3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

TIN LÀ SẴN SÀNG SỐNG THEO LỜI CHÚA KÊU GỌI

Đức tin không chỉ là lời tuyên xưng, mà là hành trình sống tỉnh thức và trung tín, trong niềm hy vọng được hứa và kho tàng đích thực nơi quê trời, vì: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hípri 11: 1)

  1. Đêm của niềm tin

Đêm xuất hành của dân Israel là đêm kỳ lạ: một bên là cái chết của các con đầu lòng của người Ai Cập, một bên là máu chiên bôi trên cửa nhà dân Chúa, dấu hiệu cứu thoát. Nhưng trên tất cả, đó là đức tin. Đó không chỉ là một đêm trong lịch sử, mà là một đêm của niềm tin: “Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con, để khi biết chắc lời hứa mình tin là lời hứa nào các ngài thêm can đảm” (Kn 18: 6).

Chính là đức tin: tin vào Lời hứa của Đấng đã từng thề với Abraham, với Isaác, với Giacóp; tin rằng “đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù” (Kn 18,7). Đức tin ấy không phải là mù quáng. Đó là “bằng chứng cho những điều ta không thấy”, là ánh sáng dẫn lối qua bóng tối dày đặc. Dân Chúa ra đi trong đêm, không vũ khí, không ngựa xe, chỉ có đức tin và lòng phó thác.

Đức tin không ẩn mình trong bóng tối và u ám; nó là ánh sáng soi rọi bóng tối của chúng ta…Đức tin chính là ánh sáng, bởi vì một khi ngọn lửa đức tin lụi tàn, mọi ánh sáng khác cũng bắt đầu lu mờ. Ánh sáng đức tin là độc nhất vô nhị, bởi nó có khả năng soi sáng mọi khía cạnh của sự tồn tại con người. Một ánh sáng không đến từ chính chúng ta nhưng đến từ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mặc khải tình yêu của Ngài, một tình yêu đi trước chúng ta và là nơi chúng ta có thể nương tựa để được an toàn và xây dựng cuộc sống” (Thông điệp Lumen Fidei của ĐTC Phanxicô, số 4, 2013).

Tác giả thư Do Thái đã khắc họa hành trình đức tin của Abraham như khởi đầu cho mọi người: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Hípri 11: 8). Đức tin là thế: không thấy rõ nhưng vẫn bước đi, không chắc chắn nhưng vẫn tin tưởng. Abraham sống trong lều, như một lữ hành, vì “Ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Hípri 11: 10).

Abraham không hiểu tại sao Thiên Chúa lại yêu cầu điều ấy. Nhưng ông không dừng lại ở những gì mình hiểu. Ông không hiểu hết ý Chúa, nhưng vẫn bước đi. Đức tin không loại bỏ lý trí, nhưng vượt qua giới hạn của lý trí để đặt trọn niềm tin vào Đấng hằng sống.

Không có đức tin nào không trải qua thử thách. Abraham không chỉ tin lúc ra đi, mà còn tin khi phải hiến tế Isaac: “Nhờ đức tin, khi bị thử thách, Abraham đã hiến tế Isaac; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một” (Hípri 11:17) vì: “Ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy” (Hípri 11:19).

Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Đức tin trở thành lịch sử trong cuộc đời của Abraham. Nghĩa là, bằng cuộc sống và gương mẫu của ông, Abraham dạy cho chúng ta cuộc hành trình này, con đường mà qua đó đức tin làm nên lịch sử. Thiên Chúa của Abraham trở thành “Thiên Chúa của tôi”, Thiên Chúa của lịch sử cá nhân của tôi, Đấng hướng dẫn bước chân tôi, Đấng không bỏ rơi tôi; Thiên Chúa của những ngày đời của tôi, người bạn đồng hành trong những cuộc phiêu lưu của tôi; Thiên Chúa Quan phòng” (Bài giáo lý về cầu nguyện, 03 tháng 6 năm 2020) [1]

Chúng ta, trong đời sống, cũng có những “Isaac”,  những điều quý giá Thiên Chúa mời gọi ta buông bỏ: một ước mơ, một tình cảm, một sự an toàn… Không phải để đánh mất, mà để tìm lại trong vinh quang phục sinh khải hoàn.

  1. Đức tin đã chiến thắng thế gian

Thư Do Thái cũng không quên nhắc đến bà Sara: “Nhờ đức tin, cả bà Sara vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Hípri11: 11). Bà từng cười nhạo ý nghĩ sẽ có con lúc đã già: “Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!” (Stk 18:12), nay lại là biểu tượng cho niềm tin phục sinh: “Một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Hípri 11:12). Qua Sara, ta thấy nơi điều tưởng như không thể, Thiên Chúa vẫn hành động. Đức tin làm cho kẻ “đã hết hy vọng” trở nên mẹ của muôn dân.

