9. Đào Tạo Môn Đệ

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ -PHUNG - ĐỨC CHA CASSAIGNE

  •  
    phung phung
     
    Fri, Sep 24 at 1:34 PM
     
     

    Tiếng khóc trong rừng

    Thân kính vô vàn. Đức CHA CASSAIGNE

    Bên cạnh Làng Cùi Di Linh, tỉnh Lâm Ðồng, có ngôi mộ của Ðức Giám Mục Jean Cassaigne (Gioan Sanh,) vị sáng lập giáo xứ và làng cùi tại Di-Linh.

    Trên bia mộ Ðức Giám Mục De Cassaigne, có khắc hai dòng chữ sau đây:
    “Tôi xin những người nào,mà khi còn sống, tôi không giúp đỡ được gì, hãy tha lỗi cho tôi”
    “Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi đã nêu gương xấu, hãy tha lỗi cho tôi”

    Ngay sau khi Ðức Cha Jean Cassaigne tấn phong Cha Simon Hòa Hiền (cựu Giám Mục Ðịa Phận Ðàlạt) năm 1955, thay vì về lại Pháp là nơi Ðức Cha Cassainge đã lớn lên, Ngài đã trở lại để vui sống với anh em bệnh nhân trại cùi, một làng nhỏ chính tay Ngài tạo dựng mấy mươi năm về trước. Tại làng nhỏ bé này, Ngài vừa làm Cha sở, Thầy giảng, Giám đốc, Y tá, chăm nom chu đáo cho tất cả bệnh nhân mọi tôn giáo, trẻ già, với sự cộng tác nhiệt thành của các sơ dòng Bác Ái Vinh Sơn. Ngài quyết tâm sống chết với con cái cùi hủi của Ngài.

    Trong cuốn “Lạc Quan Trên Miền Thượng” [1] do Linh Mục Giuse Phùng Thanh Quang viết vội vào năm 1972 về cuộc đời hy sinh cho người cùi của Ðức Cha Cassaigne, lúc Ðức Cha Cassaigne đang đau quằn quại thê thảm với những cơn đau khủng khiếp cuối đời. Một đời hy sinh thật cao quý của Ðức Cha Cassaigne mà có lẽ nay còn rất ít người có biết và nhớ đến Cha Cassaigne được thụ Phong chức Linh Mục năm 1925 tại chủng viện Rue du Bac của Paris. Qua Sài Gòn ngay sau đó và nhận nhiệm sở thí điểm truyền giáo vùng ma thiêng nước độc Di Linh (DJIRING) năm 1927. Ngài đã yêu thương những người “Mọi cùi” đến độ đã sống giữa người cùi, tắm rửa, săn sóc cho những người cùi, đã thương yêu họ cho đến khi họ chết. Cha Cassaigne đã kể một câu chuyện có lần Ngài giúp những người cùi thức ăn gồm có gạo, muối, và thịt naị Có một bà cùi hàng tuần đến lấy phần ăn, nhưng tuần đó không thấy đến. Cha Cassaigne đến lều tranh tìm bà thì thấy bà ta sắp chết với mủ nhớt nhầy nhụa, mùi hôi thối không chịu được xông ra từ mảnh thân héo tàn đáng thương xót nàỵ Cha vội lo dạy bà những điều về Thiên Chúa và hỏi bà ta có muốn Cha rửa sạch những tội lỗi để bà được lên Trời sau khi chết không?

    Người cùi đáng thương đồng ý được rửa tội và nói với Cha Cassaigne rằng:

    “Cau dờng! Ăn rơp kăh dơ mê dỡ ăn gũh rê hơ trồ”

    ” Ông lớn ơi! Tui sẽ nhớ đến ông khi tôi ở trên Trời” Cái chết tội nghiệp nhưng tốt lành của bà Thượng cùi đã làm khích động thật sâu xa tâm hồn Tông Ðồ của vị Linh Mục Thừa Saị Câu nói “Tôi sẽ nhớ Cha khi được ở trên Trời” là viên đá đầu tiên được đặt xuống để khởi đầu công cuộc thành lập làng cùi tại Di Linh.

