8. Đời Sống Tâm Linh

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - NGƯỜI CÓ PHÚC HẬU

  •  
    Kim Vu



    8 phẩm chất của một người có hậu phúc
     
     An Hòa
     
     
     
    Bất kể phúc báo nào cũng là có lý do, một người gặp phải điều gì cũng là có nhân quả trong đó. Đời người ngắn ngủi, làm thế nào để sống một cách “trí tuệ” nhất có lẽ là điều mà nhiều người suy ngẫm.  Dưới đây là 8 phẩm đức mà một người cần tu dưỡng để có một cuộc đời tươi đẹp, có hậu phúc.
     
    1. Nhẫn nhịn – “Nhẫn dưỡng phúc”
    Đời người ai cũng sẽ gặp phải những sự tình không thuận lợi, không hài lòng, khi ấy người ta nhất định cần phải “Nhẫn”. Từ xưa đến nay, người làm được việc lớn tất phải là người đại khí, người có đại khí tất có đại nhẫn.
    Nhẫn không phải là nhu nhược, trốn tránh, chạy trốn mà là một loại tích lũy. Người có “Nhẫn” trong tâm thường sẽ không phạm sai lầm do nhất thời gây ra. Ngược lại, người không thể nhẫn sẽ có thể chỉ vì một câu nói mà tức giận, chiêu mời tai họa. Ngoài ra, người có khả năng nhẫn nhịn, ít khi tức giận thì tâm khái của họ khiêm cung, sắc mặt của họ tốt đẹp, khiến người tiếp xúc cảm thấy dễ chịu.
     
    2. Thiện lương – “Thiện sinh đức”
    “Thông minh là thiên phú, còn lương thiện là lựa chọn.” Từ xưa đến nay, lương thiện là đạo đức tốt đẹp nhất của người thế gian.
    Không có ai là không muốn làm bạn, làm hàng xóm hay hợp tác với người có tấm lòng lương thiện. Người lương thiện có thể thu phục nhân tâm. Lương thiện có lẽ không thể khiến người đạt được tất cả mọi thứ bản thân mong muốn nhưng sẽ giúp người luôn có nội tâm an định, tường hòa. Bởi vậy mà cổ nhân giảng, chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm.
     
    3. Lạc quan – “Hỷ dưỡng nhan”
    Tâm thái vui vẻ, khoái hoạt là bí quyết trường thọ. Phương pháp tốt nhất để bảo trì sự thanh xuân trẻ trung của người ta chính là luôn giữ cho mình một nội tâm lạc quan, vui vẻ, thoải mái.
    Mỉm cười là cách để làm nở một bông hoa xinh đẹp nhất ở trên khuôn mặt. Mỉm cười là cách tạo nên vẻ đẹp nhất của con người, là cách đơn giản và nhanh nhất để kết nối mọi người lại với nhau. Nụ cười luôn làm rung động lòng người, khiến mọi người vui vẻ, thân thiết và gần gũi với nhau hơn. Nếu như trên khuôn mặt thường xuyên nở nụ cười thì có thể đem thiện ý truyền đạt cho tất cả mọi người. Đây là cách hoàn toàn không phải mất phí tổn mà lại tạo ra được giá trị lớn. Đây cũng chính là phương pháp làm đẹp thuận tiện nhất, kỳ diệu nhất.
     
    4. Hiền từ – “Từ dưỡng tâm”
    Vì sao sau tuổi trung niên có những người có khuôn mặt hiền lành phúc hậu, có người lại có khuôn mặt u buồn, oán uất? Người phúc hậu luôn hiền từ, bảo trì một trái tim hòa ái đối với tất cả mọi người thế gian. Bởi vì “tướng do tâm sinh”, “tướng tùy tâm mà thay đổi” cho nên khi tâm đẹp thì tướng mạo cũng sẽ đẹp.
     
    5. Yêu thương – “Ái dưỡng hành”
    Người mà trong lòng tràn đầy tình yêu thương thì hành động của người ấy cũng tràn ngập tình yêu thương. Vì yêu thương người khác nên trước khi làm việc gì họ đều cân nhắc đến việc người khác sẽ cảm nhận ra sao, người khác bị bị tổn hại gì không rồi mới hành động. Trái lại, một người mà trong lòng luôn so đo tính toán thì cho dù ở thời điểm nào cũng thường bị “khó dễ” đi cùng.
     