Chính nơi những gì không thể, Thiên Chúa thực hiện điều phi thường. Và nơi những người tưởng như đã “hết thời”, Chúa vẫn khơi dậy một tương lai. Bà Sara là hình mẫu đức tin của kẻ tưởng như đã hết hy vọng.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói: “Ai ở lại trong Thiên Chúa, ai được Thiên Chúa sinh ra, ai ở lại trong tình yêu, thì chiến thắng thế gian, và chiến thắng này là đức tin của chúng ta. Đối với chúng ta, đó là đức tin. Đối với Thiên Chúa, chính Chúa Thánh Thần làm cho chiến thắng này trở nên có thể nhờ đức tin. Sức mạnh của đức tin đã chiến thắng thế gian! Đức tin của chúng ta có thể làm được mọi sự!” (Đài phát thanh Vatican, 10 tháng 1 năm 2014) [2]

  1. Đức tin là hành trình

Hành trình đức tin không luôn mang đến thành công chóng vánh. Nhưng những người tin, dù không “nhận lãnh” điều hứa, vẫn vui mừng vì họ đã được thấy từ xa: “Mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy” (Hípri 11:13).

Họ nhìn đời này như “lữ khách”, không bám víu vào quê hương trần thế, vì họ khao khát “Một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời”, và chính điều ấy làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Vì thế, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài” (Hípri 11:16).

Đức tin được nối kết với việc nghe. Abraham không nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng nghe thấy tiếng Ngài…Lời nói với Abraham chứa đựng cả kêu gọi lẫn hứa hẹn. Trước nhất, đó là lời kêu gọi lìa bỏ quê hương, lời mời gọi đi tới một cuộc sống mới, khởi đầu cho một xuất hành sẽ hướng ông tới một tương lai không dự đoán được… Đức tin “thấy” bao lâu nó tiến bước, bao lâu nó quyết định bước vào các chân trời do lời Thiên Chúa mở ra” (Thông điệp Lumen Fidei của ĐTC Phanxicô, số 8, 9)

Darwin Ramos sinh năm 1994 tại một khu ổ chuột ở Pasay, Philippines. Là con thứ hai trong gia đình nghèo 9 người con, và có người cha nghiện rượu, cậu vẫn kiên nhẫn và yêu thương các em. Năm 7 tuổi, Darwin mắc bệnh loạn dưỡng cơ – Duchenne muscular dystrophy – khiến cơ bắp dần teo liệt, không đi học được. Dù không thể đứng vững, cha cậu bắt cậu ra ga xin tiền và cùng em gái nhặt rác kiếm sống. Tuy xấu hổ, nhưng vì muốn giúp gia đình nên Darwin không trách cha.

Năm 2006, Darwin được Quỹ “Tulay ng Kabataan” đưa về trung tâm trẻ khuyết tật. Tại đây, cậu được rửa tội, rước lễ và bắt đầu hành trình đức tin sâu sắc. Cậu gọi bệnh tật là “sứ mạng”, kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Một ngày nọ, cậu nói với vị linh mục của Quỹ: “Cha biết không, con nghĩ Chúa Giêsu muốn con kiên trì đến cùng, giống như Chúa đã làm.”

Darwin đã vun đắp một mối tương quan cá nhân sâu sắc với Chúa Kitô; không một ngày nào trôi qua mà cậu không dành thời gian để phó thác bản thân cho Chúa. Một người chăm sóc từ quỹ đã làm chứng: “Dù Darwin bị sốt, cậu đã nài nỉ được giúp ra khỏi giường để cùng mọi người ở trung tâm cầu nguyện buổi tối. Đối với cậu, Chúa Giêsu là trên hết mọi thứ.”

Cuối tháng 9 năm 2012, Darwin nhập viện vì suy hô hấp. Trên giường bệnh, cậu xin lỗi linh mục vì đã “làm phiền” và để lại lời cuối trong sổ tay: “Con cảm ơn rất nhiều. Con rất hạnh phúc.” Darwin qua đời sáng Chúa nhật, ngày 23.9.2012, ở tuổi 17. Cuộc đời ngắn ngủi của cậu là chứng tá sống động cho đức tin đơn sơ, trung tín và đầy phó thác giữa đau khổ. [3]

Thư Do Thái cho thấy đức tin là hành trình dấn thân dù chưa thấy kết quả. Tin Mừng Luca mời gọi đi xa hơn: sống đức tin trong tỉnh thức và trung tín. Chúa Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Ngài cho anh em” (Lc 12: 32). Nước Trời không chỉ là phần thưởng, mà là trách nhiệm được trao, là kho tàng cần canh giữ trong tỉnh thức: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” (Lc 12: 35).

Đức tin không dừng lại ở niềm tin, mà là đời sống sẵn sàng đón Chúa trở về bất ngờ. Chúa Giêsu cảnh báo: “Nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín” (Lc 12: 45). Nguy hiểm không phải là lỗi lầm, mà là sống như thể Thiên Chúa không bao giờ trở lại. Đức tin đích thực thúc đẩy hoán cải hôm nay, không trì hoãn.

Đức Giáo hoàng Phanxicô từng đặt cho chúng ta những câu hỏi: “Tôi có bị ràng buộc với những gì mình có không, với những ý tưởng của riêng mình, khép kín vào chính mình không? Hay tôi mở lòng ra với Thiên Chúa của những điều bất ngờ? Tôi là một người đứng yên hay là một người đang bước đi trong cuộc hành trình? Tôi có tin vào Chúa Giêsu Kitô và những gì Ngài đã làm không?, nghĩa là tin rằng Ngài đã chết, đã sống lại không?” (Bài suy niệm buổi sáng tại nhà nguyện Thánh Mátta, thứ Hai, 13/10/2014).

