối đang dần chuyển sang bình minh, và “Khi trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển” (Ga 21: 4).

Sáng nay, chính Chúa Kitô đã xua tan bóng tối của chúng ta: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5). Chúa Giêsu có mặt “nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Chúa Giêsu” (Ga 21: 4) đúng như thánh sử Gioan đã khẳng định ngay từ đầu sách Tin Mừng của Ngài: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Ngài ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài” (Ga 1: 9-10). Ngài cất tiếng gọi họ: “Này các chú” (Ga 21: 5). Xin cho chúng ta có thể nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh và nghe được tiếng Ngài gọi trong đời sống mỗi ngày của chúng ta. 

  1. Nhận ra Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh.

Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: Chúa đó!” (Ga 21: 7). Trước đây, thánh Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20: 8). Nay qua mẻ cá kỳ diệu này, hoặc qua giọng nói mà ông rất quen biết, hoặc qua ký ức về mẻ cá đầu tiên, nhưng trước hết chính qua mối tương quan “thương mến” (Ga 20: 2) rất riêng của ông với Thầy Giêsu mà Gioan có đủ sự nhạy bén để mau chóng nhận ra “Chúa đó” (Ga 21: 7). Còn thánh Phêrô, vốn có lòng nhiệt thành hơn, nên ông “vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển đã đến với Chúa” (Ga 21: 7). Vấn đề là các ông đã nhận ra “Chúa và Thiên Chúa của họ” (Ga 20:28). Chính Chúa Kitô Phục Sinh đã tỏ mình ra cho họ. Như thế không chỉ có một, nhưng nhiều phép lạ xảy ra, từ không có con cá nào trở thành có đủ các loại “cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con” (Ga 21: 11), từ không biết đến nhận ra được Chúa Kitô Phục Sinh trong cuộc mưu sinh của đời mình: “các ông biết rằng đó là Chúa” (Ga 21:12), từ “không bắt được gì cả” đến “Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa” (Ga 21: 9). Chính Chúa Phục Sinh phục vụ các ông: “Chúa Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Ngài cũng làm như vậy” (Ga 21: 13).

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy chúng ta không dễ nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống hàng ngày biết chừng nào. Chúng ta hiểu rất ít về Đấng Phục Sinh. Ngài vượt quá xa chúng ta dù Ngài vẫn rất gần gũi và chân tình với chúng ta. Không phải bởi lý luận nhưng trên hết chính bởi tình yêu thương mà chúng ta nhận ra và biết Ngài, như Thánh Gioan, “người môn đệ được chúa Giêsu thương mến” (Ga 21: 7).

Chúng ta cũng cần sự giúp đỡ của Chúa Giêsu để nhận ra Ngài luôn sống trong cuộc đời của chúng ta, và có được kinh nghiệm về Đấng đã khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11: 25). Ngài sống và có mặt luôn mãi trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta và mời gọi chúng ta đến với một cuộc sống mới, là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chú ý lắng nghe tiếng Chúa, đặt tất cả niềm tin tưởng nơi Ngài; “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1: 37). Chúng ta cùng nhau cất tiếng ca tụng: “Chúa nay thực đã phục sinh, Allêluia.” 

  1. Vâng theo Đấng Phục Sinh đem lại kết quả dồi dào

Bất ngờ, một người “đứng trên bãi biển…nói với các ông: Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá” (Ga 21: 4-6). Và, vâng theo lời người đàn ông này, mẻ cá “không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá…Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con” (Ga 21: 6-11).

Hôm nay, Đấng Phục Sinh đi tìm gặp các môn đệ của Ngài. Ngài đến để tập hợp họ lại và an ủi họ bằng sự hiện diện của Ngài. Giống như thế, Chúa Giêsu không để chúng ta đơn độc. Ngài liên tục đi tìm gặp và có mặt đúng thời đúng chỗ để giúp đỡ chúng ta. Chúa Kitô vẫn có mặt nơi sâu thẳm cơn đói khát nhiều mặt trong cuộc sống của chúng ta, khi chúng ta bị nỗi tuyệt vọng áp đảo. Ngài tìm kiếm và mời gọi chúng ta đến với Ngài để được nuôi dưỡng và dự phần vào sứ mệnh “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy” (Ga 21: 17).