    Trong khoảng thời gian đó, ở miền Trung cũng như ở miền Nam nước Việt cũng có những trại cùi với số người bệnh tương đối ít. Trong khi ở vùng đất xa xôi có đến hàng trăm người cùi, lại không có chỗ cho họ ở. Theo lời Linh Mục Phùng Thanh Quang kể lại. Một ngày cuối Thu năm 1928, trong chuyến đi thăm một làng Thượng xa, đang băng qua rừng vắng thì bỗng có tiếng chân nhiều người dồn dập từ trong vùng tối âm u, nhiều giọng la ú ớ kêu Ngài dừng lại. Những bóng dáng quái dị xuất hiện như một đoàn ma đói. Thân hình xác xơ, kẻ mất tay, người sứt mũi, miệng chảy nước lòng thòng và tất cả hầu như què quặt. Họ mặc dù có người khập khiểng, có người vừa bò vừa lết, và đói, cố đuổi theo Cha bao vây lấy Ngài và tất cả đồng gào lên thảm thiết: “Ơ cau dơng! Ơ cau dơng! Dăn đàc sơng it bol hi!”
    Ới ông lớn! Ới ông lớn! Xin thương xót chúng tôi!

    Rồi tất cả sụp lạy Ngài và khóc rống. Cha Cassaingne vừa sợ hãi, vừa mủi lòng. Thì ra đây là nhóm người cùi bị xóm làng kinh tởm đuổi đi, họ tụ tập từng nhóm ngoài rừng xa, sống lây lất qua ngày để chờ chết. Có lẽ họ đã nghe lời đồn đãi về ông lớn làm thuốc và hay thương giúp người cùi này. Họ chờ Cha trên khúc đường vắng để nhờ Cha giúp đỡ.
    Vài ngày sau, đó, việc lập làng cùi Di Linh được xúc tiến ngay
    [3] Trong bài thuyết trình của Cha Cassaigne tại Sài Gòn năm 1943 về bệnh cùi khủng khiếp như thế nào, Ngài viết:

    “Ở xứ Thượng cũng như hầu hết các xứ vùng nhiệt đới, nơi mà sự ăn ở sạch sẽ và phương pháp vệ sinh ít được lưu ý, thì con số người mắc bệnh cùi khá cao. Khi mà có thể còn làm việc được thì người mắc bệnh cùi vẫn còn được sống chung với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm gì được nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, mủ máu vấy đầy khiến những người chung quanh nhờm gớm kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết sao mặc kệ! Rồi yếu liệt cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi không còn sức làm gì nữa để kiếm ăn vì tay chân cụt mất rồi! Họ sẽ chết dần chết mòn một các thảm khốc, sẽ gục ngã ở một xó kẹt nào đó rồi chết đi vì đói lạnh, mà chẵng có ai hay biết…”

    Trước khi mắc bệnh, mỗi lần thuyết trình đến đây, cha Cassaigne không sao cầm được nước mắt, phần thì thấy thương những người xấu số, phần thì chắc Ngài cảm thấy lo âu sợ sệt như linh cảm thấy trước định mệnh sẽ đến, Ngài run sợ như chính mình đang mắc chứng bệnh nan y nàỵ

    Các việc làm nhân đức của Cha Jean Cassaigne đã đưa Ngài từ một căn lều tranh để phục vụ người hủi tới tận tai Tòa Thánh La Mã. Ngài được bổ nhiệm chức Giám Mục và Ngài phải tuân lệnh Toà Thánh về làm việc tại Ðiạ Phận Sài Gòn. Trong hơn 14 năm giữ chức vụ này Ðức Giám Mục Cassaigne đã đôn đốc thực hiện công cuộc bác ái, cứu trợ vật chất, ủy lạo tinh thần cho những người gặp cảnh bất trắc nghèo khó, di cư tị nạn, không phân biệt địa phương hay tôn giáọ.