Sống đức tin không phải nắm giữ một mớ kiến thức thuộc lòng, mà là ra đi khỏi lối nghĩ, lối hành xử, kế hoạch, toan tính của riêng mình, nhưng tỉnh thức và phục vụ. Như Abraham sẵn sàng hiến tế con mình, chúng ta được mời gọi dâng chính mình, trong niềm tin vào Thiên Chúa, như của lễ mỗi ngày. Lạy Chúa, xin cho con tin như Abraham, tỉnh thức như người đầy tớ, và sống mỗi giây phút như thời khắc Chúa trở lại. Amen.

Phêrô Phạm Văn Trung

 [1] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-06/dtc-phanxico-tiep-kien-chung-cau-nguyen-apraham.html

[2] https://www.indcatholicnews.com/news/23931?utm_source=chatgpt.com

[3] https://en.wikipedia.org/wiki/Darwin_Ramos?utm_source=chatgpt.com 

 

SỨC MẠNH CỦA YÊU

Thứ Bảy Tuần 18 Thường Niên C

“Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con!”.

“Lạy Chúa, con chưa bao giờ di chuyển một ngọn núi và có lẽ, sẽ không bao giờ. Tất cả niềm tin con có thể tập hợp vẫn không di dời nổi một ‘đồi kiến’. Tuy nhiên, Chúa ơi, con cám ơn Chúa vì niềm vui con được biết Chúa; cám ơn Chúa đã cho những ngọn núi dịch chuyển xuống đời con!” - Brigid Ireland.

Kính thưa Anh Chị em,

Một ngọn núi dịch chuyển xem ra còn dễ hơn một ‘con tim dịch chuyển!’. Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay tiết lộ, điều đó vẫn có thể xảy ra khi con người biết ‘sức mạnh của yêu’ - “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Điều gì cũng có thể xảy ra khi một người có trái tim biết yêu và trước hết, yêu mến Thiên Chúa! Môsê nói, “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em!”. Được vậy, “Người sẽ ban cho anh em những thành lớn và đẹp mà anh em đã không xây, những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh em đã không tích trữ, những bể nước có sẵn mà anh em đã không đào!” - bài đọc một. “Yêu Chúa là chấp nhận để Ngài dẫn bạn đến những nơi bạn chưa từng dám đi - và làm nơi bạn những điều bạn chưa từng dám mơ!” - Mark Batterson.

Chúa Giêsu cho thấy điều tương tự. Các môn đệ bất lực trước một em bé kinh phong, “Vì anh em kém tin!”. Kém tin là chưa có đức tin; không tin thì làm sao có thể yêu mến? Và Ngài nói thêm, “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua!”. Chính ‘sức mạnh của yêu’ giúp con người chạm đến điều không tưởng, làm được điều không ai dám tin. “Ngay cả một hạt đức tin nhỏ, nếu bén rễ trong tình yêu, cũng có thể lay chuyển những ngọn núi không ai dám chạm tới!” - Luci Shaw.

Dưới lăng kính vĩnh cửu, một con tim yêu thương - nhờ ân sủng - vẫn là điều mang lại vinh hiển vô cùng cho Thiên Chúa hơn là di dịch một gò nổng! Nó đáng mong đợi hơn và cũng thiên đàng hơn! “Chỉ một chuyển động nhỏ của tình yêu trong một con tim lạnh lẽo cũng khiến thiên đàng vui hơn cả ngàn mặt trời!” - Elvira Petrozzi. Bởi lẽ, ‘sức mạnh của yêu’ luôn có khả năng lay động tim Trời, biến đổi tim mình và thức tỉnh tim người!

Anh Chị em,

“Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con!”. Vậy ‘sức mạnh của yêu’ nơi bạn đang ở cấp độ nào? Có ngọn núi nào, thung lũng nào trong bạn mà Thiên Chúa hằng đau đáu muốn san lấp? Ngài muốn bạn xê dịch gò nổng nào? Đó là những câu hỏi thiết thực nhất, cấp bách nhất cho việc nên thánh! Hãy nhớ, nếu chúng ta có một lòng yêu mến Chúa “hết lòng, hết dạ, hết sức” thì Ngài sẽ không chỉ làm những điều kỳ diệu trong cuộc sống chúng ta, nhưng qua chúng ta, Ngài sẽ làm bao điều kỳ vĩ khác nơi các linh hồn; và thế giới sẽ đổi thay! “Khi tình yêu dành cho Thiên Chúa đầy tràn trong tim bạn, Ngài sẽ dùng bạn để làm đầy thế giới!” - Peter Kreeft.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, chỉ ‘sức mạnh của yêu’ mới khiến tim con thật sự đổi thay; từ đó - qua con - thế giới thay đổi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

 

Hãy sống như sẽ chết

Một học sinh miệt mài học tập, sau những năm dài chăm chỉ, hy vọng sẽ nắm trong tay mảnh bằng cấp, nhờ đó có thể vun đắp cho tương lai đời mình.  Tương tự, người lao động muốn làm việc thành thạo, phải có một thời gian gắn bó với việc mình làm, biết đâu nhờ đó tương lai rạng sáng hơn…  Như vậy, sau những năm dài học tập hay làm việc đều là một quá trình.  Để làm thành quá trình, đòi phải có thời gian…

Cùng là một quá trình, đời người là sự góp nhặt thời gian.  Để làm thành một cuộc đời, ai cũng phải một lần có mặt trong thời gian.  Thời gian là cánh cửa mở rộng với cuộc đời của người này, nhưng cũng có thể khép chặt nơi cuộc đời của người khác.  Vì có những cuộc đời dài đến trăm năm, nhưng không ít mảnh đời chỉ mới thành thai trong lòng dạ một ai đó đã vội tắt.  Dẫu thời gian có một chiều dài hay chỉ là khoảng ngắn, đủ để ta gọi đó là cuộc đời.  Cuộc đời là một quá trình dài ngắn khác nhau, cũng giống như học tập hay làm việc đòi cả một quá trình.

Giống nhau đến vậy.  Nhưng lại không giống chút nào với quá trình học tập, làm việc của một học sinh hay một người lao động.  Rất khác, khác xa, khác đến nỗi không thể so sánh!  Sao giống rồi khác?  Chẳng phải mâu thuẫn lắm sao?

Một quá trình học tập, làm việc của một người, đưa tới niềm hy vọng và tương lai sáng sủa phía trước.  Nhưng cái đích cuối cùng mà mỗi cuộc đời phải chạm tới không bao giờ là tương lai sáng sủa, ngược lại, rất oan nghiệt, vì đó là cái chết.  Chết là kết thúc của một hành trình sống.  Chết là không bao giờ hiện diện nữa, là mất hút, là thối rữa, hoặc chỉ còn một chút tro tàn.  Nói cho cùng: Nếu chỉ nhìn trên bình diện thể xác và vật chất, con người chẳng khác một con vật: sống để rồi chết; chết để rồi tàn phai.

Nói như thế, có thể bị coi là bi quan.  Nhưng đó là sự thật.  Vì chân lý cuối cùng trong cuộc đời mỗi người sẽ quy về một sự thật hiển nhiên Là: Có sống, sẽ có chết!  Bạn và tôi đều đặn nhịp bước trong cuộc đời, vẫn cần những khoảnh khắc dừng chân nhìn thẳng vào sự thật bị coi là bi quan ấy để nhận ra mình, nhận ra lẽ sống mà mình đang chọn, cách sống mà mình đang thực hiện.  Nếu cần, điều chỉnh cho phù hợp.

Thật ra, sống hay chết chẳng bi quan với hết mọi người.  Chỉ những ai thiếu đức tin, không tin, nếu có lúc bất chợt suy tư, trước mặt họ đúng là đáng sợ, bi quan, là cả một bầu trời vô định và đen tối, một khoảng không vô tận không biết lấy gì lấp đầy.

Nhưng với người có đức tin, lẽ sống họ chọn sống là chính đức tin, sẽ cung cấp cho họ lối sống phù hợp với đức tin.  Đức tin ấy nung đốt trong lòng họ niềm mến yêu con người, mến yêu cuộc đời.  Chính vì lẽ sống đức tin, niềm mến yêu ấy, họ sống dị tha, khoang dung, biết khước từ sự sang trọng giả tạo, khước từ đam mê sở hữu, đam mê vật chất một cách tha hóa, biến chất đến độ mất lương tri, chẳng còn nhân phẩm…

Bởi đó, nếu thời gian là thước đo những tháng năm dài học tập, làm việc của người học trò hoặc của người lao động, thì thời gian cũng sẽ là cán cân đong đếm cuộc đời mỗi người.  Chiếc cán cân ấy khắc ghi từng con số.  Nếu bạn là người có đức tin, hãy sử dụng cuộc đời mình để khi thời gian càng dài, cán cân thời gian đo cuộc đời càng thêm những chỉ số của sự cộng tác với ơn Chúa, lòng đạo đức, sự thánh thiện, chứ không phải khắc thêm chỉ số của bần tiện, gian dối, giả trá, tội lỗi…

Nếu nói nghĩ về cuối hành trình của cuộc đời mỗi người để nhận ra cái chết đang chờ đón là bi quan, thì hôm nay, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi hãy nhìn thẳng vào nỗi bi quan ấy và suy nghĩ cách thấu đáo về lối sống và lẽ sống mà mình chọn sống.  Đó là câu chuyện nhà phú hộ có dư thừa của cải kia, chỉ biết xây dựng cuộc sống của mình trên đống của cải ấy.  Chính khi ngụp lặn trong đam mê vật chất, nhà phú hộ đã đánh đổi Thiên Chúa, thay vào đó là cái kho của cải to lớn mà ông còn đang dự định xây lại một cái kho khác còn to lớn hơn.

Nhưng khốn nạn cho ông!  Chính khi nhà phú hộ khép kín đời mình trên đống của; khi còn đang ảo tưởng về sự tính toán khôn ngoan của mình; khi ông chất chứa, không chỉ trong kho, nhưng trong chính lòng ông mọi thứ tham vọng trần tục, kiêu ngạo và hưởng thụ, là chính lúc cái chết đang ập đến trên ông.  Lời của Thiên Chúa qua môi miệng Chúa Giêsu còn đó, như một bản án khắc nghiệt dành cho những ai đam mê thế tục đến mức che mờ đức tin, nặng hơn: chối từ đức tin: “Nhưng Thiên Chúa bảo anh ta rằng: ‘Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?’” Và Chúa kết luận, một lời kết luận cũng khắc ngiệt không kém: “Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy.”

