16. Sống Tình Thức

SỐNG TỈNH THỨC - 10 CÔ TRINH NỮ-THỨ SÁU CN21TN-A

  •  
    Tinh Cao
    Thu, Aug 27 at 3:39 PM
     
     

    Thứ Sáu CN21TN-A

    CẢM NGHIỆM SỐNG Lời Chúa: CẦN SỐNG NHƯ 5 CÔ KHÔN NGOAN

     

    Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 1, 17-25

    "Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm đối với người đời, nhưng là sự khôn ngoan đối với những người Thiên Chúa kêu gọi".

    Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

    Anh em thân mến, Ðức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Ðức Kitô ra hư không.

    Vì chưng lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng: "Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông sáng của những người thông sáng". Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu? Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của thế gian này trở nên ngu dại sao? Vì khi thế gian tự phụ là khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được kêu gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 10ab và 11

    Ðáp: Ðịa cầu đầy ân sủng của Chúa (c. 5b).

    Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.

    2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa. - Ðáp.

    3) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. - Ðáp.

     

    Alleluia: 1 Tx 2, 13

    Alleluia, alleluia! - Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời của Thiên Chúa, và đích thực là thế. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mt 25, 1-13

    "Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.

    "Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào".

    Ðó là lời Chúa.

    The Parable of the Ten Virgins – St. John and Trinity Lutheran Parishh e a d j a n i t o r: the ten virgins

    Suy niệm/Cảm Nghiệm : ANH EM HÃY SỐNG TỈNH THỨC, VÌ ANH EM KHÔNG BIẾT NGÀY NÀO, GIỜ NÀO" (CÂU 13)

     

     

    Nửa Đêm Nghênh Đón

     

     

     

    Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Sáu Tuần XXI Thường Niên hôm nay, cũng như cho ngày mai, ở đoạn 25 của Thánh ký Mathêu, nhưng không bao gồm phần cuối của đoạn này về sự kiện chung thẩm, mà chỉ liên quan đến 2 dụ ngôn cuối cùng liên quan đến thời cánh chung của Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu

     

    Sở dĩ 2 dụ ngôn cuối cùng trong bài Phúc Âm hôm nay và ngày mai có thể nói và dám nói là liên quan đến mầu nhiệm cánh chung là vì, theo cấu trúc và diễn tiến của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, thì chẳng những đoạn 24 ngay trước đó là đoạn Phúc Âm về ngày tận thế, mà phần cuối của đoạn 25 ngay sau 2 dụ ngôn này là cảnh chung thẩm. 

     

     

    Thật thế, một trong 2 dụ ngôn cánh chung ấy là dụ ngôn về "10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rểở trong bài Phúc Âm cho Th Sáu Tuần XXI Thường Niên hôm nay, nhưng "trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả'. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: 'E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn'".

     

    Trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, muốn hiểu được phần nào ý nghĩa của dụ ngôn này, cần phải tìm hiểu ý nghĩa của ít là 4 hình ảnh ẩn dụ sau đây: trinh nữ đón (1), chàng rể đến (2), tiếng hô to (3), và dầu đốt đèn (4)

     

    1- Trinh nữ đón"Trinh nữ" đây ám chỉ ai, nếu không phải là Kitô hữu, vì họ là thành phần nhờ phép rửa đã được nên tinh tuyền và thánh hiến cho Chúa Kitô (xem Epheso 5:26-27). Có bản dịch là "phù dâu", cũng không sai, ở chỗ, ám chỉ thành phần tu sĩ và giáo sĩ, thành phần nhờ đời sống thánh hiến càng làm đẹp thêm cho cô dâu. Trong 10 cô này có 5 cô khôn và 5 cô dại, và khôn hay dại nơi các cô là ở chỗ có mang theo đèn và cả dầu nữa hay chăng. Chúng ta sẽ suy diễn về đèn và dầu sau, ở chi tiết thứ 4 cuối cùng.

     

    2- Chàng r đến: Thời điểm chàng rể tới chính vào lúc "nửa đêm", chứ không phải giữa thanh thiên bạch nhật ban ngày. Nghĩa là chàng rể đến vào lúc người ta buồn ngủ nhất về tâm linh và đen tối nhất về môi sinhĐến độ, không phải chỉ có các cô khờ dại mới gục ngủ mà cả những cô trinh nữ khôn ngoan cũng thiếp ngủ nữa: "Thật vậy, nếu giai đoạn ấy không được rút ngắn lại thì không một con người nào được cứu độ" (Mathêu 24:22).

     

     

    Tức là vào lúc Chúa đến lần thứ hai "không biết có còn đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?" (Luca 18:8), một thời điểm "vì sự dữ gia tăng mà lòng người hầu hết trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12), một thời điểm đầy như tối tăm gian dối nơi hiện tượng tiên tri giả và kitô giả đánh lừa được nhiều người (xem Mathêu 24:24).