Từ khi Chúa Giêsu sống lại, các tông đồ có vè như giữ khoảng cách với Chúa Giêsu. Vị Thầy rất thân quen trước đây của họ nay rất lạ và nhiệm mầu. Các tông đồ không dám tiếp tục ứng xử với Chúa Giêsu theo thói quen trước kia của họ nữa, dù “các ông biết rằng đó là Chúa”, nên “Không ai trong các môn đệ dám hỏi Ông là ai?” (Ga 21: 12). Sự hiện ra của Chúa Giêsu với các tông đồ được biểu lộ qua những dấu hiệu nhiệm mầu nhưng hiển nhiên đến nỗi không ai dám phủ nhận, hoặc thậm chí nghi ngờ. Sự nhiệm mầu đó đã tạo ra một sự kính sợ nơi các ông đối với Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu với lòng nhân từ vốn có nói với họ: “Đem ít cá mới bắt được tới đây” (Ga 21: 10) và mời họ: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21: 12). Đó là bữa sáng mà Ngài đã chuẩn bị cho họ. Đó là bữa ăn dành cho các tông đồ, và cho tất cả những ai bước theo các ông, tượng trưng cho niềm vui trên thiên đàng mà một ngày nào đó họ sẽ vui hưởng muôn đời, như ngôn sứ Isaia tiên báo: “Ngày ấy, trên núi này, Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25:6), hoặc như sách Khải huyền khẳng định: “Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên” (Kh 19:9). Bữa ăn sáng đạm bạc này như muốn nhắc lại cho các tông đồ sứ mệnh Thầy Giêsu đã giao cho các ông: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5: 4) và: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1: 14) mà dường như các ông đã quên mất khi trải qua những biến cố bi thảm của Thầy mình. Chúa Giêsu đang chuẩn bị các môn đệ của Ngài cho những sứ vụ tương lai của các ông. Chính qua tình yêu khiêm hạ đối với Chúa Kitô mà Phêrô, các Tông đồ và mỗi người chúng ta trong Giáo hội được trao cho sứ vụ “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21: 17). Lời Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô cũng là lời Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta. Tất cả chúng ta đều thuộc về đàn chiên của Chúa Giêsu, và chúng ta được kêu gọi chăm sóc lẫn nhau. Chúng ta được kêu gọi để biến tình yêu của chúng ta dành Chúa Giêsu trở nên cụ thể bằng cách chăn dắt và nuôi dưỡng các chiên con của Ngài, về mặt tinh thần, tình cảm cũng như thể chất, như cùng nhau đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm, hội đoàn, và dành thời gian thăm hỏi, giúp đỡ nhau, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau, như những người thân thiết. 

Chúng ta có thể làm được gì nếu không có Chúa Kitô? Không làm được gì, hoàn toàn không làm được gì. Không có Ngài, cuộc sống của chúng ta sẽ trống không, “không bắt được gì cả” (Ga 21: 3). Chúng ta có tin chắc rằng nếu không có Chúa Giêsu, cuộc sống của chúng ta sẽ mất đi sắc màu vui tươi, nhưng khi có Ngài thì mọi việc sẽ đổi khác không? Chỉ khi liên hệ sâu xa và nghe Lời Đấng Phục Sinh thì những phép lạ mới có thể xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Vâng theo Chúa Kitô, Ngài sẽ không để chúng ta thiếu gì. Nhưng liệu chúng ta có muốn từ bỏ những suy nghĩ vị kỷ, những mưu tính cá nhân, lối sống tục hóa, rồi ra đánh mất ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình vì “không bắt được gì cả” (Ga 21: 3), để vâng lời Thiên Chúa, tin và vui mừng làm chứng rằng Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng Cứu Độ mọi người không?

Xin cho chúng ta, như trong bài đọc thứ hai, có được “quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban” (Cv 4: 33) để sống như lời rao giảng của thánh Phêrô và các Tông Đồ: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Chúa Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Ngài trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Ngài lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Ngài” (Cv 5: 29-32).

Phêrô Phạm Văn Trung

 

PHỤC SINH Ư? CÓ THẬT?

Nhiều người không tin vào ơn phục sinh đã phủ nhận sự phục sinh. Đối với họ, chẳng có Chúa nào sống lại, chẳng có chuyện hiện hình sau khi chết. Các tông đồ và đoàn môn đệ của Chúa Giêsu khéo tưởng tượng. Có lẽ vì họ quá yêu thương Thầy, quá tiếc nhớ Thầy, tâm trí họ lẩn thẩn, nhìn đâu cũng thấy bóng Thầy.

Để phủ nhận việc thế giới Kitô giáo tin vào ơn phục sinh, nhất là tin vào Đấng sáng lập tôn giáo của mình đã phục sinh, người ta còn đi xa hơn khi cho rằng các tông đồ ảo giác về Chúa phục sinh.

Nhưng các sách Tin Mừng, cơ sở của niềm tin Kitô giáo đều xác quyết Chúa đã phục sinh. Các sách đều nói đến ngôi mộ trống.

Chúa Phục Sinh mà họ nhận thấy không là con người bất động, nhưng sống động; không câm nín, nhưng ngỏ lời: lời trao ban Chúa Thánh Thần, lời ban bình an, lời sai họ đi truyền giáo, lời sai đi công bố ơn tha tội...

Tất cả họ đều nhìn nhận Chúa Phục Sinh là người thật, có thân xác thật, dấu đinh nơi tay chân, dấu lưỡi đòng nơi cạnh nương long vẫn còn rõ mồn một…

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ và môn đệ của Ngài trên biển hồ Tibêria lúc trời rạng sáng càng là một minh chứng hùng hồn về niềm tin Phục Sinh. Ảo giác hay tưởng tượng thì không thể có tất cả những ưu điểm như mô tả:

- Suốt cả đêm đánh bắt cá, họ không thu lượm được kết quả nào. Nhưng khi trời sáng, “người khách lạ” đến với họ, ra lệnh cho họ rằng: “Hãy thả lưới bên phải thuyền, anh em sẽ bắt được cá”. Không phải người thật, làm sao có thể chỉ ra được bầy cá. Hơn nữa, sao không ảo giác lúc tối trời, mà là “khi trời sáng”. Trời đã sáng thì chắc khó ảo giác hơn lúc trời tối.

- Nếu là ảo giác, không lẽ cùng lúc, cả toán người trên thuyền đều ảo giác? Hơn nữa, cả thuyền đều nghe lời “người khách lạ” cùng đồng ý thả lưới bên phải thuyền. Ngay sau đó lại là một sự thật hiển nhiên, một mẻ cá không thể kéo nổi hiện ra trước mắt họ. Kết quả của ảo giác lại là mẻ cá thật sao?

“Người khách lạ” đã nhóm bếp, đã nướng cá, “có cả bánh nữa”, đã dọn bữa điểm tâm cho tất cả những người trên thuyền đi đánh cá đêm trở về như một bà nội trợ. Đến thế mà còn là ảo giác mới là điều khó hiểu, mới là chuyện lạ.

“Người khách lạ” còn cầm bánh và cá trao cho các ông. Không lẽ chỉ là ảo giác lại có thể trao bánh thật? Các ông cầm và ăn bánh thật?

- Rồi thầy trò cùng ngồi bên nhau, cùng ăn, cùng chia sẻ, không chỉ là những con cá nóng mới nướng, nhưng là chia sẻ niềm vui vô cùng sau những ngày thương đau của thập giá, của chết chóc, của máu, của nước mắt.

- Chưa hết, sau bữa ăn, “người khách lạ” còn gọi tông đồ Phêrô để chất vấn và trao nhiệm vụ. Ngài hỏi đi hỏi lại đến ba lần “Con có yêu mến Thầy không?”, buộc thánh Phêrô phải ba lần đáp “Thầy biết con yêu mến Thầy”. Sau mỗi lần đáp của thánh nhân, Ngài đều trao nhiệm vụ cho chính thánh nhân: “Con hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy”.

Quả thật, câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã làm sáng tỏ tính cách thật về việc Chúa Giêsu sống lại. Đây không hề là ảo giác, là tưởng tượng. Nhưng đây chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật đã làm người thật. Sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa vẫn mang trên thân thể hiển vinh của mình y nguyên hiện trạng dấu của thập giá mà chính Chúa vừa trải qua.

Niềm tin Chúa Giêsu phục sinh không chỉ có bấy nhiêu bằng chứng. Cuộc đời còn lại của tông đồ đoàn, của các môn đệ càng là bằng chứng quý giá hơn. Tất cả những thị nhân ấy không ngần ngại dấn thân đến cùng để minh chứng cho đức tin phục sinh mới là điểm đáng ghi nhận.

Tất cả các ngài bất chấp mọi gian khổ, mọi thử thách, mọi bấp bênh, bất chấp cả mạng sống của chính mình để lang thang khắp mọi miền thế giới hân hoan loan báo cho thế giới biết Chúa của các ngài đã sống lại và sống đến vô cùng.

Bài đọc I (Cv 5, 27b-32.40b-41) là một minh chứng. Từ những con người mới mấy ngày trước đầy yếu đuối, bạt nhược, thô thiển, nay lại mạnh mẽ, ung dung, đường hoàng, dõng dạc trước công nghị Dothái không hề pha lẫn chút sợ sệt nào.

Chính vì chân lý Phục Sinh mà các ngài đã “lột xác”, đã thay đổi đời mình, thay đổi não trạng của mình.

Cái công nghị ấy đã từng giết Chúa Giêsu, cũng chính cái công nghị ấy đã nhiều lần bắt bớ các tông đồ, ngăn cản các ngài không được rao giảng danh Giêsu, nhất là không được giảng về sự sống lại của Giêsu.

Và nay, sau nhiều lần đổ hết sức ngăn cản, cái công nghị ấy đã hạ lệnh đánh đòn các tông đồ.

Nhưng càng bắt bớ, càng cấm cách, các tông đồ càng hăng say rao giảng và “lòng đầy hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu”. Trước sau gì các ngài vẫn mạnh mẽ khẳng định rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”.

Chính vì vâng lời Thiên Chúa làm chứng cho Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, tất cả các ngài không chỉ cống hiến thời gian, sức lực, sự nghiệp, sự ổn định… mà còn chấp nhận hy sinh đến cùng mạng sống mà các ngài có được. Tất cả các ngài đã chịu tử đạo vì Thánh Danh Chúa Giêsu.

Đó không là bằng chứng hùng hồn cho niềm tin Phục Sinh sao?

Không ai dại gì chết cho điều không có thật. Chân lý Phục Sinh là chân lý đời đời, không bao giờ thay đổi. Các tông đồ, rồi đến Hội Thánh qua mọi thế hệ vẫn tự hào ôm ấp niềm tin Phục Sinh để rồi sẵn sàng trao ban niềm tin ấy cho mọi con người, không trừ ai.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

Tin và Yêu là điều kiện để nhận ra Chúa

CHÚA NHẬT THỨ III PHỤC SINH C

Cuộc sống quanh ta có rất nhiều biểu tượng. Một biển báo đi đường, một hình vẽ diễn tả sự tai hại của bênh AIDS, của ma túy, một ký hiệu cấm hút thuốc nơi công cộng, cấm đậu xe bừa bãi… Tất cả những biểu tượng đó là những lời nói vô âm soi rọi cho mình về một vấn đề nào, một quy định nào mà mình cần thực hiện, hay sống… Ngôn ngữ biểu tượng rất phong phú. Nó gần gũi với ta, ở xung quanh ta.

I. LỬA VÀ NƯỚC.

Trong đêm tưng bừng của thứ Bảy tuần Thánh, khi công bố Tin Mừng Phục Sinh, Giáo Hội không chỉ công bố bằng ngôn ngữ của lời, của âm thanh; hay ngôn ngữ trừu tượng của Thánh Kinh, của thần học, của suy tư tích lũy hàng ngàn năm qua… Rất đặc biệt, đêm vọng Phục Sinh, Giáo Hội đã sử dụng nhiều ngôn ngữ mang tính biểu tượng để công bố Tin Mừng Phục Sinh. Đó là những hành động biểu tượng giúp ta hiểu mầu nhiệm Phục Sinh và nội dung phong phú chất chứa trong mầu nhiệm này.

Đặc biệt đêm Phục Sinh có hai biểu tượng nền tảng đó là Lửa và Nước.

1. LỬA.

Trước khi bắt đầu cử hành đêm cực Thánh này, nhà thờ tắt hết đèn. Một khung cảnh tối tăm bao trùm. Khung cảnh đó diễn tả một thế giới chìm trong nỗi chết do tội. Một thế giới mà lòng người còn đầy dẫy hận thù, yếu đuối, bất toàn, gian trá…

Thế rồi giữa cảnh tăm tối đó, thừa tác viên thắp sáng và rước nến Phục sinh từ cuối nhà thờ lên cung thánh. Nến Phục Sinh được thắp sáng ấy tượng trưng cho Chúa Kitô. Bởi vậy khi rước nến, linh mục lặp đi lặp lại lời này: “Ánh sáng chúa Kitô”.

Ánh sáng Chúa Kitô tới đâu, đẩy lùi bóng tối tới đó. Người tham dự cũng lấy lửa từ Lửa Phục Sinh, thắp sáng từng ngọn nến trên tay mình. Với ngọn nến được chuyển lửa từ Lửa Phục Sinh, cả nhà thờ, tràn ngập ánh sáng, không còn chìm trong bóng tối nữa.

