6. Văn Hóa & Gia Đình

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - VIỆT NAM-QUÊ- HƯƠNG-TÌM LẠI

 

  • MƠ NGUYỄN

     

     PHIM : 💥 VIỆT NAM 🌺 QUÊ HƯƠNG🌸TÌM LẠI

    - Mời Quý Bạn xem một Bộ VIDEO gồm 41 Tập,  ký sự bằng Hình ảnh của Huy Hà Media thực hiện công phu , hành trình thăm lại khắp miền Đất Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta :

     

       

    💥 VIỆT NAM 🌺 QUÊ HƯƠNG🌸TÌM LẠI

     
     


     
     

 

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - DẠY TRẺ EM BIẾT THA THỨ

  •  
    Chi Tran -LEYEN chuyển

    HÃY DẠY TRẺ EM BIẾT THA THỨ
     
    Giuse Brosio là một thiếu niên rất yêu mến Don Bosco. Một Chúa Nhật nọ, cậu nhận thấy Don Bosco không có trong sân chơi. Lạ thật! Cậu liền đi tìm ngài ở khắp mọi ngóc ngách trong nhà.
    Tìm đi, tìm lại nhiều lần, sau cùng cậu tìm thấy ngài ở trong một căn phòng; ngài đang buồn, buồn đến phát khóc. Cậu mau mắn hỏi ngài:
    - Thưa cha, có chuyện gì xảy ra vậy ?
    Don Bosco im lặng, chìm ngập trong đau khổ. Cậu lại hỏi tiếp, bởi muốn biết vì đâu mà ngài phải đau khổ dữ dằn như vậy. Sau cùng, Don Bosco đã nói:
    - Một trong các học sinh đã lăng mạ và sỉ nhục cha. Phần cha, cha không chấp nhất điều ấy. Nhưng điều tệ hại là em đang đi trên con đường xấu và ai biết rồi em sẽ kết thúc như thế nào.
    Brosio cảm thấy bị xúc phạm. Cậu vung tay với vẻ tức giận và đoan chắc với Don Bosco là cậu sẽ tìm cách trả thù cho ngài. Don Bosco chăm chú nhìn cậu và nói:
    - Con muốn trả thù cho cha, phải không ? Con có lý; nhưng với một điều kiện: chúng ta sẽ cùng nhau trả thù. Thế nào, con có chịu không ?
    - Thưa cha, chịu.
    - Vậy, con đi với cha.
    Ngài liền dẫn cậu tới nhà thờ để cầu nguyện cho đứa học sinh hỗn láo đã xúc phạm tới ngài.
    Sau này Brosio nhớ lại:
    - "Tôi tin chắc Don Bosco đã cầu nguyện cho cả tôi nữa, vì trong lúc đó tôi cảm thấy mình trở nên một người khác, tôi đã thật sự thay đổi. Sự tức giận đối với học sinh ấy đã chuyển thành sự tha thứ".
    Don Bosco thường khuyên như sau:
    - "Các con hãy nhớ rằng tha thứ có nghĩa là quên đi mãi mãi. Nếu các con muốn nhận được nhiều, nơi học sinh của các con, các con đừng bao giờ tỏ ra giận dỗi đối với bất cứ em nào. Hãy luôn tha thứ".
    Có một cái gì linh thiêng và huyền diệu trong sự tha thứ, vì tha thứ có thể giải hòa điều mà người ta cho là tuyệt đối không thể giải hòa được.
    Muốn biết tha thứ, trước hết cần phải cầu nguyện. Không có cầu nguyện, người ta sẽ luôn cay đắng nhớ tới những xúc phạm người khác đã gây ra. Sự cầu nguyện sẽ rút hết nọc độc còn sót lại trong tư tưởng. Cha mẹ và nhà giáo phải dạy cho trẻ em bí quyết này.
    Một nhà giáo dục đã viết: "Bạn muốn trả thù ư ? Hãy cầu nguyện cho người đã xúc phạm tới bạn. Chỉ cần đọc một kinh Kính mừng. Nó giống như nhỏ một ít dầu vào nước sôi của cơn nóng giận. Mọi sự sẽ êm dịu ngay".
    #_Thiên_Chúa_Ba_Ngôi
     

    Log in or sign up to view

    See posts, photos and more on Facebook.