     

    3- Tiếng hô to: Thời điểm chàng rể đến chẳng những vào "nửa đêm" mà còn được kèm theo bằng một "tiếng hô to" nữa. Vậy thì "tiếng hô to" này xuất phát từ đâu, hay ai là người đã phát ra "tiếng hô toấy? Nếu Giáo Hội là cô dâu, chàng rể là Chúa Kitô, và thành phần trinh nữ là Kitô hữu, hay thành phần phù dâu là tu sĩ giáo sĩ, thì ai là người đã vang lên "tiếng hô to" ấy, nếu không phải là chính Đức Mẹ Maria.

     

     

    Thật vậy, "tiếng hô to" ấy đã xuất phát từ Mẹ Maria qua những lần Mẹ hiện ra đây đó, đặc biệt nhất và "to" nhất là vào lần Mẹ hiện ra ở Linh Địa Fatima năm 1917, trong giai đoạn thế giới của thành phần "trinh nữ" Kitô giáo bị khủng hoảng đức tin hơn bao giờ hết, đến độ đã đi đến chỗ mất hết đức ái, và dữ dội sát hại nhau bằng các trận thế chiến ở tiền bán thế kỷ 20, cũng như bằng nạn diệt chủng phá thai và nạn ly dị ở hậu bán thế kỷ 20, những hiện tượng quái gở chưa từng có trong lịch sử loài người nơi một thế giới Tây phương càng văn minh con người càng bạo loạn và càng trở thành trung tâm của nền văn hóa chết chóc ti tăm.

     

    4- Dầu đốt đèn: Nếu đèn ám chỉ đức tin, và ngọn lửa cháy sáng nơi cây đèn ám chỉ đức mến, thì dầu đèn đây có thể hiểu là đức cậy. Bởi vì, giai đoạn Chúa Kitô chàng rể tới "bị trì hoãn hay chậm trễ - delayed", như trong bài Phúc Âm hôm nay cho biết, mà thành phần trinh nữ hay phù dâu đợi chờ chàng cần phải nhẫn nại và hy vọng hơn bao giờ hết, bằng không, một khi tắt mất đức mến mà lại không còn đức cậy, mà lại mất hết hy vọng thì ngọn lửa đức mến sẽ không bao giờ có thể thắp lại được bởi thiếu dầu đức cậy. Thực tế cũng chứng thực như vậy, một khi con người thất vọng đến chỗ tuyệt vọng (như ngọn đèn hết dầu) thì chẳng còn muốn sống nữa, nên đã có những cuộc tử tử là như vậy. Hy vọng chính là sức sống của con người, trong con người và cho con người.

     

     

     

     

    Trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay có đề cập đến 5 cô khôn ngoan, ở chỗ mang dầu theo với đèn để đón chàng rể, mà đèn đây ám chỉ đức tin và dầu ám chỉ đức cậy, thì tác động hay lòng tin tưởng cậy trông chính là tất cả những gì là khôn ngoan nhất của con người để được cứu độ, bởi họ không thể cứu được mình, ngoài Đấng có thể cứu mình bới chính Thánh Giá có vẻ điên rồ của Người, thứ Thánh Giá là lý lẽ siêu vượt của Thiên Chúa mà trần gian không thể nào hiểu được và chấp nhận được nên cho là điên rồ, như cảm nhận của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, về cả hai khuynh hướng trần gian, đó là khuynh hướng thích dấu lạ của người Do Thái, và khuynh hướng thích triết lý khôn ngoan của người Hy Lạp. Các cô nghênh đón chàng rể khôn ngoan ở chỗ chấp nhận mọi gian nan khốn khó, khi nhẫn nại chờ đợi chàng rể đến muộn, vì chàng muốn thử thánh lòng tin tưởng cậy trông của "những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), một thái độ thiết tha trông đợi cho dù gian nan khốn khó, như thể sẵn sàng vác thập giá mình mà theo chàng rể vậy.

     

     

    Và lòng tin tưởng cậy trông không bao giờ bị thất vọng, trái lại, chính những gì được tin tưởng cậy trông, nghĩa là những gì vượt trên hiện tượng hữu hình và khả giác, hợp với cảm quan tự nhiên, hợp tình theo lý lẽ lập luận của loài người, tức những gì là thực tại thần linh mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, và trí khôn hạn hẹn không thể nghĩ tới cùng tưởng tượng được, sẽ trở thành bất tận mà họ được hoan hưởng, như chính chàng rể trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, một hoan hưởng mà họ có thể cùng với Thánh Vịnh 32 trong Bài Đáp Ca hôm nay xướng lên như sau:

     

    1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa.