    6. Chân thành – “Thành dưỡng tính”
    Chân thành là nguyên tắc quan trọng nhất trong kết giao, trong làm người và làm việc. Ai ai cũng mong muốn được người khác đối xử chân thành với mình, vì vậy hãy đối xử chân thành với người khác trước. Một người thành thật trong sáng thì khí chất cũng là đoan trang đẹp đẽ, ánh mắt của họ đều tỏa ra ánh sáng thiện lương.
    Người trung thành thật thà luôn được lòng người, được người khác tin tưởng. Nhìn một cách nông cạn thì tưởng rằng người thật thà sẽ bị thiệt hại, bị cho là ngốc. Nhưng kỳ thực, người xưa cho rằng bởi vì thật thà phù hợp với Thiên lý nên người chân thành chắc chắn có được hậu phúc trong cuộc đời.
     
    7. Cần cù – “Cần dưỡng tài”
    “Ông trời sẽ đền bù cho người cần cù”, một người siêng năng, cần cù sẽ được bù đắp. Cần cù vừa bao hàm việc chăm chỉ làm việc, vừa bao hàm ý tiết kiệm chịu khó. Người cần cù tiết kiệm thì sẽ mang đến tài phú. Hơn nữa vì không lười biếng nên họ không sa đà vào lòng tham, thân thể khỏe mạnh.
     
    8. Khoan dung – “Khoan tụ khí”
    Một người hiểu được khoan dung thì lòng dạ cũng nhất định rộng lớn. Những người này luôn không so đo tính toán chi li, cũng sẽ không vì chiếm được chút lợi nhỏ mà vui mừng khôn xiết. Trong cuộc đời, đôi khi lùi một bước lại chính là tiến lên một bước. Lùi một bước, biển rộng trời cao. Nhường nhịn một bước sẽ có nhiều bạn bè hơn, con đường sẽ mở rộng hơn.
     
    An Hòa biên tập
     
     

     

    --

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - CAC LINH HỒN TRẢ ƠN

  •  
    Chi Tran
     


    CÁC LINH HỒN TRẢ ƠN BỘI HẬU
    Mineti là một phụ nữ nghèo khổ ở Nap (Naples) nước Ý. Ngày đêm cô van xin Chúa chồng ra khỏi tủ ngục, vì tội nghèo, không trả nợ được.
    Cô trình bày nỗi cơ hàn mình cho một người phú hộ và được y cho ba đồng.
    Buồn nản và tuyệt vọng, cô chạy vào nhà thờ nài xin Chúa là Đấng phù hộ những kẻ thanh bần. Cô đắm đuối trong lời cầu nguyện và trong nước mắt, bỗng cô nghĩ đến các Đẳng Linh Hồn trong Luyện Ngục. Cô thường nghe kể những nỗi đau khổ và lòng biết ơn của các vị ấy. Được vơi sầu với ý tưởng đó, cô vội vã vào nhà cha xứ, dâng ngài mấy đồng người phú hộ đã cho, để xin một lễ cầu cho các Đẳng Linh Hồn.
    Sáng hôm sau, linh mục dâng lễ, Mineti sốt sắng tham dự. Cô trở về, hy vọng tràn lòng, nhưng đầu vẻ đăm chiêu.
    Một bô lão gặp cô và hỏi tại sao có vẻ buồn nản như thế?
    Cô kể lể ngọn nguồn. Ông cụ hết sức cảm động trước sự quẩn bách của thiếu phụ, lấy bút viết ngay mấy chữ và bảo cô đến trao cho người theo địa chỉ.
    Cô vội vã đến nơi chỉ định và trao giấy cho chàng kỵ mã. Anh chàng mở giấy ra và bàng hoàng, khi nhận dạng chữ của cha mình, đã chết cách đó mấy tháng.
    Anh sửng sốt, hỏi dồn dập với một thái độ run run: “Thư này ở đâu? Khi nào? Ôi! Những dòng chữ thân yêu! Những khúc ruột của lòng tôi!”
    Người phụ nữ cũng ngạc nhiên không ít, đáp lại: “Thưa ông, của ông cụ già khả kính, nhân hậu, gặp em dọc đường, hỏi thăm tình cảnh của em và bảo mang đến cho ông mảnh giấy đó. Em không biết gì cả, vì ông cụ không giải
    thích gì hết. À ông, kìa bóng của ông cụ trên tường.”
    Càng ngạc nhiên hơn nữa, anh cầm giấy đọc to: “Con, ba vừa ra khỏi Luyện Ngục nhờ một thánh lễ của người phụ nữ nghèo khó này đã xin cho các Đẳng Linh Hồn. Chính người ấy mang mấy chữ này cho con; hiện người này đang phải nghèo túng hết sức. Ba xin con giúp đỡ bà.”
    Anh đọc đi, đọc lạì như muốn nuốt những dòng chữ thân yêu và ấp úng qua dòng châu lệ lả chả:
    “Bà chị quý mến, một ít tiền bạc của chị đã mở cửa Thiên Đàng cho người đã cho tôi sự sống; đến phiên tôi, tôi xin bảo đảm đời sống cho chị và gia đình chị nữa; chị sẽ có đủ mọi thứ cần dùng, tôi hứa như vậy.”
    LỜI NGUYỆN
    Lạy Chúa, phấn khởi biết bao khi chúng con cứu giúp Các Đẳng Linh Hồn!
    Vị Hồng Y thánh thiện Hugues đã khẳng định: “Dù là một việc bác ái nho nhỏ đối với các Đẳng Linh Hồn cũng sẽ được ơn đền nghĩa đáp quá sức tưởng tượng.”
    Chúng con quyết tâm tận lực giúp đỡ các Đẳng Linh Hồn.
    Tích các linh hồn
     
     

ĐỜI SỐNG TAM LINH - KẺ ĐI TÌM

  •  
    phung phung
    Tue, Jun 7 at 4:25 AM
     
     
     

    Kẻ Đi Tìm

     
     

     

    THẮP ĐÈN CHO AI

    Mẹ thành Calcutta Têrêsa kể:

    Ở Úc Châu có một người thổ dân (Aborigine) sống trong một hoàn cảnh thật thảm thương. Ông ta đã cao niên rồi. Từ bao năm tháng ông chỉ một thân một mình cô đơn trong túp lều tối tăm xiêu vẹo. Lần đầu tới thăm ông, tôi đề nghị:

    - Ðể tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường chiếu lại cho ông.

    Ông ta hờ hững nói:

    - Tôi đã quen sống như vậy rồi.

    Nhưng tôi bảo ông:

    - Tuy vậy, ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.

    Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ, đẹp nhưng phủ đầy bụi bẩn.

    Tôi hỏi ông:

    - Có bao giờ ông thắp đèn này không?

    Ông ta trả lời với giọng chán ngán:

    - Nhưng thắp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã lâu rồi mà chẳng hề trông thấy một ai cả.

    Tôi hỏi ông:

    - Nếu như các nữ tu đến thăm ông thường xuyên, ông có bằng lòng thắp đèn lên không?

    Ông vui vẻ đáp:

    - Dĩ nhiên rồi.

    Từ hôm đó, các nữ tu của chúng tôi quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Cũng từ đó, ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ hơn.

    Ông còn sống thêm hai năm nữa, Trước khi chết ông nhờ các nữ tu nhắn tin cho tôi, ông nói:

    - XIN NHẮN VỚI MẸ TÊRÊSA BẠN TÔI RẰNG, NGỌN ĐÈN MÀ MẸ ĐÃ THẮP LÊN TRONG ĐỜI TÔI VẪN CÒN CHIẾU SÁNG. ÐÓ CHỈ LÀ MỘT VIỆC NHỎ, NHƯNG TRONG BÓNG TỐI CÔ ĐƠN CỦA ĐỜI TÔI, MỘT TIA SÁNG ĐÃ CHIẾU LÊN VÀ VẪN CÒN TIẾP TỤC SÁNG MÃI.