Nếu bạn và tôi biết thắp lên niềm tin vào Chúa Phục Sinh trong cuộc đời của mình, và sống niềm tin ấy bằng một đức mến mãnh liệt nơi Thiên Chúa giàu lòng yêu thương, là chúng ta thắp lên Ánh sáng Chúa Kitô cho cuộc đời. Ánh nến cháy sáng trên tay chúng ta có ý nghĩa là như vậy.

2. NƯỚC.

Biểu tượng thứ hai là Nước. Trong đêm Phục Sinh, thừa tác viên làm phép nước và nhún cây nến Phục Sinh vào trong dòng nước. Nếu từ nơi Chúa Kitô, máu và nước chảy ra mang lại sức sống cứu độ trần gian, thì hôm nay, trong đêm Cực Thánh, dòng nước vừa mới được làm phép bởi nến Phục Sinh, trở nên dòng nước thanh tẩy chúng ta.

Dòng nước này sẽ đổ lên đầu các tân tòng để đưa họ vào thế giới của ơn cứu độ, của tình yêu, của sự sống. Dòng nước ấy cũng được rảy trên đầu mọi người tham dự, nhắc lại ơn tái sinh mà chúng ta đã lãnh nhận trong bí tích rửa tội.

II. BIỂU TƯỢNG DIỄN TẢ ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU.

Suy tư sâu hơn một chút, ta sẽ thấy, thuở ban đầu khi tạo thiên lập địa, Chúa bắt đầu dựng ánh sáng trước hết. Ngay sau ánh sáng là nước. Như vậy, khởi đầu của sự sống là ánh sáng và nước. Trên nền tảng của ánh sáng, nước, Thiên Chúa tạo dựng thế giới, tạo dựng muôn loài, tạo dựng một nhân loại, và tạo dựng cả vũ trụ nguy nga này.

Tạo dựng chính là sáng kiến của tình yêu. Tạo dựng cũng là làm cho sống. Nghĩa là, từ thuở đời đời, Thiên Chúa vì yêu, đã san sẻ sự sống của Người cho tạo vật. Tạo vật sống cũng chính là tạo vật được yêu. Vì được yêu, tạo vật mãi mãi được sống trong sự sống của Người. Nhưng do tội, tạo vật đã đánh mất sự sống ấy của mình.

Như vậy, trong đêm công bố Tin Mừng Phục Sinh, Giáo Hội muốn sử dụng hình ảnh Lửa và nước của thuở ban đầu ấy để mọi người biết rằng, thế giới này, nhân loại này, vũ trụ này đã chìm trong bóng tối, đã chết trong tội, giờ đây được sống lại trong ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Nói cách khác, Nhờ ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô chiếu giãi, và nhờ dòng máu và nước từ cạnh sườn Chúa Kitô mà nhân loại này, vũ trụ này, thế giới này được sống, hơn thế, được sống trong sự sống của Thiên Chúa: sự sống của Đấng Phục Sinh.

Khi Giáo Hội rước lửa và rảy nước trên toàn dân, là Giáo Hội muốn công bố một niềm xác quyết: Tin Mừng Phục Sinh là Tin Mừng về một thế giới mới, một công cuộc sáng tạo mới, một nhân loại mới được bắt đầu từ Chúa Kitô Phục Sinh. Niềm xác quyết ấy chứa đựng trong ngôn ngữ biểu tượng của Lửa và Nước.

Đó là đức tin của chúng ta. Đó là đức tin của một sức sống mới, sức sống Phục sinh chảy tràn từ Đấng Phục Sinh mà chúng ta phải khắc ghi và phải sống.

Đó cũng là lòng mến của các Kitô khi cử hành đêm vọng Phục Sinh long trọng này để khắc ghi tình yêu của Chúa, một tình yêu cứu độ từ thuở đời đời hóa nên một tình yêu cứu chuộc quá đỗi diệu kỳ. Vì nếu Chúa tạo dựng con người bởi tình yêu, thì hôm nay, Người tái tạo cũng bằng tình yêu.

III. ĐỂ NHẬN RA ĐẤNG PHỤC SINH.

Chỉ có ai sống đức tin của mình như ánh lửa cháy sáng, hay như một dòng nước có sức lan rộng, người ấy mới có thể yêu mến Chúa một cách chân thật. Chỉ có lòng yêu mến trong đức tin, mới nhận ra Đấng Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời mình.

Thánh Gioan tông đồ là người đã tin và đã yêu như thế. Ngay trong lễ Phục sinh đầu tiên, nhìn ngôi mộ trống, trước cả những phụ nữ là những người phát hiện mộ trống, trước cả thánh Phêrô, người đã vào thăm mộ trước, thánh Gioan đã tin.

Hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho ta biết tầm quan trọng của cảm thức đức tin và sự cần thiết của một đức mến nồng nàn.

Có ai ngờ rằng, suốt một đêm cực nhọc đánh cá, các môn đệ đã không bắt được một con cá nào, thì bây giờ, khi trời đã bắt đầu rạng sáng, một người lạ xuất hiện, dạy các ông: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Không hiểu sao, dù chỉ thấy đó là một người lạ, nhưng các môn đệ lại nghe theo, để cuối cùng, họ đã thu được một kết quả quá bất ngờ: “Lưới đầy toàn cá lớn”.

Thánh Gioan cũng lại là người phát hiện ra chúa Phục Sinh trước các anh em mình. Sau mẻ cá đầy ắp như muốc rách tung chiếc lưới, “Người môn đệ Chúa yêu” thật hãnh diện mà cả quyết: “Chúa đó”.

Vì “Người môn đệ Chúa yêu” đã có sẵn một lòng yêu mến Chúa, một đức tin từ kinh nghiệm sống với Chúa, nên đã nhận ra Chúa một cách hết sức dễ dàng.

Cũng thế, không ai trong bạn và tôi lại cho rằng mình không có đức tin. Mình không có lòng yêu mến Chúa.

Nhưng Nói là nói như vậy. Hiểu là hiểu như thế. Trong thực tế của cuộc đời, không ít lần, bạn và tôi dường như chao đảo, dường như mất sức sống. Đức tin vào Chúa, lòng yêu mến Chúa của mình có lúc như bị đánh gục, như tuyệt vọng.

Bạn ạ, trong đêm rước nến Phục Sinh, chỉ đi từ cuối nhà thờ lên cung thánh, một đoạn đường ngắn thôi, vậy mà ngọn lửa ấy đã chực tắt mấy lần. Và đã có những ngọn nến trên tay của những người tham dự tắt ngúm, phải lấy lại lửa từ phía những anh chị em bên cạnh.

Tôi nhìn thấy ngọn lửa mong manh ấy cũng chính là hình ảnh của đức tin, của lòng mến nơi bạn và tôi. Nếu có lúc nào đức tin chúng ta tắt ngúm, lòng yêu mến của mình chết lạnh, hãy tìm cách lấy lại ngay. Lấy lại bằng chìm đắm trong cầu nguyện, chứ đừng tuyệt vọng. Vì nếu có lúc đức tin và lòng mến càng trở nên tối tăm bao nhiêu, chúng ta càng phải đến gần Chúa nhiều hơn bấy nhiêu.

Và cũng như khi tắt lửa, ta lấy lại lửa từ anh chị em, thì cũng hãy nhìn những tấm gương sống đạo đức, thánh thiện của anh chị em mà vững tin, mà yêu mến Chúa hơn. Nhất là xung quanh chúng ta có biết bao nhiêu anh chị em bất hạnh: mù lòa, tật nguyền, nghèo đói… nhưng họ vẫn tin Chúa, vẫn sống đạo. Họ chính là bài học sống, dạy chúng ta tin và yêu Chúa.

Hãy tin và hãy yêu để bạn và tôi cũng trở thành những môn đệ Chúa yêu. Từ đó nhận ra Đấng Phục Sinh trong cuộc đời mình, trong mọi hoàn cảnh mà chúng ta phải đối mặt với nó. Chỉ cần đức tin, chúng ta sẽ được tăng thêm lòng mến. Khi có đức mến, tự nhiên đức tin cũng sẽ được bồi đắp hơn. Và khi tin tưởng vào Chúa trong một tình yêu, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện với mình.

Như vậy Lửa và Nước không chỉ là ngôn ngữ biểu tượng của việc công bố Tin Mừng Phục Sinh, không chỉ là ngôn ngữ biểu tượng để diễn tả đức tin và tình yêu của Giáo Hội. Nó còn là ngôn ngữ biểu tượng của lòng yêu mến Thiên Chúa, của đức tin, của sự gặp gỡ và đón nhận Chúa Kitô đang hiện diện, không phải chỉ trong lễ Phục Sinh nhưng trải dài suốt cuộc đời của mỗi người.

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Subcategories