     
     
     
     

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - NHÂN ĐỨC THA THỨ

  •  
    Chi Tran -LEYEN

     
     
     
     


     
    NHÂN ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH: THA THỨ
     
    “Với những người phạm lỗi vì không biết, hãy sửa dạy và giúp họ sám hối vì Đức Chúa là Đấng tha thứ và giàu lòng thương xót”
    AL-QUR’AN 16:19
     
    1/ Tha thứ là gì?
    Mọi người đều có lầm lỗi. Tha thứ là cách bỏ qua lỗi lầm của người khác và yêu thương họ như trước khi họ phạm lỗi. Sự tha thứ không có nghĩa là bạn không hề cảm thấy bị tổn thương, hoặc coi những chọn lựa sai lầm của người khác là đúng đắn. Nhưng tha thứ là tự cõi lòng, bạn cho người khác một cơ hội.
    Mặc dù người khác sai trái, hoặc họ thực sự làm bạn bị tổn thương nhưng bạn có thể bỏ qua những gì họ đã làm. Bạn cũng không cứ vào lầm lỗi mà xét xử họ. Tha thứ là không trừng phạt người mắc lỗi cho dù họ đáng phải chịu như vậy.
    Bạn cũng có thể tha thứ cho chính mình; nhất là những khi bạn làm những việc nuối tiếc và ước rằng mình đã không làm. Tha thứ cho chính mình là không trừng phạt bản thân, và không tuyệt vọng vì sự sai lầm. Bạn bước tiếp, sẵn sàng làm khác đi với lòng thương cảm cho chính mình và tin rằng bản thân có thể thay đổi.
    2/ Tại sao cần thực hành tha thứ?
    Đấng Tạo Hóa ban cho chúng ta có khả năng tự do để chọn lựa. Có tự do nghĩa là chúng ta có khả năng thực hiện điều tốt hay xấu. Với nhiều và rất nhiều lý do, nhiều khi chúng ta chọn làm những việc sai trái và gây tổn thương người khác. Mọi người có thể một hoặc nhiều lần trong đời đã làm như vậy. Đôi khi nó có thể là việc nhỏ như bạn không thực hiện điều đã hứa; đôi khi là những sự việc lớn hơn như nói dối hay trộm vặt. Khi một người bị tổn thương hay thất vọng tha thứ cho ta, ta có một cơ hội mới. Chúng ta có thể bắt đầu lại và làm điều đúng đắn.
    Sự tha thứ rất quan trọng. Nếu bạn làm điều gì đó đáng hổ thẹn, nhưng bạn tha thứ cho chính mình, thì bạn có thể học được từ chính lỗi lầm đó. Những ai không tha thứ cho mình thì cũng khó tha thứ cho người khác.
    Nếu ai đó không biết tha thứ thì người xung quanh cảm thấy lo lắng khi ở bên họ. Những người không thực hành sự tha thứ, thường xét đoán và chỉ trích người khác; đồng thời, ít cho người khác cơ hội để cải thiện.
    Tha thứ là cách tốt nhất để động viên bản thân và người khác trở nên tốt hơn, cố gắng hơn và có những thay đổi cần thiết.
    3/ Cách thực hành sự tha thứ
    Trước hết, bạn có thể thực hành sự tha thứ bằng cách thừa nhận lỗi lầm của mình hay người khác đã gây ra. Đối diện với sự thật về những gì xảy ra cho chúng ta sự can đảm. Bạn có thể cảm thấy buồn và tức giận. Hãy để những cảm xúc đó đến và để chúng đi như chiếc lá trôi trên dòng nước.
    Khi bạn tha thứ, bạn không trừng phạt người khác bằng cách trả thù hay mang ác cảm. Bạn cũng không trừng phạt mình bằng cách gán cho mình cái tên không tốt.
    Hãy xem xét những gì xảy ra, trân trọng cảm xúc của bạn, hãy suy nghĩ, và quyết định điều gì cần thay đổi để sửa lại. Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta khi chúng ta nhìn nhận lỗi lầm. Bạn cũng có thể làm như vậy.
    Điều khó tha thứ nhất trong bạn là điều sai trái lặp đi lặp lại. Đó là thói quen bạn khó có kiểm soát được. Khi bạn biết thực sự tha thứ cho mình thì mọi sự sẽ suôn sẻ. Hãy thay thói quen cũ bằng những cách thức mới để tha thứ cho chính mình. Nếu ai đó liên tục gây ra cho bạn điều phiền toái mà không xin lỗi thì sự tha thứ sẽ giúp cho họ. Bạn cũng cần tránh những dịp để họ có thể gây tổn thương cho bản thân.
    Khi phạm một sai lầm, bạn xin Thiên Chúa chúc lành và ban cho bạn sự can đảm để thay đổi. Tha thứ cho phép bạn học được từ chính sai lầm. Đôi khi bạn là người thầy tốt nhất cho chính mình.
    Một người có lòng tha thứ phản ứng thế nào?
    Một người bạn tình cờ làm vỡ món đồ mà bạn thích?
    Người khác trễ hẹn?
    Bạn làm điều bạn cảm thấy nuối tiếc?
    Bạn của bạn lấy đồ mà chưa hỏi ý kiến bạn?
    Người khác nổi nóng, và xin lỗi muộn màng?
    4/ Dấu hiệu của sự thành công
    Chúc mừng bạn! Bạn đang thực hành sự tha thứ khi:
    Ý thức rằng mọi người đều có lỗi
    Nhận trách nhiệm về lầm lỗi của mình
    Chia sẻ cảm xúc mà không trả thù
    Không tạo cơ hội cho người bất cẩn làm tổn thương bạn
    Sửa sai thay vì trừng phạt bản thân
    Đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa
    Hãy cố gắng khi
    Sợ nhìn nhận lỗi lầm của mình
    Xét đoán và chỉ trích người khác hay chính mình
    Trả thù hay giữ ác cảm
    Tạo dịp cho người bất cẩn làm tổn thương bạn
    Cảm thấy tuyệt vọng và bất lực trước thói quen xấu
    Cứ phạm cùng một sai lầm mà không chịu học hỏi
    Khẳng định:
    Tôi tha thứ cho chính mình và cho người khác. Tôi học được từ chính sai lầm của tôi. Tôi có thể thay đổi để sự việc tốt hơn.
    Nguyên bản: The Family Virtues Guide: Simple Ways to Bring Out the Best in Our Children and Ourselves
    Tác giả: Linda Kavelin Popov
    Dịch giả: Hướng Dương
     
     
     

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - BUỔI CHIỀU TRÊN NGHĨA TRANG

  •  
    Hoc Pham
     
    -  Chiều " thu phân " -
    Buổi chiều trên nghĩa trang  ( Trương Văn Dân )
     (  bởi xunauvn )
    Chiều  hôm đó  vợ chồng tôi lên nghĩa trang thăm mẹ. Lúc này là đầu tháng mười một, ngày tử vong nhân. Gió lạnh thổi  trên các cánh đồng, rít lên trên mấy hàng cây lá cành trơ trụi. Những đám mây cuồn cuộn trôi lững thững  trên bầu trời thấp và âm u. Không gian phủ một màu xám, mặt trời le lói, chiếu sáng mù mờ nên trông  như ánh trăng khuya. Chúng tôi bước đi  trên con đường nhỏ, trống trải và cái  rét nhè nhẹ len lỏi qua lớp áo choàng không dày lắm.
    Trời lúc này đã vào thu, không gian bàng bạc mơ hồ đã khiến tôi liên tưởng đến câu thơ cổ : “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu ”  (một lá ngô đồng rụng, thiên hạ biết mùa thu ) rồi chợt nhớ lần đầu  nhìn thấy cây ngô đồng trên đất thần kinh mà các vua lệnh trồng để phượng hoàng về đậu trong vườn thượng uyển. Ở đây, trên đất  Italia không có ngô đồng, nhưng  mọi người vẫn biết mùa thu đang tới vì những lá phong ven đường đã nhuốm  vàng và bắt đầu ửng đỏ.
    Vợ tôi mang theo bó hoa. Đến nơi, nàng không quên cắm vào bình và đặt viên chocolat, loại sinh thời bà rất thích, dưới chân chiếc lục bình. Tôi nhìn nụ cười phúc hậu của mẹ nàng trong ảnh. Người đàn bà tóc vàng, đôi mắt mở to sau đôi kính, như muốn nhắn gửi một điều gì cho con cháu. Trên vai bà có quàng một chiếc  khăn lụa trắng, lấm tấm những đoá hoa vàng trên nền  xanh da trời. Tấm ảnh ấy chúng tôi chụp trong mùa Giáng sinh năm nào  ở nhà bà. Mới đó, quây quần bên nhau ăn uống,  mà giờ đã ba năm.
    Mấy tháng trước đến đây, những hộc tro bên  chỗ nằm  muôn đời của mẹ hãy còn trống, mà bây giờ đã khép kín, gần đầy. Bên cạnh mẹ lại vừa có thêm di ảnh của một người Á châu, xác chắc mới được hỏa thiêu và vừa mang đến. Tôi ngắm khuôn mặt chưa già lắm của anh, chỉ chừng bốn mươi ngoài rồi lòng thầm hỏi:  Nếu đời là cát bụi, thì cát bụi ấy ĐẾN từ đâu mà lại TỤ ở nơi đây. Trên đất khách quê người?
    Từ mộ mẹ đi ra, tôi hay thả bộ, lững thững trên các con đường nhỏ  xung quanh nghĩa trang. Đó đây trên những tấm bia có những hàng chữ thường làm tôi chú ý: Chẳng hạn , bên cạnh  ngôi mộ của một cụ già  có lời  cầu nguyện  cho người ra đi  mãi mãi ngủ yên, bình an trong vòng tay nhân ái của Chúa: “Requiem Aeternam”, “Nơi an nghỉ  muôn đời”. Hoặc có khi  là một lời xót thương, tiếc nuối của người vợ  trẻ: “Yêu anh dễ, quên anh không thể “ (Amarti  è facile, dimenticarti è impossibile); hoặc một lời xác nhận: “Không ai có thể chết khi vẫn còn hiện diện trong tim người sống “.
    Phần đông những lời khắc trên bia là  những tiếc thương, nuối tiếc. Nhưng không phải trên tấm bia nào cũng chỉ có lời than thở, vì đôi khi cũng có những ý tưởng rất khác, thí dụ trên tấm bia chung, chắc của các con lập cho mẹ, mất  năm 1979, và cha, mất năm  2001, có ghi: “Trong niềm vui  ba má đã gặp  lại nhau, chúng con xin biến nỗi đau thành lời cầu chúc “ ( nella contentezza che vi siete ritrovati, il nostro dolore si trasformano in gioia )… vài hàng ngắn ngủi nhưng nó nói lên tất cả nỗi buồn  và quạnh quẽ của người cha, sống cô độc  hơn hai mươi năm, kể  từ khi mất vợ.
    Lang thang đây đó, nhưng rất nhiều lần trước khi về hẳn, tôi thường dừng lại bên một ngôi mộ thật lớn, nơi có bức tượng đồng một  nữ thiên thần đứng trên  chân phải, nửa người gập về phía trước, còn chân trái đưa cao, duỗi  thẳng ra sau  cùng với hai cánh tay giang rộng, vươn lên cao, chênh chếch về sau  thành hình đôi cánh mở tung, trong tư thế  sắp sửa  bay lên. Lần nào qua đây tôi cũng thấy rất nhiều hoa, loại đắt tiền. Người quản nghĩa trang có lần cho biết là gia  đình này mỗi ngày đều thay các bó hoa tươi, toàn những thứ hiếm và đẹp đã khiến tôi nghĩ ngợi rất nhiều về gia đình quý tộc này. Người thân của họ đã  không còn nữa mà họ vẫn còn  tiếp tục sống bằng kỷ niệm. Trong đó có những giây phút không quên của quá khứ,  mà những bó hoa kia không gì khác hơn là sự ngưng đọng  của các nỗi đau đớn triền miên. Kéo dài từ lúc người thân mất, đến hôm nay cho đến mãi mãi về sau.
    Trên nấm mộ sang trọng đó có tấm di ảnh một người thanh niên làm bằng đá mài, màu sắc linh động, nhất là đôi mắt mở to, miệng mỉm cười hướng về phía người đối diện. Cạnh đó có một tấm bảng bằng đồng khắc ghi hàng chữ: “  Xin đừng khóc. Con sẽ tiếp tục và mãi  mãi yêu thương ba má từ thế giới bên kia! Tình yêu là linh hồn, mà linh hồn thì bất tử“. Ai đã thốt lên điều đó? Chắc không phải của những người  lập mộ, vì có lẽ đó  là những lời cuối cùng của người trong ảnh, khi bàn chân đã bắt đầu giá lạnh mà  trái tim  hãy còn  hâm hấp nóng, thì thào để  an ủi những người thân đang nước mắt lưng tròng. Ngay lúc anh ý thức rằng  đời sống của mình sắp sửa lụy tàn.
    Tôi nghĩ là chính anh đã nói thế, vì có lẽ cho đến lúc ấy anh đã không sợ chết, có khi còn xem cái chết  là một phần của đời sống, điều tất nhiên phải đến trong cuộc đời, và  ý nghĩ đó đã khiến anh bình thản, sẵn sàng đối diện, để không phải quay đi mà không dám ngoái đầu nhìn lại. Nói chung là anh biết chấp nhận chân lý của cuộc tử, sinh. Dù, ai lại không muốn sống một đời sống đẹp, dài lâu, có ý nghĩa, hữu ích cho đời, nhưng chắc là lúc ấy, khi đau đớn đang hoành hành trên  thân thể rã rời, trên xác thân sắp bắt đầu băng hoại, anh đã thấy là không còn gì để  tha thiết nữa. Chắc chắn anh đã nhìn cái chết của chính mình như một giải thoát, mà vướng bận cuối cùng chắc chỉ còn cho  những người thân còn ở lại. “ Tôi sẽ tiếp tục yêu thương các người từ thế giới bên kia! Tình yêu là linh hồn, mà linh hồn thì bất tử”. Lời xác nhận ấy thường làm  tôi  liên tưởng đến những người đã chết mà linh hồn như còn vảng vất đâu đây, quanh quẩn như còn muốn lưu lại trần thế, để phù hộ cho những người ruột thịt. Rồi cảm thấy mến anh, dù chưa hề quen biết .
    Chưa quen biết nhưng tôi vẫn cầu mong  là lúc về nước Chúa  lòng anh được bình an. Tôi hy vọng như thế. Bởi đứng trước cuộc chia ly, dù cứng rắn và ý thức đến đâu, nào ai tránh được nỗi buồn?  Lòng kẻ ra đi và người ở lại làm sao thoát khỏi đớn đau, quặn thắt? Vì, trong kiếp người, nếu quả là  mỗi người đều mang một mệnh số, có một đời sống và mộng ước khác nhau, nhưng trong suốt cuộc nhân sinh dường như ai ai cũng đều phải chịu những đau đớn triền miên. Kể từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi lìa bỏ cõi trần. Bởi  thân xác con người tuy bé nhỏ nhưng luôn phải gánh chịu những nỗi đau rất lớn. Thành ra xưa nay, đã có mấy ai ra đi vĩnh viễn mà lòng được  thanh thản nhẹ nhàng?
    Từ nghĩa trang ra về, lòng  tôi cứ mãi bâng khuâng.  Vợ tôi vẫn chìm trong yên lặng, có lẽ nàng đang nhớ lại những kỉ niệm êm đẹp với mẹ mình. Tôn trọng phút giây thiêng liêng ấy  tôi cũng trầm ngâm suy nghĩ, chẳng buồn gợi chuyện....
    ..........
         Trương Văn Dân (  Milano - một này đầu tháng 11 )
    Inline image
    Inline image