    ----

    Lời Chúa hôm nay mô tả cho chúng ta thấy: “CHÍNH ANH EM LÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

    Mỗi chúng ta cũng được mời gọi tỏa chiếu ánh sáng của Thiên Chúa nơi cuộc sống mình, qua những cử chỉ yêu thương, qua những lời nói dịu dàng, qua đôi tay phục vụ tha nhân.

    Lạy Chúa, xin ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa thôi thúc tâm hồn chúng con, để chúng con bước ra khỏi sự ích kỷ, hẹp hòi nơi bản thân mình, mà hướng đến người khác. Amen. 

    https://keditim.net/?p=112026

     

     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH -

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - MỜI GỌI SỐNG THÁNH THIỆN

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     
     


    BẠN CÓ BỎ QUÊN LỜI MỜI GỌI SỐNG THÁNH THIỆN KHÔNG?

     

    Nên thánh là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta phải cộng tác với ân sủng để tự thánh hóa bản thân (x. 2Pr 3,11). Nếu thật lòng yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta sẽ muốn nên giống Ngài và sống lời Ngài. 

     

    Hạt suy từ về SỰ THÁNH THIỆN trong đời sống của người môn đệ

     

    Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh (1Pr 1,15-16).

     

    Sự thánh thiện, một chủ đề ít được đề cập tới

    Ngày nay, dường như các Kitô hữu, thậm chí những người tu hành, thường ít nói đến sự thánh thiện. Đạo đức thì có, nhưng sự thánh thiện thì… chưa chắc. Ai “sống thánh” một tí thì sẽ bị người khác dị nghị ngay, và sẽ bị coi như “người cõi trên”. Có lẽ, vì kiểu “sống thánh” đó chưa đúng, chưa tương thích với đời sống thường ngày của họ. Người sống thánh thiện thực sự là người mà ai ai cũng thích gần gũi, vì họ phản ánh sự thánh thiện và vinh quang của Thiên Chúa. Nơi họ toát lên một niềm vui thánh thiện, một sự bình an nội tâm sâu xa và một đời sống yêu thương mẫu mực đáng để học hỏi. Thật vô phúc cho chúng ta nếu trên bước đường tu hành, đi theo Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, mà lại lỡ đánh rơi lời mời gọi sống thánh thiện ở một xó xỉnh nào đó.

     

    Tôi đã làm Linh mục, cha xứ, cha phó, cha bề trên, mẹ bề trên, nữ tu… Tôi đâu cần phải để ý sống thánh thiện nữa. Việc đó chỉ dành cho các chủng sinh, đệ tử, tập sinh, hay các bà đạo đức thôi. Có lẽ, chưa bao giờ chúng ta nghe một lời tuyên bố nào như thế, vì ai lại dám nói như vậy chứ. Tuy nhiên, dường như đó là một phần của thực tế mà ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Một Linh mục dâng lễ cách nóng nảy, hằn học, hay la lối giáo dân; một nữ tu hành xử thiếu tế nhị; một Kitô hữu buôn gian bán dối… Tất cả những mẫu gương đó đều là phản ảnh của một lối sống thiếu thánh thiện.

     

    Chúng ta hay nói đùa với nhau là: ở đâu có một vị thánh hiển tu thì ở đó có nhiều vị thánh tử đạo. Thực ra không phải như thế, những người sống thánh thiện là một phúc lành cho tha nhân (x. Gl 5,13-14). Các vị ấy “tử đạo” vì họ đã không đủ thánh để nhìn ra sự thiện nơi người bạn thánh thiện, hoặc có thể vì họ ganh tỵ với người ấy. Người thánh thiện là chứng cớ hùng hồn về hồng ân cứu độ của Thiên Chúa, vì Người chúc lành cho những ai sống thánh thiện và cuộc sống xung quanh họ. Người sống thánh thiện thì không ích kỷ, nhưng luôn trở thành phúc lành cho tha nhân (x. 1Pr 1,22).