    Vì nhớ đám dân cùi, Ngài xin từ nhiệm chức Giám Mục Sài Gòn để trở về băng bó vết thương tinh thần và vật chất cho những đứa con cùi hủi của Ngài tại làng cùi Di Linh.

    Vì sống một đời sống quá khắc khổ trong rừng nên Ðức Cha đã mang nhiều bịnh nặng. Từ năm 1929, Ngài đã mắc bịnh sốt rét rừng. Năm 1943, bịnh cùi đã đến với Ngài vì sống gần gũi với người bịnh; từ năm 1957, bịnh lao xương làm không thuốc chữa Ngài đau đớn, và năm 1964, bịnh lao phổi trở lại hành hạ thân Ngàị Ðức Cha đau đớn tột cùng với những cực hình thể xác, nhưng luôn luôn vững lòng chấp nhận để xin Chúa thương mà giảm bớt cái đau của những người hủi tại Việt nam.

    Những ai may mắn sống gần Ðức Cha thường được nghe

    – “Ðời tôi chỉ có ba ước nguyện: được chịu đựng, chịu đau, và chịu chết ở đây, giữa những người Thượng của tôi”

    (Je ne demande que trois choses: tenir, souffrir, et mourir ici, au milieu de mes Montagnards).

    Chúa đã nhận lời cầu xin của Ðức Cha, đã cho Ngài mang lấy bốn chứng bệnh nan y. Ðã giúp sức cho Ngài chịu đựng quá lâu dài. Những ngày cuối cùng tuy đau đớn, nhưng Người vẫn đọc kinh cầu nguyện cho nước Việt Nam, cho các người cùi. Người nói:

    “Suốt 47 năm dài, Cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này,và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây,Cha không tiếc một điều gì về sự dâng hiến toàn diện ấy”.

    Theo lời từ biệt của ông Nguyễn Thạch Vân, đọc trong lễ an táng Ðức Cha Cassaigne tại Di Linh ngày 11 tháng 5, năm 1973 kể lại, Cha Cassaigne còn nói:

    “Việt Nam chính là quê hương của Cha, bởi vì Chúa muốn như vậy”.

     

    Khi nói đến câu: “Nước Việt Nam là quê hương của tôi”. Ðức Cha chấp tay như để cầu nguyện, và Ngài khóc! Ðây là giòng lệ Thánh cầu nguyện của một Tông đồ Truyền giáo, đã tận hiến đời mình cho lớp người khốn khổ, bất hạnh nhất trên cõi đời này.

    Năm 1972, Ðức Cha đã được trao tặng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương trên giường bệnh và đã qua đời tại Di-Linh ngày 31-10-1973

    From: Helen Huong Nguyen

    https://keditim.net/?p=101939

    -------------------------

     
     
     

     

     

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - GƯƠNG CHÚA GIESU

  •  
    Chi Tran

     
     
                                 GƯƠNG CHÚA GIÊSU

    COI KHINH DANH VỌNG THẾ TỤC

     
    Mong được đời bỏ quên

           -Con ơi! Đừng khó chịu khi thấy người khác được ca tụng, được tôn phong còn con phải khinh dễ và thấp kém.

         Con hãy nhắc tâm hồn lên trời với Cha và đừng khổ tâm khi bị người đời khinh dễ.

         Ta đáng khinh vì tội

           -Lạy Chúa! Con tối tăm khốn nạn và dễ bị lừa dối vì những cái vô ích!

         Nghiệm xét mình con, con chưa thấy loài nào đã xỉ nhục gì con; thế nên con không có lý gì mà trách Chúa.

         Trái lại, con đã phạm mất lòng Chúa nhiều và nặng nề quá, nên tất cả muôn loài kháng cự con là phải lắm.

         Chịu xấu hổ và khinh dễ: đó là kỷ phần của con, còn được hoan hô, chúc tụng và tôn vinh, duy mình Chúa là xứng đáng.