Hóa ra nghĩ về cuối hành trình của sự sống để chuẩn bị cho giờ chết chẳng phải bi quan, nhưng là thái độ lạc quan, rất lạc quan và khôn ngoan, rất khôn ngoan.  Vì nếu ai biết sống như sẽ chết, nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng cho cái chết của bản thân như đức tin dạy bảo, chắc chắn người đó thanh thản lắm, tâm hồn thơ thới bình an lắm.  Những người như thế sẽ để lại trong lòng người ở lại nhiều niềm thương, nỗi nhớ vô cùng.

Ngược lại, kẻ chỉ biết xây dựng đời mình bằng cách loại trừ đức tin, bằng hưởng thụ, tham lam, đam mê xấu, tha hồ ngụp lặn trong tội lỗi, suốt đời là những bước đi vô định, để cuối cùng, đứng trước cái chết, rơi vào nỗi hoang mang, lo sợ, lương tâm dằn xé, đó mới chính là nỗi bi quan đến tột cùng, bi quan không gì bằng!  Nỗi bi quan lớn như vậy là bởi sống không định hướng.  Mà sống đã không định hướng, chết tất sẽ mịt mù, bi đát.

Bạn và tôi là người có đức tin, hãy nhớ điều này: Thật ra của cải không xấu.  Xây kho hay hưởng thụ vừa phải những gì Thiên Chúa ban cũng không xấu, “nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (Lc 12, 15).  Đừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích.  Vì người giàu đáng yêu trước mặt Chúa là người biết cho đi.  Làm sao để cuối hành trình trần thế, đến trước tòa Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn, vì vừa mới cho đi tất cả.

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Gia Tài

(Gv 1, 2. 2, 21-23; Col 3. 1-5. 9-11; Lc 12, 13-21). 

Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất đơn giản. Họ làm một cái lồng có nhiều lỗ nhỏ vừa tay con khỉ. Rồi họ buộc lồng vào một gốc cây và bỏ vào đó ít hạt bắp rang. Các chú khỉ ngửi mùi bắp thơm thì thò cả hai tay vào bốc. Lúc đó người bẫy khỉ ngồi xa xa cứ việc tiến lại bắt chú khỉ. Con khỉ cuống cuồng muốn thoát chạy nhưng không rút tay ra được. Lý do đơn giản là hai tay còn nắm chặt hai nắm hạt bắp. 

Tác giả sách Giảng Viên đã suy gẫm sự đời một cách rất sâu lắng. Phản ánh một triết lý sống. Thực ra cuộc sống con người rất phức tạp và đa diện. Chúng ta nên quan sát và suy gẫm rất cẩn thận để tìm một hướng đi thích hợp. Trước khi chúng ta được mở mắt chào đời, vũ trụ và muôn loài đã có đó. Khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, muôn sự vẫn cứ tiếp tục hiện hữu. Cuộc đời của mỗi người xuất hiện đó, rồi biến mất. Không có gì tồn tại mãi ở trần gian này. Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không và mọi sự đều hư không ((Gv 1,2). Hư không diễn tả mộtkhía cạnh vô thường của cuộc sống này. Có nghĩa là mọi sự hiện hữu như gió thoảng mây bay. Giảng Viên chia sẻ kinh nghiệm sinh hoạt cuộc sống hằng ngày và gẫm suy: Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao (Gv 2, 21). 

Chúng ta không nhìn cuộc sống một cách bi quan hay tiêu cực. Vì sự sống là một hồng ân. Chuỗi ngày sống là một chuỗi ân sủng nối tiếp. Sống là hiện hữu. Mọi sự hiện hữu đều hữu ích. Sự sống cần được sinh hoa kết trái. Thể xác con người cần được lớn lên và phát triển mỗi ngày. Đời sống tâm linh cũng được bồi dưỡng để tiến tới sự hoàn hảo hơn. Sinh ra là khởi đầu. Bắt đầu bước vào một cuộc lữ hành trần thế. Cuộc lữ hành cần có hướng đi và cùng đích. Trong các loài thụ tạo, sứ mệnh của con người thật cao quí. Vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho con người có ý chí, lý trí và tự do. Với những khả năng ưu việt, con người có bổn phận và trách nhiệm xây dựng một xã hội giầu mạnh, thịnh đạt và an bình. Với khối óc và bàn tay lao động, con người góp phần làm cho thế giới ngày tốt đẹp hơn. 

Câu truyện Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận rõ về giá trị về việc tìm kiếm và sử dụng của cải trần đời. Cần có thái độ chọn lựa đối với vật chất phù vân. Chúng ta còn có gia sản tinh thần quí báu hơn. Hãy dùng của cải hay hư nát để mua Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc thế gian để đổi lấy bạn hữu. Hãy dùng của giả để đổi lấy của thật. Hãy tráo đổi giá trị trần thế để mua gia sản nước trời. Đổi tiền giả ra tiền thật. Đó là dùng tiền bạc hay của cải để bố thí hoặc làm việc bác ái, chúng ta sẽ tích trữ được khó báu trên trời. Chúa Giêsu đã dậy: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16, 9). 

Điều quan trọng là chúng ta phải đặt đúng giá trị của sự việc. Tiền bạc của cải không thể trở thành chủ nhân ông. Đừng qúa tham lam thu tích của cải phù hoa thế trần, nhưng luôn ý thức hướng tới mục đích sau cùng. Chúa Giêsu cảnh báo: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? (Lc 12, 20). Người đời nghĩ rằng phải cố gắng làm việc để trở nên giầu có và có của ăn của để, phòng khi hữu sự. Điều này thật phải lẽ! Đối với các tín hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ làm giầu gia sản vật chất nhưng quan trọng hơn là làm giầu trước mặt Chúa. Chúa Giêsu nói tiếp: Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy" (Lc 12, 21). Khi lao động làm việc hay kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt, các thành qủa đều có giá trị giúp thăng hoa cuộc sống. Chúng ta không chỉ tích trữ gom góp tiền bạc để thụ hưởng riêng mình, nhưng sử dụng của cải để sinh hoa qủa cho tha nhân và xã hội. Biến đổi giá trị vật chất phàm hèn tới giá trị tinh thần cao siêu trước mặt Chúa. 

Truyện kể có người giầu có kia chết, chôn chưa được ba ngày, một tên đạo tặc giữa đêm lén đào mả lên, lột hết vàng bạc trong mình kẻ chết, rồi lại vác búa đập bể đầu, bể miệng. Sao lại thù hằn dữ vậy? Không, chỉ vì khi chôn, người ta cho ông ngậm viên ngọc quí đó thôi. Giầu có sống không yên, chết cũng chẳng yên. 

Lợi lộc gì chứ khi chúng ta chỉ biết cắm đầu lo làm giầu sở hữu của cải vật chấtHãy ngước nhìn lên và nhắm hướng về cùng đích. Cuộc đời của chúng ta có những gia trị cao quí hơn nhiều. Vì sự sống của chúng ta được chuộc lại bởi giá Máu châu báu của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô diễn tả: Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa (Col 3, 1). Quê hương đích thực của chúng ta là trời cao. Tại sao chúng ta xả thân miệt mài thu tích của cải dưới đất nơi mối mọt rúc rỉa? Hãy tìm kiếm những sự cao siêu hơn: Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất (Col 3, 2). 

Lạy Chúa, chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp đời chúng con. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự Chúa sẽ ban thêm. Có Chúa, chúng con sẽ có tất cả. 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

ĐỜI SỐNG QUI HƯỚNG VỀ THIÊN CHÚA

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về ý nghĩa thực sự của đời sống, thúc đẩy chúng ta nhìn xa hơn những chóng qua trên trần thế, chỉ như mây bay, để tìm kiếm những giá trị trường tồn, và hướng tới sự sống vĩnh cửu trong Chúa Kitô.

 1. Phù vân chỉ là phù vân

Sách Giảng Viên mở đầu bằng một tuyên bố mạnh mẽ: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân.” (Gv 1: 2). Câu này không phải là một lời phủ nhận giá trị của cuộc sống, nhưng là một lời mời gọi nhìn nhận sự tạm bợ của những gì thuộc về thế gian: “Quả thế,có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điề uấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ” (Gv 2,21). Sự vất vả, lo toan để tích lũy của cải, danh vọng, hay quyền lực, cuối cùng chỉ là phù vân nếu không có ý nghĩa vĩnh cửu.

Thánh Augustinô đã từng suy niệm về sự hư không này trong tác phẩm Tự Thú: “Lòng con khắc khoải cho đến khi con được nghỉ yên trong Chúa” (Tự Thú, Quyển I, Chương 1). Thánh nhân nhận ra rằng mọi nỗ lực của con người để tìm kiếm hạnh phúc nơi những thứ tạm bợ đều dẫn đến thất bại, vì chỉ trong Thiên Chúa, con người mới tìm thấy sự viên mãn thực sự.

Bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Richard Teo, một triệu phú ở Singapore, nghĩ rằng thành công đồng nghĩa với giàu có. Ông bỏ ngành phẫu thuật mắt để mở trung tâm thẩm mỹ, nhanh chóng kiếm được hàng triệu USD, sở hữu xe sang Ferrari, biệt thự, và giao lưu với người nổi tiếng. Tháng 3/2011, ông bị chẩn đoán ung thư phổi giai đoạn 4. Trong bài nói chuyện với sinh viên nha khoa tại Singapore tháng 11/2011, ông chia sẻ: “Tôi từng nghĩ tiền bạc, danh vọng mang lại hạnh phúc. Tôi mê muội kiếm tiền, mở rộng kinh doanh, tiêu xài xa xỉ. Nhưng khi đối diện cái chết, xe hơi, nhà cửa, cúp thưởng chẳng mang lại niềm vui. Chỉ có gia đình, bạn bè chân thành, những người chia sẻ nỗi đau, mới thực sự an ủi tôi. Tôi từng thiếu đồng cảm với bệnh nhân, chỉ xem họ là nguồn thu nhập. Đến khi tự trải qua đau đớn, tôi mới hiểu họ. Tôi khuyên các em: đừng đánh mất lương tâm, hãy đặt mình vào vị trí bệnh nhân, và giúp đỡ những người đau khổ. Hạnh phúc thật sự không phải sống cho mình, mà là mang lại điều tốt đẹp cho người khác. Đừng để xã hội quy định cuộc sống của các em. Hãy tự quyết định và sống có ý nghĩa.” Ông qua đời cuối năm 2012. (www.benhvienhungvuong.vn).

 2. Hướng Về Những Sự Trên Trời

Trong thư gửi tín hữu Côlôxê, Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3: 1-2). Lời này là một định hướng rõ ràng cho đời sống Kitô hữu: hãy tập trung vào những giá trị vĩnh cửu, thay vì bị cuốn vào những ham mê thế gian.

Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng chúng ta phải “cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới” (Cl 3: 9-10). “Con người cũ” ở đây là những ham muốn ích kỷ, tham lam, gian dối, và dục vọng, vốn dẫn con người xa rời Thiên Chúa. Ngược lại, “con người mới” là con người được tái sinh trong Chúa Kitô, sống theo hình ảnh của Đấng Tạo Hóa. Cuộc sống Kitô hữu là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, như Thánh Phaolô kêu gọi: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới” (Cl 3: 1). Điều này đòi hỏi cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, và tham dự các bí tích.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong Thông điệp Laudato Si’ (2015), đã nhắc nhở: “Thị trường luôn hướng đến việc tạo ra một bộ máy tiêu thụ không thể đảo ngược lại, để các sản phẩm cuối cùng nhấn chìm con người vào trong một vòng xoáy mua bán và xài phí cách vô ích” (Laudato Si’, số 203, 2015). Ngài kêu gọi một sự hoán cải sinh thái, không chỉ trong việc chăm sóc thiên nhiên, mà còn trong việc thay đổi lối sống để tập trung vào Thiên Chúa và tha nhân: “Không có hệ thống nào có thể tiêu diệt triệt để việc khai mở cho điều thiện, chân lý và vẻ đẹp, cũng như khả năng thích ứng. Khả năng này, vốn có sẵn vì chính Thiên Chúa hiện diện sâu thẳm nơi cõi lòng con người, đã động viên chúng ta” (Laudato Si’, số 205, 2015).

Begum Bilquis Sheikh sinh năm 1919 tại Rawalpindi, Pakistan, trong một gia đình phong kiến giàu có và có ảnh hưởng lớn ở vùng Punjab rộng lớn tại Pakistan và Ấn Độ. Cha bà là Nawab Muzaffar Ali Khan, một địa chủ quyền lực, và gia đình bà có nhiều người nổi tiếng trong lĩnh vực chính trị, báo chí và ngoại giao. Bà là mẹ của đại sứ Khalid Amir Khan, và là dì của nhà văn Tariq Ali. Sau khi kết hôn với Tướng Khalid Masud Sheikh, Bộ trưởng Nội vụ Pakistan từ năm 1962 đến 1965, bà bắt đầu tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị, ngoại giao và xã hội.

Trong suốt 46 năm đầu đời, dù theo Hồi giáo, bà không hoàn toàn tin vào những gì không thể lý giải được, mà chỉ tin vào điều mắt thấy tai nghe. Chính sự tìm kiếm chân lý và khủng hoảng cá nhân, vì cha mẹ mất, hôn nhân tan vỡ, bà bắt đầu đọc và tìm hiểu về Chúa Giêsu. Bà cảm thấy bị thu hút sâu xa bởi hình ảnh một Thiên Chúa yêu thương gần gũi. Đầu tháng 12/1966, sau một thời gian cầu nguyện và suy ngẫm, bà tuyên bố tin nhận Chúa Giêsu làm Chúa và xin được rửa tội theo Kitô giáo vào đêm Giáng Sinh năm đó.

Quyết định này dẫn đến hệ quả nghiêm trọng: bị gia đình từ chối, đe dọa, thậm chí nhà bị đốt, và cuối cùng phải trốn sang Hoa Kỳ để đảm bảo an toàn. Tuy vậy, bà không hối tiếc: bà bắt đầu chia sẻ hành trình đức tin của mình qua cuốn hồi ký “I Dared to Call Him Father – Tôi dám gọi Ngài là Cha” (1978), trở thành nguồn cảm hứng cho hàng nghìn người trên thế giới. Bilquis đã lột bỏ người cũ để mặc lấy con người mới trong Chúa Kitô, sống và chia sẻ niềm tin Kitô giáo.

 3. Cảnh báo về sự tham lam

Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn về người phú hộ dại dột, người chỉ biết tích lũy của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Khi người phú hộ tự nhủ: “Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12: 19), Thiên Chúa cảnh báo: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12: 20). Dụ ngôn này nhấn mạnh rằng sự tham lam và lối sống chỉ biết tích lũy cho bản thân là con đường dẫn đến sự hư không. Dụ ngôn người phú hộ dại dột nhắc nhở chúng ta rằng của cải chỉ có giá trị khi được sử dụng để chia sẻ với tha nhân, phục vụ người khác. Thánh Basiliô Cả từng nói: “Của cải dư thừa của bạn không thuộc về bạn, mà thuộc về người nghèo” (Bài giảng về Luca 12:18, bản dịch tiếng Anh, St. Vladimir’s Seminary Press, 2009).