     

    Lời mời gọi sống thánh thiện

    Sự thánh thiện là gì? Theo nguyên ngữ Hy lạp Kinh thánh, danh từ sự thánh thiện - hagiasmos có nghĩa là một quá trình đạt tới hoặc trở nên thánh thiện (the process of making or becoming holy, set apart, sanctification, holiness, consecration[1]). Tính từ thánh - hagios có nghĩa là dành riêng cho/bởi Chúa, thuộc trọn về Chúa (set apart for/by God, holy, sacred[2]). Như thế, có hai chiều kích để đạt tới sự thánh thiện đúng nghĩa, một là từ phía Thiên Chúa (được dành riêng bởi Chúa), hai là từ phía con người (được dành riêng cho Chúa). Tự gốc chữ mà Kinh thánh dùng đã nói lên được thế nào là sự thánh thiện mà chúng ta cần phải vươn tới. Sự thánh thiện không thể đạt được một lần cho tất cả, rồi không phải làm gì nữa. Nó là cả một quá trình để vươn lên, để trở thành, chứ không phải đã hoàn thành khi trải qua đủ các giai đoạn đào tạo, rồi thôi, không tiến tới sự thánh thiện nữa.

     

    Cung thánh, chén thánh, đĩa thánh… đều là những vật thánh dành riêng cho Chúa. Người thánh là người thuộc về Chúa, dành riêng cho Chúa, qua chức thánh hay lời khấn dòng. Các Kitô cũng thuộc về Đức Kitô, qua bí tích rửa tội. Trong Tiếng Anh, Đức Kitô là Christ, còn Kitô hữu là Christian - người Kitô, nghĩa là Đức Kitô như thế nào, chúng ta cũng phải như vậy. Đức Kitô là khuôn mẫu cho sự thánh thiện của chúng ta. Tuy nhiên, Đức Kitô lại hướng sự thánh thiện đến Thiên Chúa Cha.

     

    Đức Kitô, khuôn mẫu của sự thánh thiện

    Thánh Phaolô đã quả quyết: Sống thánh thiện là ngày càng biến đổi trở nên giống Đức Kitô hơn (x. 2Cr 3,18). Đó là cả một quá trình biến đổi, trong những giới hạn của bản thân, chứ không phải là một sự hoàn hảo vô tội. Thánh Phaolô khuyên nhủ các Kitô hữu phải sống thánh thiện để xứng đáng với Thiên Chúa là Đấng thánh: “Hãy tẩy rửa hồn xác cho sạch mọi vết nhơ, và đem lòng kính sợ Thiên Chúa mà lo đạt tới mức thánh thiện hoàn toàn” (2Cr 7,1). Thánh Giacôbê cũng nhắc nhở: “Anh em hãy đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em” (Gc 4,8). Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đến gần Thiên Chúa hơn mỗi ngày, phải để cho Thánh Thần tác động và biến đổi nên giống Đức Kitô hơn, vì chúng ta hay phớt lờ tác động của Thánh Thần và chấp nhận một sự thánh thiện tương đối.

     

    Hơn ai hết, chính Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,48). Lời dạy đó đã vang vọng trong sách Lêvi, khi Thiên Chúa đòi hỏi dân Người phải sống thánh thiện: “Các ngươi hãy nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11,44-45; 19,2; 20,7). Không chỉ dừng lại ở lời răn nhủ, Chúa Giêsu còn chỉ cho chúng ta cách thức để nên giống Ngài, đó là: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy” (Ga 14,23). Thật vậy, để có thể biến đổi nên thánh giống Chúa Giêsu, chúng ta không còn cách nào khác là phải yêu mến Ngài, vâng lời và thực hành các lời dạy của Ngài (Ga 13,34-35).

     

    Nên thánh là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta phải cộng tác với ân sủng để tự thánh hóa bản thân (x. 2Pr 3,11). Nếu thật lòng yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta sẽ muốn nên giống Ngài và sống lời Ngài. Chính khi chúng ta sống theo lời Chúa dạy thì Thiên Chúa ngự nơi chúng ta; Và vì Thiên Chúa là Đấng thánh nên chúng ta sẽ là người thánh. Như thế, câu trả lời cho vấn đề nên thánh là nhận ra tình yêu của Chúa dành cho mình và sống tình yêu thương, như Chúa Giêsu đã yêu thương (x. Ga 15,12), vì ai nói mình yêu Chúa mà ghét anh em mình thì đó đích thị là kẻ nói dối (x. 1Ga 4,20).