     

VĂN HÓA VÀ GIA ĐÌNH - HUY NGUYỄN - SUY TƯ

  •  
    Huy Nguyen -16/10/2022
     

    Hịch Cần Vương do vua Hàm Nghi xuống chiếu năm 1885 gồm 469 chữ Hán. Trong đó không có một chữ nào đả động đến người Công Giáo hoặc đổ thừa cho người Công Giáo là nguyên nhân của sự chiếm đất của người Pháp.

    Thay vào đó, nhà vua lại dùng các điển tích về các vua ở bên Trung Hoa để nói về tình trạng của mình. Một thông cáo bằng tiếng Hán cộng thêm việc dùng điển tích, chắc chắn người thường dân không đọc hoặc hiểu lời kêu gọi của vua. Vì vậy người thường dân chịu nhiều ảnh hưởng của những người có học, biết đọc và dễ bị họ lôi cuốn. Trái lại với sự thụ động của các quan lại trước sự hiện diện của người Pháp, giới văn sĩ đã sách động dân chúng để nổi lên chống ngoại xâm. Phong Trào Văn Thân khởi sự từ năm 1864 do những người có học thức khởi xướng. “Văn” để chỉ  những người học trò. “Thân” là dải thắt lưng bằng lụa của các viên quan chức nhỏ. Họ lấy khẩu hiệu “Bình Tây Sát Tả” để làm mục tiêu.  Nhưng xấu hổ thay, thay vì đi tấn công đồn Pháp thì họ chỉ dám đi đốt phá các làng Công Giáo. Để cho có sự hổ trợ của người dân, họ đã vu khống, phao tin đồn thất thiệt về người Công Giáo để có cớ tàn sát, hủy diệt cơ sở, làng xóm và dồn người Công Giáo vào tư thế tự vệ. Rốt cuộc những điều này không làm tổn hại gì đến cho người Pháp trong việc “Bình Tây"  mà chỉ gây ra cảnh anh em chém giết lẫn nhau. Việc bác hại người Công Giáo không phải là trách nhiệm của riêng một người lãnh đạo như vua Cảnh Thịnh, Minh Mạng, hoặc Tự Đức mà là của một tập thể xã hội nói chung. Đây không phải là một cuộc bắt bớ vì tôn giáo hoặc chính trị nhưng là một cuộc tàn sát tập thể (wholesale massacre) chỉ vì giận cá, chém thớt.  Như vậy xã hội Việt Nam mang nợ người Công Giáo một điều xin lỗi. Trong lịch sử, khi có một cuộc thảm sát nào, dù chỉ vài ngàn người như 9/11 ở Mỹ hoặc hơn một triệu người ở Kampuchia, người ta đều xây những đài tưởng niệm để cho thế giới không quên được những tội ác và để hàn gắn những vết thương. Nước Đức và nước Nhật đã chính thức xin lỗi những nạn nhân chiến tranh trong Thế Chiến Thứ Hai. Đã có nhiều bài viết về việc người Cộng Sản không tôn trọng người lính Cộng Hòa sau cuộc chiến khác với việc người Mỹ đã làm sau cuộc Nội Chiến của họ. Một dân tộc mà không biết hối hận hoặc nhận lỗi của mình thì sẽ tiếp tục để cho tội ác xảy. Chúng ta cần nhìn nhận lỗi lầm của tiền nhân và dạy lại cho con cháu để cho xã hội Việt Nam tránh tiếp tục rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn. 

     

    Các nhà truyền giáo Pháp đã đóng một vai trò gì trong cuộc bách đạo của người Công Giáo? Lần trước tôi đã nói rằng họ khuyến khích người giáo dân giữ vững đức tin, sẵn sàng chịu tử đạo để lãnh nhận phần thưởng trên trời. Đây là một quyết định mà họ phải chọn lựa. Nếu không làm như vậy thì giáo hội tiên khởi vừa mới nhen nhúm sẽ bị dập tắt hoàn toàn. Vì vậy họ phải chấp nhận để cho máu đổ giống như Hội Thánh thủa ban đầu. Tuy nhiên chỉ chết để giữ vững đức tin không bảo toàn hội thánh. Bằng chứng là các nhà truyền giáo phải rời bỏ Nhật Bản trước sự cấm bách quá ngoặt nghẽo của các shogun để rồi hội thánh Nhật Bản không còn cơ hội sống sót.  Các nhà truyền giáo đã tìm ra được một giải pháp để cứu giáo dân của họ. Là những người chủ chăn, họ không thể khoang tay để tất cả các con chiên của họ bị giết hại. Tiền quyên được từ bên Pháp đã được các linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP) chuyển về Việt Nam để mua chuộc các quan lại để họ làm ngơ không giết hại người Công Giáo. Nhờ vậy mà giáo hội Việt Nam đã sống sót qua các cuộc bách đạo của triều đình không giống như ở bên Nhật Bản. Như vậy chúng ta phải hiểu rằng các nhà truyền giáo vừa là nguyên nhân của các cuộc bách hại vừa là cứu tinh cho người Công Giáo Việt Nam. Khi người Pháp ký Hợp Ước Giáp Thân năm 1884, các cuộc bắt đạo của triều đình tưởng như là chấm dứt khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn lãnh thổ Việt Nam, thì lại xảy ra những cuộc chém giết đẫm máu nhất trong lịch sử bởi vì nhóm Văn Thân. Lần này thì các giáo sĩ Pháp không giúp đỡ gì được cho giáo dân Việt Nam vì chính phủ của họ cố tình làm ngơ để cho người Việt xâu xé lẫn nhau và mang lại lợi thế  cho họ. Lịch sử có rất nhiều hậu quả mà không ai có thể ngờ được.