         Mà nếu con không sẵn sàng và vui chịu mọi người khinh con, đày đọa con, không màng đến con, lòng con sẽ không thể được bình an vững chắc, được soi sáng thiêng liêng và kết hợp mật thiết với Chúa.

                                         SUY NIỆM

         “Đời sẽ qua đi như bóng và danh vọng đời cũng sẽ qua theo”.

          Ai thành thực nhận xét mình trước nhan Chúa sẽ không màng danh vọng thế tục, trái lại chỉ tự hạ, nhận hèn kém là kỷ phần, là nơi náu ẩn của mình.

          Bị khinh họ không buồn mà còn lợi dụng để tự hạ thẳm sâu hơn.

          Được khen cũng không mừng. Trái lại họ sẽ dâng trót cho Chúa và xưng tỏ: “Một mình Chúa đáng được vinh dự”.

          Người mà họ cầu cứu và hy vọng, nơi mà họ đến tìm vinh dự là Chúa Giêsu và Thánh giá của Ngài.

          Lạy Chúa Giêsu chí ái! Chúa đã sinh trong máng cỏ và chết trần truồng trên Thánh giá, xin ban cho con một tinh thần thoát tục mãnh liệt, để con sống giữa trần tục mà không vương vấn không nhiễm lây.
    Nguyên tác: THOMAS A KEMPIS  
    Linh mục LÊ BÁ TƯ
     

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - CAC THÁNH KHÔNG BUỒN

  •  
    Chi Tran

     
     
    Các thánh không buồn.
    Nhìn vào "Tự điển cuộc sống" của thánh Vianney, người ta đọc thấy toàn là những chữ: ăn chay, hãm mình, đền tội, khổ nạn...
    Nhìn vào gương mặt của ngài, người ta cũng gặp toàn là những nét: gian truân, khắc khổ, lao nhọc, đau thương...
    Thế nhưng trong con người ấy lại chói ngời một quả tim luôn vui tươi, từ ái với hết mọi người. Ngày ngày, vào khoảng 12 giờ cha Vianney rời nhà thờ và trở về nhà xứ để ăn trưa. Đến một giờ, ngài lại vào toà giải tội và ngồi ở đó cho mãi tới tối.
    Trong khoảng thời gian nghỉ ngơi vắn vỏi ấy, cha Vianney phải tranh thủ để làm biết bao công việc: thường thường ăn cơm bao giờ cũng đứng, vì ngồi thì sợ kéo dài giờ ra. Vừa ăn xong, ngài vội đi thăm các trẻ mồ côi, các em mẫu giáo...
    Ai cũng thấy ngài vui tươi âu yếm và sung sướng giữa những tâm hồn đơn sơ ấy. Từ giã các em, ngài rảo bước đến nhà các kẻ ốm liệt; gặp ai dọc đường, ngài cũng an ủi thăm hỏi. Các gia đình đều mong cha sở đến thăm, vì đối với họ, dường như nơi ngài, tàng ẩn một niềm vui không bao giờ vơi.
    Lúc trở lại nhà thờ, ngài cũng trao đổi một vài lời vắn tắt, có lúc dí dỏm, hài hước với khách hành hương đang đứng trước sân nhà thờ chờ đến lượt vào toà xưng tội.
    Lần nọ, cha Vianney gặp một bà trong xứ đến chào ngài. Biết bà là người thật lắm mồm lắm mép, nói huyên thuyên suốt ngày, ngài liền hỏi:
    - Trong suốt năm, có tháng nào con nói ít hơn mọi tháng không ?
    Bà ta bỡ ngỡ ấp úng thưa:
    - Thưa cha, con thì quen thói rồi, tháng nào con cũng nói như nhau cả.
    - Không, có một tháng con nói ít hơn. Con biết tháng nào không ?
    Bà ngẩn ngơ:
    - Tháng nào, thưa cha ?
    - Tháng hai dương lịch, vì tháng đó chỉ có 28 ngày, 29 ngày thôi.
    Ai nấy cười phá lên. Ngài vội vã bước vào toà giải tội.
    Lần khác, cha Vianney thấy ở trước sân nhà thờ có một quày hàng bán chuỗi, tượng ảnh và có cả hình của ngài nữa. Ngài bèn dừng lại, cầm lấy tấm hình của ngài đưa lên cao cho mọi người xung quanh coi và nói:
    - "Thiên hạ dại dột thực, cái hình nhăn nheo như con khỉ khô này mà cũng phải mua mất một đồng quan !"
    Các người chung quanh được dịp cười bể bụng lăn chiêng. Cha Vianney cũng cười, giao trả tấm ảnh lại rồi bước vào nhà thờ.
     