     

    Gốc rễ của vấn đề nằm ở chỗ làm sao để chúng ta nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa đang dành cho mình, vì một khi đã cảm nhận rõ ràng tình yêu ấy thì chắc chắn chúng ta không thể hờ hững mãi được. Đồng thời, chúng ta phải tìm cách để gia tăng và đáp trả tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. TÌNH YÊU chính là động lực, là nguồn máu nuôi sống và là kim chỉ nam cho sự dấn thân và cho mọi hoạt động trong sứ vụ của chúng ta.

     

    Làm sao để nhận ra tình yêu của Thiên Chúa

    Ước gì tôi có thể hiểu được, dù chỉ là một chút, tình yêu của Thiên Chúa dành cho tôi. Người yêu tôi, thương tôi, mong nhớ tôi và luôn muốn được kết hợp với tôi từng giây phút. Nhưng bấy lâu nay, tôi nào có hiểu? Tình yêu của Người như dòng thác hùng vĩ nhất cuốn đi tất cả để tràn đến với tôi. Nay, tôi mới hiểu được phần nào câu nói của thánh Têrêsa: “Tình yêu như một con thác cuốn đi hết tất cả những gì nằm trên dòng nước chảy qua.” [3] Quả thật, chỉ những ai đã có kinh nghiệm yêu thương cận kề với Thiên Chúa mới có thể thốt ra được những lời như thế, mới cảm được sức nặng của tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.

     

    Tình yêu đâu chỉ dừng lại ở sự hiểu biết hay khả năng của lý trí. Đó chỉ là bước khởi đầu: tìm hiểu để yêu. Tình yêu là chuyện của con tim, của tâm hồn, đòi hỏi một sự gắn bó bền chặt đến tận cùng theo từng hơi thở của sự sống. Có thân xác mà không có sinh khí, chúng ta chỉ là những cái xác không hồn, không sức sống. Nói cách khác, chúng ta sẽ chết nếu Thiên Chúa không tiếp tục yêu thương chúng ta.

     

    Nếu hiểu được giá trị của từng hơi thở mang lại sự sống, chúng ta mới có thể cảm nhận được tình yêu đang trào tràn của Thiên Chúa nơi mình. Không thở trong vài phút, chúng ta sẽ chết. Thiên Chúa là sự sống. Tình yêu của Người tạo ra sự sống nơi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu từng người trong chúng ta như thế đó. Tình yêu của Người như một động năng mạnh mẽ nhất, chỉ muốn trào tràn, chỉ muốn trao ban, chỉ muốn dâng hiến cho những kẻ Người yêu thương.

     

    Chẳng phải đó là lý do các vị thánh thần bí không hề muốn thoát khỏi trạng thái xuất thần sao? Trong lúc xuất thần, dường như các ngài được đưa ra khỏi thế giới vật chất hữu hạn để được gần kề Thiên Chúa, để được kết hợp với Người, hướng về Người và ở trong Người. Một sự kết hợp của thiên đàng, của hạnh phúc. Ước gì chúng ta có thể cảm nếm được, dù chỉ là một chút, trạng thái xuất thần ấy. Chắc chắn, đó là giây phút ngất ngây hạnh phúc, nơi ngưởng cửa thiên đàng.

     

    Sống thánh thiện là sự kết hợp hài hòa giữa thể lý và tinh thần

    Về phần mình, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện và luôn sống trong mỗi người theo từng hơi thở, theo từng nhịp đập của con tim. Mỗi ngày, Người vẫn thực hiện công trình sáng tạo của Người nơi chúng ta. Thế nhưng, hình như chúng ta vẫn chỉ thở theo quán tính; con tim chúng ta vẫn đập một cách vô thức mà không cảm nhận được gì về sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu trong cơ thể và tâm hồn chúng ta. Ắt hẳn Người đau buồn lắm vì sự thờ ơ của chúng ta!

     

    Cái đau khổ nhất của tình yêu là người mình yêu không hề cảm nhận được tình yêu của mình dành cho họ. Sự dửng dưng, vô cảm, thờ ơ, lạnh nhạt cứ như ngọn núi đá triệu năm, đứng trơ lì trước ngọn lửa tình bùng cháy của Thiên Chúa. Tôi có đang làm Chúa đau buồn vì sợ thờ ơ của mình không?

     

    Tình yêu sợ nhất là sự chia ly, bặt vô âm tín. Nhìn theo một góc cạnh khác, tình yêu cũng sợ cả lúc hiện diện đó mà như không có đó. Sự dửng dưng như một liều thuốc độc giết chết người yêu. Người mình yêu ngồi đó, hiện diện đó, nhưng chỉ như một bức tượng đá có xác thể mà không có hồn thể. Thân xác đang hiện diện trước Chúa Giêsu Thánh thể, nhưng tâm hồn đang ngao du ở một chốn xa xăm nào đó, mải mê theo đuổi những ý tưởng, những bóng hình gió mây, những toan tính công việc…

     

    Phải chăng sự hiện diện thể lý là cần nhưng chưa đủ cho một sự kết hợp hoàn hảo? Quả thật, để có thể hiện diện bên nhau một cách thể lý đã là một sự cố gắng, một minh chứng cho tình yêu. Tuy nhiên, chính sự kết hợp trong tâm hồn mới làm nên sự vĩ đại cho sự kết hợp ấy, mang lại niềm vui thật sự cho tình yêu.

     

    Giả như có xa nhau ngàn dặm mà tâm hồn vẫn sống trong nhau, thì cái ngàn dặm kia cũng chẳng nghĩa lý gì. Sự xa cách giữa trời với đất, giữa vinh quang Thiên Chúa với sự giới hạn của con người cũng không nghĩa lý gì, nếu tâm hồn chúng ta “nuôi” Thiên Chúa, và để Thiên Chúa sống trong chính mình. Thánh Phaolô cũng đã có kinh nghiệm như thế khi thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Nếu để Thiên Chúa luôn sống trong chúng ta thì chúng ta đã có một sự kết hợp trọn vẹn rồi. Ước gì chúng ta làm mọi việc mà vẫn ý thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính lúc mình làm việc. Ôi! Những vị thánh giữa đời!

     

    Tôi nên thánh đâu cần ai biết và công nhận, ngoài một mình Chúa tôi

    Có thể chúng ta không thờ ơ hoặc không thừa nhận điều đó. Tuy nhiên, có thể chúng ta đang hài lòng với một sự đạo đức bình dân theo cái chung của cộng đoàn, một sự thánh thiện tàm tạm theo ánh nhìn của người khác. Dường như, chúng ta đã đánh rơi đâu mất ước mơ đạt tới sự thánh thiện ở một thời điểm nào đó, vì thấy nó sao… xa vời quá! Không thực tế! Hãy lấy lại khát khao nên thánh của mình.

     

    Nên thánh, để được gần Đấng Thánh. Một chủ đề hình như không còn gặp nơi các bàn cơm, các giờ gặp chung, hay các giờ nói chuyện nhóm với nhau trong cộng đoàn, giáo xứ... Thiên Chúa vẫn gửi những ngôn sứ của Người đến, để nhắc nhở chúng ta, nhưng dường như tiếng nói của các ngài vẫn đang bị lãng quên, bị lất át bởi bao nhiêu thứ công việc… Hãy tìm lại ước mơ nên thánh của mình.

     

    Lạy Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện. Thế gian lôi kéo con, công việc của Chúa lôi kéo con. Con không còn thời gian cho sự kết hợp liên lỉ với Chúa nữa. Ôi! Làm sao lại như thế! Lạy Chúa, xin giúp con. Xin mặc khải cho con cách thức để có thể kết hợp với Chúa. Xin tỏa sự thánh thiện của Chúa xuống con người nguội lạnh của con. Xin bao phủ con bằng một tình yêu nồng cháy, một động năng chỉ muốn nên thánh, để được kết hợp với Chúa và thuộc trọn về Chúa mãi mãi. Amen.

     

    Giuse hạt bụi tro

     

     

    [3] Trần Ngọc Anh. “Bài đọc thêm số 8: Kinh nghiệm của thánh nữ Têrêsa thành Lisieux.” Nhân Học Kitô giáo, tập 2, Ân Sủng. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2020. 388-392.