    2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa.

     

    3) Chúa phá tan ý định của các nước, làm cho vô hiệu tư tưởng của chư dân. Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. 

     

     Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    TN.XXLI-6.mp3  

     

    LeThanhAugustino.mp3  

     

     

     

     

     

    LỄ (nhớ) THÁNH ÂU QUỐC TINH 28/8

     

    Thánh Âu Quốc Tinh

    "Vị Giáo Phụ cả thể nhất của Giáo Hội Latinh"

     

    Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 9/1/2008

    Bài Giáo Lý 63 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

     

     

    Hình chính giữa: Thánh Augustino được tấn phong giám mục Hippo Regius (là nước Algeria hiện nay)

    Hình trên bên trái, ngài được thụ phong linh mục; hình dưới bên trái ngài đang giảng có mẹ ngài ngồi bên cạnh;

    Hình trên bên phải, ngài đang nói với em nhỏ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi khó hiểu hơn là việc đổ nước biển vào lỗ cát;

    Hình dưới bên phải ngài đang giảng dạy.

     

     

    Anh chị em thân mến,

     

    Sau những ngày mừng Lễ Giáng Sinh tôi xin trở lại với những bài suy niệm về các Vị Giáo Phụ và hôm nay nói về vị Giáo Phụ cả thể nhất của Giáo Hội Latinh, đó là Thánh Âu Quốc Tinh: một con người hăng say và tin tưởng, một con người rất thông minh và đầy nhiệt tình mục vụ. Vị đại thánh và tiến  sĩ của Giáo Hội này thường nổi tiếng, ít là về tên tuổi, ngay cả bởi những người coi thường Kitô Giáo, hay bởi những người ít quen  thuộc với Kitô Giáo, vì ngài đã sâu xa ảnh hưởng tới đời sống văn  hóa của thế giới Tây phương, và của thế giới nói chung.

     

    Vì tầm quan trọng phi thường của mình, Thánh Âu Quốc Tinh đã gây một ảnh hưởng khổng lố, lớn lao đến nỗi có thể nói, một đàng, tất cả mọi đường nẻo văn chương Latinh Kitô Giáo đều dẫn tới Hippo (ngày nay là Annaba, ở miền duyên hải xứ Algeria), nơi ngài làm giám mục, đàng khác, từ tỉnh lỵ này của Phi Châu Rôma, nơi Thánh Âu Quốc Tinh làm giám mục từ năm 395 đến 430, đã tuôn ra nhiều nẻo đường của tương lai Kitô Giáo cũng như của chính văn hóa Tây Phương.

     

    Ít khi nào thấy một nền văn hóa đã gặp gỡ một nhân vật quá vĩ đại, đến nỗi có khả năng bao gồm những thứ giá trị của nó, cũng như có khả năng truyền bá sự phong phú nội tại của nó, khi hình thành những ý nghĩ cùng với các phương pháp giúp vào việc dinh dưỡng các thế hệ mai hậu, như Đức Phaolô VI cũng đã nhấn mạnh: “Người ta có thể nói là tất cả mọi thứ triết lý cổ thời đều qui tụ lại nơi công cuộc của ngài, và từ đó xuất phát ra những luồng tư tưởng thấm đẫm truyền thống tín lý của các thế kỷ về sau” (AAS, 62, 1970, trang 426).

     

    Ngoài ra, Thánh Âu Quốc Tinh là vị Giáo Phụ của Hội Thánh đã để lại số lượng tác phẩm nhiều nhất. Tiểu sử gia của ngài là Possidius nói rằng: hầu như không thể nào mà một người có thể viết quá nhiều trong đời sống của mình như thế. Chúng ta sẽ nói về các tác phẩm khác nhau của ngài trong một buổi khác sau này. Hôm nay, chúng ta tập trung vào đời sống của ngài, một đời sống chúng ta có thể tái cấu trúc theo các tác phẩm của ngài, nhất là từ cuốn “Tự Thú”, một tác phẩm tự thuật về mặt thiêng liêng nổi bật của ngài, được viết để chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, và là tác phẩm phổ biến nhất của ngài.

     

    Chính vì chú trọng tới tính chất nội tâm và tâm lý, mà cuốn “Tự Thú” của Thánh Âu Quốc Tinh mới là một mô thức đặc thù nơi văn chương Tây phương lẫn ngoài Tây phương, thậm chí bao gồm cả văn  chương vô đạo, ngay cả tới thời đại tân tiến ngày nay. Vấn đề tập trung vào đời sống thiêng liêng, vào mầu nhiệm về bản thân mình, vào mầu nhiệm của Thiên Chúa, ