3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

PHỤC SINH

(Tđcv 10, 34a. 37-43; Col 3, 1-4; Ga 20, 1-9).

Chúng ta đang bước đi trong niềm tin sống đạo. Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết là niềm hy vọng tuyệt đối cho những ai tin. Niềm tin của chúng ta dựa vào lời dạy của Chúa Giêsu, niềm tin của Giáo Hội và của các nhân chứng. Sự kiện mồ trống là dấu chỉ đầu tiên cho chúng ta nhận biết là xác của Chúa không còn ở trong mồ. Maria báo tin cho các môn đệ, Phêrô cùng Gioan chạy ra mộ, các ông cũng thấy ngôi mộ trống và khi bước vào trong chỉ thấy khăn liệm và băng vải. Các ông nghiệm ra được những lời Kinh Thánh đã báo trước về Đức Giêsu. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh đem lại cho các ông sự phấn chấn và vui mừng.

Tông đồ Gioan mục kích sự việc đã xảy ra, ông thấy và ông tin. Chính Gioan đã viết sách Phúc âm kể lại câu truyện này. Gioan là tông đồ trẻ và được Chúa Giêsu đặc biệt ưu ái. Ông đã được hiện diện trong những biến cố quan trọng và ở sát gần bên Chúa, như khi Chúa cho con gái ông Giairô sống lại, Chúa biến hình trên núi, giây phút buồn sầu trong vườn Cây Dầu và trên thập giá, Chúa đã trao Mẹ của Ngài cho thánh Gioan phụ dưỡng. Gioan là tông đồ duy nhất không lãnh triều thiên tử đạo, nhưng đã trung thành cho tới cùng đường và giữ vững đức tin. Ngài là nhân chứng sống động cho tới tuổi già chuyên lo truyền đạt chân lý phúc âm.

Các môn đệ không chỉ chứng kiến cảnh ngôi mộ trống nhưng đã được nhìn xem, đụng chạm, đàm đạo và ăn uống với Chúa Kitô Phục Sinh. Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ viết: Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại (Tđcv 10, 40). Như sau một chiến trận hoang tàn, có kẻ phản bội, có người chối Chúa, một số bỏ chạy và và một số khác ẩn mình trốn tránh khỏi tai mắt thiên hạ vì sợ người Do-thái. Tâm hồn của các môn đệ dĩ nhiên có nhiều hoang mang lo lắng và buồn đau. Nay con tim đã vui trở lại. Nhưng niềm vui hoàn toàn khác biệt, niềm vui của hy vọng vào cuộc sống trường sinh bất diệt.

Các tông đồ bắt tay vào sứ mệnh làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu bắt đầu thấm nhuần và được áp dụng cụ thể vào cuộc sống. Các ngài không còn đi tìm vinh quang giả tạo của thế trần, nhưng đã thấu triệt ý nghĩa của cuộc hành đạo. Tất cả các môn đệ can đảm xả thân và mỗi người ra đi một hướng để rao giảng Tin Mừng phục sinh cho mọi dân mọi nước. Rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh là trung tâm điểm của tất cả Tin Mừng. Sự sống lại của Chúa Kitô là niềm hy vọng vào sự sống và sự sống lại đời đời. Chúa Kitô trở thành trung gian giữa Chúa Cha và vũ trụ muôn loài. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Đấng xóa tội trần gian.

Hằng năm, Giáo Hội Mẹ mời gọi chúng ta cử hành các biến cố tưởng niệm cuộc đời của Chúa Kitô, để chúng ta được hun đúc niềm tin và tiến bước trên con đường trọn lành. Mùa Chay đã qua và Mùa Phục Sinh bắt đầu. Ngó nhìn lại những tháng ngày qua, đôi khi chúng ta quá thờ ơ và dửng dưng với những lời mời gọi ăn năn sám hối trở về cùng Chúa. Đôi khi chúng ta mải mê thế sự, lo lắng tất bật làm ăn và kiếm sống. Biết rằng đang phải sống giữa một xã hội xô bồ, tranh dành và hưởng thụ, nhưng chúng ta cũng chẳng có thể làm cho ngày dài thêm hay đời trẻ trung trở lại. Đừng để lỡ cơ hội tìm về nguồn sự sống để hiểu biết về ý nghĩa của những sự cao siêu trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.