     
     
     

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ -

  •  
    Chi Tran

     
    SỰ PHỤC VỤ ANH HÙNG CỦA MẸ TÊRÊSA DÀNH CH NGƯỜI NGHÈO
     
    Sự phục vụ đầy anh hùng của Mẹ Têrêxa dành cho người nghèo được thực hiện qua lòng tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể.
     
    Một trong những “bí quyết” giúp cho Mẹ Têrêxa Calcutta thành công với tư cách là một nhà thừa sai bác ái đó là cam kết mỗi ngày dành một giờ chầu trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Mẹ Têrêxa luôn vững vàng vì tin rằng cầu nguyện trước Chúa Giêsu là điều cần thiết cho công việc của mình giữa những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội.

     


    Mẹ Têrêxa đã có một bài phát biểu mạnh mẽ trước nhiều người triệu tập trong dịp Đại hội Thánh Thể ở Philadelphia vào năm 1976 và đã nhắc lại sự thật đơn sơ này.
     
    "Để có thể sống trọn các lời khấn này, bốn lời khấn, chúng tôi cần phải để cuộc đời mình được đan dệt bằng Bí tích Thánh Thể. Đó là lý do tại sao chúng tôi bắt đầu một ngày của chúng tôi với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Với Người chúng tôi tiến tới. Và khi trở về vào buổi chiều chúng tôi có một giờ thờ phượng Chúa Giêsu trong Bí tích cực thánh, và lúc này bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên, rằng chúng tôi không cắt giảm công việc của mình đối với người nghèo".

    Thật vậy, mẹ Têrêxa đã xác tín rằng mẹ có thể yêu thương người nghèo nhiều hơn nhờ giờ chầu Thánh Thể của mẹ.

    "Điều đó đã đưa chúng tôi đến gần nhau. Chúng tôi yêu thương nhau nhiều hơn, nhưng tôi nghĩ chúng tôi yêu thương người nghèo bằng một niềm tin sâu xa và một tình yêu vĩ đại".

    Dòng Thừa Sai Bác Ái mà Mẹ Têrêxa thành lập vẫn tiếp tục truyền thống này, và luôn luôn dành thời gian để cầu nguyện trước Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Điều đó luôn là nền tảng của họ cho đến hôm nay, và là điểm tựa đối với công việc của họ giữa người nghèo.

    Mẹ Têrêxa tin rằng nếu bạn muốn yêu thương người nghèo một cách mãnh liệt hơn, bạn cần dành nhiều thời gian hơn cho việc chầu Thánh Thể.

    Tác giả: Philip Kosloski  - Nguồn: aleteia.org (05/9/2021)
    Chuyển ngữ: Hoàng Bình Vương - Nguồn: Giáo Phận Qui Nhơn (06/9/2021)

     
     
     
     
     

ĐÀO TẠO MON ĐỆ - ĐAU KHỔ VỚI CHÚA

  •  
    Chi Tran

     
     
                                 GƯƠNG CHÚA GIÊSU

    CHỊU ĐAU KHỔ VỚI CHÚA

        
     Chúa đau khổ luôn vì ta

           -Con ơi! Cha đã bỏ trời xuống cứu con, Cha đã gánh lấy mọi đau khổ của con, không phải vì ai cưỡng bách được Cha, chỉ vì lòng Cha quá yêu con, để dạy con đức nhẫn nhục và biết chịu đựng những đau khổ mà không kêu ca trách móc.