     

    Ở Châu Á có ba quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và đặc biệt là Khổng Giáo. Trong đó có Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Vì các nho sĩ ở các nước này cho rằng Kitô giáo phản ngược với truyền thống Khổng giáo nên đã tìm cách triệt để. Kết quả là đạo Công Giáo đã bị bách hại tàn khốc tại ba quốc gia này. Việt Nam có 117 vị thánh tử đạo, Hàn Quốc có 103 vị, và Nhật Bản có 42 vị thánh tử đạo và hơn 400 chân phước. Ở Hàn Quốc sau các cơn bách hại và giai đoạn tối tăm nhất vào năm 1866, tổng số giáo dân xuống chỉ còn hơn 20000 người Công Giáo. Tuy nhiên giáo hội Công Giáo đã hồi sinh tại Hàn Quốc và phát triển mạnh mẽ sau Thế Chiến Thứ Hai. Hiện tại, một phần ba dân số Hàn Quốc là theo đạo Kitô giáo. Người Hàn Quốc coi đạo Kitô như là tôn giáo của giới trung lưu. Một phần là sự có mặt của các cơ sở Kitô giáo trong các cơ quan giáo dục của Hàn Quốc. Thí dụ một số trường đại học nổi tiếng là do người Công Giáo điều hành. Giáo hội Việt Nam sau hơn một trăm năm sống dưới sự bảo hộ của người Pháp và được nhận nhiều ưu đãi từ chính quyền đã phát triển mạnh mẻ trở lại. Nhưng khi chuyển qua chế độ Cộng Sản thì đạo Công Giáo không có cơ hội phát triển tự do như trước. Hiện tại tỉ lệ người Công Giáo ở Việt Nam là 7 % dân số nên vẫn còn thua xa Hàn Quốc. Ngược lại, đạo Công Giáo ở Nhật Bản không có cơ hội tái sinh như ở Hàn Quốc và Việt Nam. Xứ Phù Tang nơi cha Gioan X. Lộ đang phục vụ hiện tại có khoảng 431000 giáo dân chia ra thành 16 địa phận nhưng có lẽ tất cả chỉ bằng con số của một tổng giáo phận của Việt Nam.

     

    Trước khi chúng ta so sánh lý do giáo hội Công Giáo Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ hơn Giáo Hội Việt Nam hoặc tin đồn Cộng Sản Việt Nam muốn biến Phật Giáo thành một quốc giáo. Chúng ta hãy thử so sánh giữa hai quốc gia có sự tương đương như một quốc giáo. Thái Lan có hơn 95% tỉ lệ là Phật giáo. Phi Luật Tân có gần 90% tỉ lệ là Kitô giáo. Giữa hai nước này, chúng ta có thể khẳng định là nước nào công bằng, ít tội ác hoặc tệ nạn xã hội không? Trong hai nước, có nước nào mà chúng ta có thể nói rằng quốc gia họ phồn thịnh nhờ quốc giáo không? Nếu như vậy, tại sao chúng ta cần phải tranh đua xem tôn giáo nào có nhiều ảnh hưởng ở trong xã hội? Qua sự so sánh giữa Thái Lan và Phi Luật Tân, chúng ta thấy rằng tôn giáo không thay đổi được xã hội, chỉ có chính trị, luật lệ và phong tục mới có thể đem lại tôn ti, trật tự trong xã hội giống như một xã hội Nhật, đây chính là điều mà Khổng Tử mơ ước.

    Vì vậy đạo của Khổng Tử không phải là một tôn giáo nhưng là một triết lý sống. Tuy không thay đổi được xã hội, nhưng chúng ta biết tôn giáo có thể thay đổi được con người. Do đó việc đầu tiên mà người Công giáo và Phật giáo nên làm là biến đổi con người mình trước rồi sau đó mới mong thay đổi được xã hội.

     
     
    (\__/)
    (='.'=)
    (")_(")
    阮俊