Tự vấn, Chúa Kitô phục sinh có mang lại niềm vui cho tâm hồn chúng ta hay không? Sự kiện Chúa Kitô chịu chết và sống lại có ý nghĩa gì không? Chúng ta đang cố công vun đắp cho sự sống này, nhưng đừng quên niềm hy vọng sự sống vĩnh cửu đời sau. Cuộc lữ hành trần thế của chúng ta phải hướng tới cùng đích. Chúa Kitô là ánh sáng và sự sống. Hãy gắn kết chặt chẽ với Chúa Kitô là nguồn sự sống. Chúa Giêsu nói rằng không có Thầy, chúng con không thể làm gì được. Có Chúa, chúng con sẽ có tất cả. Hãy dục lòng tin, cậy và mến, để chúng ta biết phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã phục sinh từ cõi chết. Alleluia. Chúa Kitô là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc, xin cho chúng con biết đặt niềm tin yêu và hy vọng vào sự phục sinh của Chúa, hầu chúng con cũng sẽ được tham dự vào sự sống vĩnh cửu ngày sau.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

CHÚA KITÔ PHỤC SINH ĐEM LẠI MỘT VIỄN CẢNH MỚI

Quả thật, sự sống lại của Chúa Giêsu đánh dấu sự khởi đầu của một lối sống mới tập trung vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết nhưng hiện nay đang sống và sống đời đời. Nhờ chiến thắng của Chúa Giêsu trên tội lỗi và sự chết, các tín hữu được ban cho một viễn cảnh mới. Thập giá và sự phục sinh của Chúa Giêsu đã thay đổi mãi mãi cách chúng ta nhìn về sự chết, về cuộc sống, về thế giới này và về nhau.

Như nhà thần học Karl Rahner đã từng giải thích, sự phục sinh của Chúa Giêsu mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của con người, vốn giống như Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh. “Một ngày kỳ lạ, bí nhiệm, im lặng, một ngày không có phụng vụ, Thứ Bảy Tuần Thánh là biểu tượng của cuộc sống hàng ngày, là sự hòa lẫn giữa nỗi kinh hoàng khủng khiếp của Thứ Sáu Tuần Thánh và sự chờ đợi niềm vui hân hoan của Lễ Phục Sinh. Cuộc sống bình thường của con người chủ yếu cũng ở giữa hai tâm trạng này; Thứ Bảy Tuần Thánh, vốn là cuộc sống của chúng ta, phải là cuộc chuẩn bị cho Lễ Phục Sinh, niềm hy vọng vững vàng về vinh quang cuối cùng của Thiên Chúa.” [1]

Rahner gợi ý rằng để sống cuộc đời này như ngày Thứ Bảy Tuần Thánh một cách xứng đáng đó là sống trong hy vọng, làm những gì có thể làm được và trông đợi Thiên Chúa làm những gì chúng ta không thể làm được. Đó là nhận ra sự thật trong lời nói của Tertullianô (145-220 CN), “Caro cardo salutis - xác thịt là bản lề của sự cứu độ”. Thực chất của lễ Phục sinh là Thiên Chúa không chỉ ở trên kia như một đấng siêu việt hoàn toàn khác. Ngài đã đến với chúng ta, bằng xương bằng thịt của sự sống của con người và trong sự sống đó đã biến đổi con người chúng ta. “Từ đó, Đất Mẹ chỉ sinh ra những đứa con được biến đổi. Vì sự phục sinh của Chúa Giêsu là khởi đầu cho sự phục sinh của mọi xác thịt.” [2]

Một quan điểm khác về sự sống lại đã được thánh Augustinô (354-430 CN) đề xuất từ nhiều thế kỷ trước. Vị giám mục thành Hippo nói, “Hãy đưa cho tôi một người đang yêu, và người ấy sẽ hiểu được sự sống lại.” Mở rộng tư tưởng của thánh Augustinô, Gerald O'Collins [3] giải thích rằng tình yêu giữa một người nam và một người nữ hàm chứa tình yêu thiêng liêng được bày tỏ trong sự sống lại. “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” và “Từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài” (Mc 1:11, 9:7) có ý nói “Ngài sẽ không chết”, hay đúng hơn, “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát” (Cv 2,25-31). Thánh sử thứ tư cũng sử dụng ngôn ngữ yêu thương tương tự khi kể về cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu: “Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13:1) Tình yêu thương không bị giới hạn bởi thời gian hay cái chết. Cha mẹ không nói với con cái, “Bố mẹ sẽ yêu con 10, 15 hay 20 năm.” Con cái không nói, “Con sẽ quên mẹ khi mẹ chết.” Những người yêu nhau không nói: “Anh sẽ yêu em trong năm năm.” Tình yêu đích thực được cam kết và tự cam kết bằng ngôn ngữ “mãi mãi.” [4]

Trong sự phục sinh của Chúa Giêsu, những người con yêu dấu của Chúa Cha được hứa rằng tình yêu vĩnh cửu của Ngài sẽ cùng họ đi đến cuộc sống bên kia nấm mồ. Nơi Chúa phục sinh, các tín hữu tìm thấy một viễn cảnh mới về niềm hy vọng và ý nghĩa để nhìn vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh của cuộc sống con người. Chúa Giêsu, Đấng đã chết và nay đã sống lại, đảm bảo với chúng ta về sự biến đổi cứu độ của mọi xác thịt.

Bài đọc I - Công Vụ 10:34, 37-43

Khi thánh Luca viết sách Công vụ Tông đồ vào khoảng giữa những năm 80 CN, hai nhân vật chính trong đó, Phêrô và Phaolô, đã qua đời. Nhưng thánh Luca không đề cập đến cái chết của hai vị anh hùng này của hội thánh sơ khai. Thay vào đó, thánh Luca để lại cho độc giả ấn tượng rằng sứ vụ của Phêrô và Phaolô vẫn còn nguyên vẹn và các tông đồ tiếp tục nói chuyện với Hội Thánh thông qua các bài diễn từ được cho là của các ngài. Qua đó, Luca cho thấy một cái nhìn sâu sắc về “kế hoạch”, hay “ý muốn” của một Thiên Chúa đích thực ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người.

Trong sách Công Vụ Tông Đồ, các bài diễn văn có chức năng như một phương tiện để thánh Luca công bố Tin mừng. Thực tế là bài giảng này, giống như tất cả những bài khác, chứa đựng các yếu tố chính hoặc sứ điệp cơ bản về ơn cứu độ, như cái chết của Chúa Giêsu phù hợp với kế hoạch đã định trước của Thiên Chúa, rằng Ngài đã sống lại từ cõi chết như đã được báo trước trong sách thánh, và các nhân chứng đã nhìn thấy Ngài trong trạng thái sống lại.

Các bài diễn văn hoặc bài phát biểu được cho là của thánh Phaolô đã trình bày kerygma – sứ điệp cơ bản - nhằm mục đích dành cho khán giả dân ngoại, trong khi các bài diễn văn của thánh Phêrô hướng đến thính giả hoặc độc giả Do Thái. Tuy nhiên, trong bài đọc thứ nhất hôm nay, thánh Phêrô được miêu tả trong một tư cách khác thường khi rao giảng cho dân ngoại. Với tư cách là người đứng đầu được Hội thánh công nhận, thánh Phêrô tán thành sứ mệnh loan báo Tin mừng cho dân ngoại và tất cả các hậu quả của nó, ví dụ những người Do Thái và những người Dân Ngoại, được hiệp nhất bởi đức tin nơi Chúa Kitô, sẽ không còn bị ngăn cách bởi những khác biệt về sắc tộc hoặc các quy tắc thanh sạch/ô uế. Hơn nữa, bài giảng của thánh Phêrô đại diện cho việc hoàn thành mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đã ban hành ở cuối Tin mừng Luca, nghĩa là tin mừng về sự tha thứ và cứu rỗi phải được rao giảng nhân danh Ngài “cho muôn dân” (Luca 24:47). Có thể nói rằng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Phêrô và các Kitô hữu gốc Do Thái khác bắt đầu nhận ra thách thức của việc chấp nhận một quan điểm phổ quát hơn về sự cứu rỗi, rằng “ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10: 43). Thử thách này được đưa ra trong bối cảnh trở lại đạo của viên sĩ quan dân ngoại Cornelius và của cả gia đình ông. Được Luca đưa tin rộng rãi (Cv 10:1-11:18), sự kiện Cornelius là quyết định mang tính bước ngoặt đối với cộng đoàn sơ khai và là hình mẫu cho việc truyền giáo đang phát triển này.

Hàm ý phổ quát về sự phục sinh của Chúa Giêsu, rằng tất cả xác thịt đã được Thiên Chúa yêu thương và biến đổi đòi hỏi những người cử hành thực tại này trong lễ Phục sinh phải nhìn nhận ngay cả những người xa cách và khác biệt nhất giữa chúng ta trong một viễn cảnh mới, tức là viễn cảnh tình yêu.

Bài đọc II - Côlôsê 3:1-4

Do những tiến bộ của y khoa, đặc biệt là vào nửa sau của thế kỷ 20, một hiện tượng được gọi là “trải nghiệm cận tử” đã trở nên gần như phổ biến. Nạn nhân của các cơn đau tim hoặc chấn thương thể chất nghiêm trọng khác, lẽ ra đã chết, giờ đây có thể được hồi sức và tiếp tục cuộc sống bình thường. Nhiều người sống sót sau cuộc chạm trán với cái chết như vậy đã nói rằng cuộc sống của họ đã bị thay đổi hoàn toàn bởi trải nghiệm đó. Các giá trị và ưu tiên đã được điều chỉnh. Con người và các mối tương quan trở nên quan trọng hơn mọi thứ. Những điều tầm thường trước đây vốn đã nhận được rất nhiều nỗ lực và sự chú ý đã trở nên vô nghĩa để cho những khía cạnh thực sự thiết yếu của sự hiện hữu của con người có thể được quan tâm nhiều hơn. Theo một nghĩa nào đó, thánh Phaolô muốn độc giả của ngài cũng có cách nhìn tương tự về đời sống của họ trong Chúa Kitô.

Nhờ phép rửa tội, người tín hữu đã chết với Chúa Kitô và cùng với Ngài sống lại trong một cuộc sống mới đầy ân sủng và vinh quang. Kinh nghiệm về sự chết và sống lại đó sẽ thay đổi hoàn toàn các giá trị, các ưu tiên và phong cách sống tiếp theo của tín hữu, sao cho cõi lòng của họ “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới”, và “hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1,2). Thật không may, những người Côlôsê nhận được bức thư này đã bị lôi kéo theo những hướng khác.

Êpápra đã thành lập hội thánh tại Côlôsê và có lẽ cũng đã đem Tin mừng đến các thành phố khác trong thung lũng Lycus (Laođixê, Hiêrabôli). Thánh Phaolô cũng có mối liên hệ với thành phố này, thông qua các mối liên hệ của ngài với Philemon, Onesimus, Apphia và Archippus. Mặc dù thư Côlôxê vẫn là một phần trong kho văn bản Phaolô đang gây tranh cãi, nhưng bức thư được gửi nhân danh thánh Phaolô đến Côlôxê phù hợp với những mối quan tâm thần học của vị Tông đồ.

Những người giảng thuyết giả mạo (Cl 2:4,8) đã quấy phá thành phố, tấn công cả quyền tối cao của Chúa Kitô và nhân tính thật của Ngài và thay vào đó đưa ra một thứ hỗn hợp của chiêm tinh học ngoại giáo, thuyết ngộ đạo nguyên thủy và một hình thức dị thường của thuyết thần bí Do Thái. Để các tín hữu không bị ảnh hưởng bởi những sai lầm này, tác giả Côlôxê nhắc nhở độc giả của mình rằng sự cam kết của họ với Chúa Kitô khi chịu phép thánh tẩy đòi hỏi họ phải đổi mới hàng ngày trong sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Bài Tin mừng - Gioan 20:1-9

Là một trong những giáo lý chính của đức tin Kitô giáo, sự phục sinh của Chúa Giêsu cũng là một trong những mầu nhiệm lớn nhất của Kitô giáo. May mắn thay, thánh sử Gioan đã hướng dẫn các độc giả của mình hiểu rõ hơn về Chúa Giêsu phục sinh nhờ Tin mừng. Dù một số người cho rằng người môn đệ Chúa yêu có tên gọi Gioan này không phải là một nhân vật lịch sử cụ thể thì Gioan vẫn là biểu tượng của người môn đệ chân chính luôn ở gần Chúa Giêsu và là người đầu tiên tin vào sự phục sinh của Ngài: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Gn 20: 8).

Là một người hướng dẫn có khả năng, người môn đệ Chúa yêu là người gần Chúa Giêsu nhất trong Bữa Tiệc Ly: “Trong số các môn đệ, có một người được Chúa Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Chúa Giêsu” (Ga 13:23-26); ông ở lại bên thập  giá của Chúa Giêsu với Mẹ Maria và được Chúa Giêsu giao phó cho Mẹ chăm sóc: “Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có thân mẫu Ngài, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Clôpát, cùng với bà Maria Mácđala. 2Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Chúa Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà." Rồi Ngài nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh." Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19:25-27). Ông đã ở với Simon Phêrô khi Maria Mađalêna báo tin về ngôi mộ trống: “Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến” (Ga 20:2). Lần đầu tiên đến mộ Chúa Giêsu, ông đã nhìn thấy và hiểu những điều mà Maria không hiều. Trong khi bà nghĩ rằng thi thể của Chúa Giêsu đã bị lấy đi, thì người môn đệ được yêu mến đã nhận ra rằng, qua sự sắp xếp có trật tự của những tấm vải liệm, thi thể của Chúa Giêsu không bị đánh cắp mà thực sự là Ngài đã sống lại: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20: 8) Dường như đức tin của ông không phải là kết quả của nỗ lực và sự hiểu biết của con người mà là hiệu quả của tình yêu của Chúa Kitô trong người môn đệ. [5]

Sau đó, khi đang câu cá với Phêrô, người môn đệ được yêu mến sẽ nhận ra Chúa phục sinh của mình đang đứng trên bờ biển và chỉ Ngài cho Phêrô: “Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó!” (Ga 21:7). Khi kết thúc sách Tin mừng của mình, thánh sử Gioan đã xác định môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến là nguồn có thẩm quyền cho công việc của ông: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (Ga 21:24).

Giống như các thiên sứ giải nghĩa trong các câu chuyện phục sinh nhất lãm (Mt 22:5, Mc 16:5, Lc 24:4), người môn đệ Chúa yêu giúp độc giả của Tin mừng hiểu được mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu và đến với đức tin. Bài học dành cho độc giả là tình yêu dành cho Chúa Giêsu giúp người ta có cái nhìn sâu sắc để phát hiện ra sự hiện diện của Ngài. Người Môn Đệ Được Yêu Dấu, ở đây cũng như ở những nơi khác, môn đệ lý tưởng của Chúa Giêsu, nêu gương cho tất cả những người khác noi theo. [6] Là gương mẫu và là người hướng dẫn cho chúng ta về mầu nhiệm Phục sinh, người môn đệ được yêu mến này mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng và vui mừng với ông trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta khi nhập thể, chịu đóng đinh, chết và phục sinh.

[1] The Great Church Year, Crossroad Pub. Co., New York: 1994.

[2] Karl Rahner, The Content of Faith, Crossroad Pub. Co., New York: 1992.

[3] Họ Đang Nói Gì Về Sự Phục Sinh?, Paulist Press, New York: 1978.

[4] Gerald O'Collins, op. cit.

[5] Wilfrid Harrigton, The Saving Word, Michael Glazier Co., Wilmington: 1980.

[6] Raymond E. Brown, op. cit., Vol. II, #29A.

 

Phêrô Phạm Văn Trung lược dịch,

từ Patricia Datchuck Sánchez, http://www.nationalcatholicreporter.org

 

 

NGÀY CHÚA ĐÃ LÀM RA - CN Phuc Sinh A

“Đây là ngày Chúa đã làm ra. Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra!’”, Thánh Vịnh đáp ca Chúa Nhật Phục Sinh nói về ngày sống lại của Đức Kitô như thế. Chúng ta vui mừng hoan hỷ vì Ngài đã ôm tội lỗi của cả nhân loại vào trong huyệt mộ, chôn lấy nó; và Ngài không còn ở đó, vì đã chỗi dậy để khởi đầu một sự sống mới.

Nhiều nơi trên thế giới, lễ Phục Sinh đến vào mùa xuân. Đây là thời điểm mà thiên nhiên, tự nó, mang đến sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Những bông hoa tulips bắt đầu vươn lên khỏi mặt đất im lìm giá lạnh, những chiếc lá nhú trên cành sắp biến khu rừng thành biển xanh; mặt trời toả chiếu rạng ngời, mang theo hơi ấm cho mọi loài. Muôn vật tự nó phản ánh vẻ huy hoàng sự Phục Sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, vào một thời điểm, khi sự ấm áp của vầng hồng toả rạng, một lần nữa, thiên nhiên được gọi từ cái chết của mùa đông bước sang sự sống hừng hực của mùa xuân.

Thiên Chúa nói theo nhiều cách, chu kỳ của thiên nhiên là một trong những cách thức dễ thấy nhất. Vậy nếu Cha Trên Trời nâng niu chăm bẵm từng tạo vật nhỏ bé đến thế, thì Ngài quan tâm đến việc tái tạo loài người đến thế nào? Quan tâm đến sự phục sinh của Con Chí Ái của Ngài nữa? Và nhất là, Ngài quan tâm đến việc những con trai, con gái của Ngài bước vào một cuộc sống mới giành được cho từng người nhờ sự Phục Sinh của con Ngài! Hãy để vẻ đẹp của tạo vật trở nên dấu chỉ cho bạn về ‘một thực tại vĩ đại hơn vô hạn!’. Hãy cho phép bản thân được cuốn hút vào những mới mẻ trong sự Phục Sinh của Chúa Kitô. Vươn lên có nghĩa là trở nên một tạo vật mới trong Ngài!

Hãy gẫm suy những lời tuyệt diệu này, “Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, ‘ngày’ vui mừng trong cuộc sống mới Thiên Chúa ban cho mỗi người. Nó ‘ở đây, lúc này!’. Đó là ‘ngày’ mà bạn và tôi được biến đổi bởi một con người, Giêsu, Đấng Phục Sinh. Cuộc sống mới phải bắt đầu ngay giờ này và phải liên tục trở nên mới mẻ, rạng ngời, khi chúng ta đi sâu hơn vào vinh quang của Đấng Phục Sinh.

“Đây là ngày Chúa đã làm ra!”; “Chúa đã sống lại!”, không phải là một công thức ma thuật làm tan biến các vấn đề. Không! Sự Phục Sinh của Chúa Kitô không làm điều này; thay vào đó, là sự chiến thắng của tình yêu đối với cội rễ của điều ác, một chiến thắng không ‘bỏ qua’ đau khổ và cái chết, nhưng ‘vượt qua’ chúng, ‘đứng trên’ chúng, ‘mở ra một con đường’ trong vực thẳm; biến sự ác thành điều thiện, và đây là dấu ấn độc đáo cho thấy quyền năng đích thực của Thiên Chúa.

Trước một thị trấn, tướng Massena bất ngờ xuất hiện với 18.000 quân. Hội đồng bô lão họp, “Đầu hàng là câu trả lời duy nhất!”. Thế nhưng, một cựu quan chức nói, “Hôm nay là lễ Phục Sinh, hãy mừng lễ và cứ để mọi rắc rối cho Chúa, Chúa có cách của Chúa!”. Họ cử người đến nhà thờ, xin cha xứ rung chuông báo lễ. Nghe tiếng chuông nhà thờ, Napoléon suy luận, quân đội Áo đã đến giải vây; họ phá trại và biến mất trước khi chuông nhà thờ và Kinh Vinh Danh ngừng vang lên.

Anh Chị em,

“Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra!’”, ngày Chúa Giêsu tái tạo trời mới đất mới mà con người đã phá hỏng; ngày Ngài tái giao hoà ‘người với Chúa’, ‘người với người’ mà tội lỗi đã cắt đứt. Đúng thế, nơi sự Phục Sinh, Chúa Cha đã bắt đầu một cuộc sáng tạo mới. Nhưng không phải chỉ hôm nay mà mọi ngày là ‘ngày Chúa đã làm ra’. Hãy để cho mình tưng bừng hỷ hoan và tha nhân được tưng bừng hoan hỷ! Muốn thế, “hãy giao mọi rắc rối vào tay Chúa, Chúa có cách của Chúa”, và thôi làm điều ác, hãy gieo điều thiện. Hãy là con cái của Đấng Phục Sinh; bớt tìm “những sự thuộc hạ giới và không ngừng tìm kiếm những gì thuộc thượng giới” như thư Côlôssê hôm nay mời gọi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết sống từng ngày với ‘tư chất’ của một người con đã được cứu chuộc: tưng bừng hỷ hoan; nhờ đó, anh chị em con được hưởng nhờ, và họ cũng tưng bừng hoan hỷ!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

ĐỨC GIÊ-SU PHẢI TRỖI DẬY TỪ CÕI CHẾT

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CN PHỤC SINH ABC

Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

 

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG : Ga 20,1-9

(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. bà nói : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh,  Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

2.Ý CHÍNH :

Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng  Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.

3.CHÚ THÍCH :

– C 1 : + Ngày Thứ Nhất trong tuần : Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối : Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau : Ở đây Gio-an viết : “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết : “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô : “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết : “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la : Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. Lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).

– C 2 : + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô : Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến : Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết : Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mộ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).

-C 3-4 : + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ : Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước : Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.

– C 5-6 : + Băng vải còn ở đó : Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào : Gio-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ : Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mộ.

– C 7-9 : + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi : Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã có thể tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin : Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết : Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước  ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).

4.CÂU HỎI :

1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra mộ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mộ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1.LỜI CHÚA : Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).

2.CÂU CHUYỆN :

1) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH :

Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng : “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp : “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp : “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời : “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói : “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?”  Chúa đáp : “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.

2) ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY :

Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục sinh tại một trại tù như sau:

Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên những con người độc ác. Họ cư xử với nhau bằng luật rừng « Mạnh được yếu thua », trộm cắp, nghi ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai tù.

Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình thành một nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Ki-tô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vả, đã từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đã từng bị môn đệ phản bội và đã từng bị bọn lính Rô-ma đánh đòn... Từ đó, tất cả những lời Đức Giê-su nói và những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với các tù nhân. Họ không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau bằng tình thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.

Từ đó, trong trại tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui tươi thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Nói cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trộm cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì tìm cách chỉ điểm làm hại lẫn nhau.

3) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT :

Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giê-ru-sa-lem.

Ngọn đồi Gôn-gô-tha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gio-an, xác của Chúa Giê-su được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố : “Tôi đã tìm được xác ông Giê-su”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.

Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng : “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời : “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.

Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giê-su :

Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.

Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.

Chuông các thánh đường im tiếng.

Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.

Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.

Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.

Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận : “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giê-ru-sa-lem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh : Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.

3. SUY NIỆM :

Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau :

1) CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA :

Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mộ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như chính lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lòng mến đó lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mộ mà than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ vụ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ như sau : “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng : Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

2) CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH :

Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy như các môn đệ khác, nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn 0và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8).

3) CHÍNH LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC TRAO QUYỀN CHĂN CHIÊN :

Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng,  Đức Giê-su thường đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vào Đức Giê-su vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được  trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn bị trách khi quá tự tin vào sức riêng của mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã tỏ ra hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75).

Nhưng bù lại Phê-rô đã có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông can đảm rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi chúng đến bắt Thầy (x Ga 18,10). Ông không chạy trốn như các ông khác mà đi theo Gio-an theo dõi diễn tiến tòa án xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ trộm lấy xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo Người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao cho sứ vụ chăn dắt chiên con chiên mẹ và chăn dắt cả đàn chiên là Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).

4) THỰC HÀNH ĐỨC TIN VÀ ĐỨC MẾN HÔM NAY :

Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ vụ loan Tin Mừng cho các tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước anh em và thấy được ý nghĩa của những sự kiện dẫn đến mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Lòng mến  cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã sớm hồi tâm sám hối trở về và được Thầy tín nhiệm đặt làm Đá Tảng đức tin, có nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x Lc 22,32), và còn được Chúa Phục Sinh trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh.

Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại trên đường đời. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất của mình không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt đau thương như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Ki-tô sẽ được Hội Thánh loan báo đi khắp thế gian như lệnh Người truyền trước khi lên trời (x Mt 28,19).

4.THẢO LUẬN :

Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm tín thác vào Chúa, hy vọng Người sẽ kíp thời giải cứu và giúp bạn mau trỗi dậy ?

5.LỜI CẦU :

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh : chúng con sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt… vì xác tín rằng : “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.- AMEN.

LM ĐAN VINH –  HHTM

CÙNG MẸ, MỘT NGÀY LẶNG YÊN - Thứ Bảy Tuần Thánh

“Ngài không có ở đây!”.