         Vì từ khi Cha sinh ra cho đến lúc chết trên Thánh giá, không giây phút nào Cha không phải chịu đau khổ.

         Cha đã chịu thiếu thốn của đời, thiều khổ đấy con ạ! Tại Cha nghe thường những lời người ta trách mắng, Cha đã chịu xỉ nhục và xấu hổ không kêu nửa lời, Cha đã thi ân để được đời báo lại bằng phụ bạc.

         Cha đã làm phép lạ để rồi chịu tiếng đời nói phạm. Cha đã mở miệng dạy vẽ cho đời, mà đời cũng không tha bác bẻ.

           Lạy Chúa! Bình sinh Chúa đã nhẫn nhục và nhờ thế Chúa đã chu tất được mệnh lệnh Đức Chúa Cha. Thế, tội lỗi khốn nạn như con, con cũng phải vâng ý Chúa mà chịu cho nhẫn nhục và- bao lâu Chúa muốn- con sẽ mang gánh nặng của đời sống ô trọc này để tự cứu rỗi con.

         Vì tuy dầu đời sống hiện tại là một đời sống nặng nề thật, nhưng với ơn Chúa, nó đã trở nên dịp lập công liên lỉ.

    Hơn nữa, nhờ gương Chúa và các Thánh, nó đã trở nên dễ chịu và đỡ tối tăm cả cho những người yếu đuối.

         Người ta cũng được an ủi nhiều hơn xưa trong thời Cựu Ước, vì lúc đó cửa Thiên đàng còn đóng và đường đưa đến Nước Trời còn mờ tối, chỉ có rất ít người chịu khó đi tìm.

         Lúc đó cả những người lành thánh đáng được rỗi cũng chưa vào được Thiên đàng, vì Chúa chưa chịu khổ nạn và chết để đền thay cho.

         Ôi! Con phải cảm tạ ơn Chúa chừng nào vì đã thương chỉ cho con và các tín hữu, đường thẳng và vững chắc để lên Nước đời đời.

         Vì đời sống của Chúa là hướng dẫn chúng con, và chúng con sẽ đi đường nhẫn nhục để đến cùng Chúa là triều thiên thưởng chúng con.

         Nếu Chúa không đi trước và không dạy chúng con biết đường ấy thì đã mấy ai dám đi!

         Nếu không có gương Chúa trước mắt thì biết bao người còn đang rờ rẫm tắp tít đàng xa kia.

         Ôi! Tai nghe từng ấy lời dạy vẽ, mắt xem từng ấy phép lạ, mà chúng con vẫn chưa khỏi khô lạnh! Giá mà không được ơn soi sáng để biết theo Chúa, chúng con sẽ còn đến thế nào?

                                         SUY NIỆM

         Gẫm suy cuộc tử nạn Chúa: Đó là phương thế đắc lực giúp ta chịu khó nên.

          Tất cả những đau khổ Chúa gởi cho ta, đều có mục đích để thử lòng trung tín hoặc để phạt tội ta bất trung: vì thế ta phải chịu cho khiêm tốn với tinh thần thống hối thật.

          Trong các đau khổ của ta, nặng nề nhất chính là bản thân ta. Những mống ngụy của tình dục, những lo âu của tâm hồn, những phiền toái của tính khí, những sai lạc của trí vẽ và cái “Ta” đối lập với Thiên Chúa, chính là ách nặng nhất đè lên ta.

          Nhưng ta sẽ theo gương Chúa vác hết mọi Thánh giá- dầu nặng đến đâu- để đền tội ta bây giờ và khỏi đền đời sau.

          Lạy Chúa! Xin sửa phạt con, hành xích con đời này và tha cho con đời sau. Nhưng xin Chúa giúp sức, vì tính tự nhiên con ngại chịu khó. Xin cho con noi gương Chúa vác hết mọi Thánh giá của địa vị con để đáng Chúa cho hiệp hoan trên nước Chúa. 
    Nguyên tác: THOMAS A KEMPIS  
    Linh mục LÊ BÁ TƯ