Trong bài giảng về dụ ngôn này, thánh nhân đã nói: “Người phú hộ bị kết án không phải vì đã lấy của ai, nhưng vì đã giữ lại tất cả cho mình” (Những bài giảng về Tin Mừng, bài số 28). Ngài nhấn mạnh rằng sự giàu có không phải là tội, nhưng việc sử dụng của cải một cách ích kỷ, không chia sẻ với người khác, là điều trái với ý muốn của Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã cảnh báo về sự nguy hiểm của chủ nghĩa tiêu thụ: “Một nền văn hóa vốn quan niệm rằng toàn bộ cuộc sống là lựa chọn sản xuất và tiêu thụ. Chính tại đây chủ nghĩa tiêu thụ nảy sinh. Khi liệt kê các nhu cầu mới và các phương tiện mới để thỏa mãn các nhu cầu đó, người ta cần được hướng dẫn bởi một hình ảnh toàn diện về con người, trong đó phải tôn trọng tất cả các chiều kích của con người và đặt những chiều kích vật chất vốn tuân theo bản năng phải phụ thuộc các chiều kích nội tâm và tinh thần” (Thông điệp Centesimus Annus, số 36, 1991). Ngài kêu gọi các xã hội con người, nhất là các Kitô hữu, sống tinh thần nghèo khó trong tâm hồn, không cậy dựa vào của cải vật chất, ngay khi họ sở hữu chúng: “Giáo hội luôn luôn nhắc nhở rằng con người và xã hội không chỉ cần có của cải vật chất mà còn cần những giá trị tinh thần và tôn giáo” (số 61).

Nhiều giáo xứ, thuộc nhiều giáo phận Công Giáo tại Việt Nam, đã mở những quán cơm giá rẻ hàng ngày dành cho người lao động nghèo, người khuyết tật, sinh viên và công nhân. Mỗi suất chỉ có giá 2.000 đồng nhưng đầy đủ cơm, canh, rau và thịt. Chương trình được duy trì bởi các tình nguyện viên và tài trợ từ giáo dân địa phương. Có những quán cơm theo mô hình này, chỉ trong hai tháng đầu tiên, số suất phục vụ đã lên đến 700 suất/ngày. Hoạt động này không chỉ đơn thuần là nấu ăn, mà còn tạo ra không gian đón tiếp cộng đồng, nơi người nghèo và người cô đơn được gặp gỡ, chia sẻ, cầu nguyện chung với sau thánh lễ mỗi sáng Chủ nhật.

Các linh mục, tu sĩ, giáo hữu có thể dùng kiến thức, quyền thế hoặc chức vụ để kiếm lợi, nhưng các vị chọn dùng của cải và thời gian để phục vụ người nghèo - sống tinh thần nghèo khó trong tâm hồn, không bị vật chất chi phối. Mô hình quán cơm 2.000 đ không chạy theo lợi nhuận, nhưng hướng đến phục vụ sự sống và giá trị thiêng liêng của các anh chị em khó khăn, vì họ nhận ra rằng hạnh phúc không nằm ở tiền bạc, mà ở việc sống cho Chúa và cho tha nhân” (www.sjesjesuits.global).

 4. Làm giàu trước mặt Thiên chúa

Làm giàu trước mặt Thiên Chúa nghĩa là gì? Chúa Giêsu dạy rằng sự giàu có thật sự là làm giàu bằng ân sủng của Thiên Chúa. Sống khiêm nhường và bác ái, như Thánh Phaolô dạy, chúng ta cần lột bỏ sự gian dối, tham lam, và dục vọng, để mặc lấy tình yêu thương và lòng nhân ái. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI viết: “Đời sống trong Chúa Kitô là yếu tố đầu tiên và chính yếu của sự phát triển và khuyến khích chúng ta tiến bước trên con đường phát triển này với con tim và lý trí của chúng ta, có nghĩa là với nhiệt tình của bác ái và sự khôn ngoan của chân lý” (Thông điệp Caritas in Veritate, số 8, 2009).

Sự hư không của thế gian không phải là lý do để tuyệt vọng, mà là lời mời gọi để chúng ta hướng lòng về Thiên Chúa. Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi chúng ta từ bỏ sự tham lam ích kỷ để làm giàu bằng ân sủng, trước mặt Thiên Chúa, sống cho Thiên Chúa và tha nhân, tìm thấy niềm vui và bình an thật sự, hướng tới vinh quang vĩnh cửu trong Chúa Kitô. “Thiên Chúa đòi chúng ta mọi sự, nhưng cũng ban cho chúng ta sự sống đích thật, tức hạnh phúc mà chúng ta được dựng nên để lãnh nhận. Ngài muốn chúng ta nên thánh chứ không muốn chúng ta bằng lòng với một cuộc sống nhạt nhẽo và tầm thường” (ĐGH Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate, số 1, 2018).

Phêrô Phạm Văn Trung

Subcategories