Tại các Giáo Phận, phần lớn giáo dân các họ đạo truyền thống có thói quen ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu vào Mùa Chay. Riêng Tổng Giáo Phận Huế, kinh nguyện quý báu này được ngắm vào Tuần Thánh; đặc biệt, sáng thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy. Nó được gọi là Kinh Lễ Đèn, vì có đến 15 ngọn nến hoặc đèn, được đốt lên trên cùng một giá. Cách thức đọc Kinh Lễ Đèn được hướng dẫn đến từng chi tiết; cách chung, ngắm một chặng, tắt một ngọn nến, đọc 1 kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, ở Lễ Đèn 3, tức sáng thứ Bảy, ngọn nến 15 sẽ không được tắt! Thật thú vị, nó được đem vào phòng thánh một chốc, đang khi cộng đoàn quỳ gối ngắm “Thánh Mẫu Thống Khổ Kinh”. Sau đó, ngọn nến này được đem trở lại, đặt trên bàn thờ; ngọn nến đó tượng trưng cho Chúa Giêsu! Ngài đã chết, nhưng thực ra, cái chết của Ngài chỉ như một sự nghỉ ngơi trong mồ. Vì thế, thứ Bảy Tuần Thánh được coi như ngày mà Kitô hữu ‘cùng Mẹ, một ngày lặng yên’ đợi ngày Con Chúa phục sinh!

Kính thưa Anh Chị em,

Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội không có một nghi lễ nào, mãi cho đến buổi cử hành long trọng Đêm Vọng Phục Sinh. Hôm nay, Giáo Hội trầm tư suy gẫm chậm rãi với Đức Maria, Mẹ mình. Nắm lấy tay Mẹ, mỗi tín hữu tìm đến một ‘nơi vắng vẻ’, chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu; và nhất là, ‘cùng Mẹ, một ngày lặng yên’ để trải nghiệm các mầu nhiệm!

Phụng vụ của những ngày qua đầy cảm xúc với nhiều nghi lễ; thế nhưng, thứ Bảy Tuần Thánh lại trôi qua một cách lặng lẽ, thanh thản. Đó là một ngày để tận hưởng tất cả những tình cảm đan xen giữa trầm buồn lẫn hy vọng! Đừng để thứ Bảy Tuần Thánh trôi qua như bao ngày khác, hay chỉ là một ngày giữa thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh. Đó là một ngày mà tất cả chúng ta cùng Mẹ Maria và Mẹ Hội Thánh nữa, tĩnh lặng, chiêm ngắm và tôn thờ.

Chỉ trong sự suy gẫm thầm lặng này, các tông đồ, và cả chúng ta mới có thể nhìn thấy mọi sự đã xảy ra phù hợp và trùng khít với nhau thế nào. Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ những gì sẽ xảy ra với Ngài, kể cả sự phục sinh; Ngài đã nói với họ, nhưng tâm trí họ chưa chuẩn bị đủ để hiểu. Chỉ trong sự im ắng của ngày thứ Bảy, và nhờ có một ngày lặng yên với Mẹ Chúa Giêsu, họ mới có thể hiểu được những gì Thầy đã nói. Cũng thế, với chúng ta; cùng Mẹ Maria, chúng ta ghi nhớ những lời của Chúa Giêsu. Nhiều lần, chúng ta nghĩ, chúng ta biết Ngài là ai, dạy chúng ta điều gì, nhưng thực ra, những điều đó chưa đi vào trái tim chúng ta; bằng chứng là cuộc sống của bạn và tôi chưa biến đổi! Phải lắng nghe, cẩn thận suy gẫm những gì Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng, chúng ta mới hiểu được sâu sắc để áp dụng vào cuộc sống mình!

Anh Chị em,

“Ngài không có ở đây!”. Sự im lặng của ngày hôm nay không phải là một sự im lặng của thoái chí và tuyệt vọng, nhưng là ‘im lặng thánh’, một sự im lặng của niềm mong đợi lớn lao sẵn sàng bùng lên trong niềm vui ngập tràn của Đêm Vọng Phục Sinh. Chúng ta sẽ ‘đến mộ’ Chúa cùng với các thánh nữ, không phải để xức dầu cho một xác chết, nhưng để vui mừng với các thiên thần khi nghe họ tuyên bố, “Ngài không có ở đây. Ngài đã sống lại!”; “Tại sao các bà lại tìm người sống nơi những kẻ chết?”. Và như thế, nhờ có một ngày lặng yên với Mẹ, chúng ta mới có thể vui mừng nói cùng Mẹ, “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, hãy vui mừng, Halleluia!”, và với Mẹ, chúng ta hát khúc khải hoàn ca, “Chúa Đã Sống Lại, Halleluia!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, xin dạy con biết chờ đợi Chúa như Mẹ. Không chỉ hôm nay, nhưng mỗi ngày, từng ngày, và ‘một đời với Mẹ’, con chờ đợi Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Subcategories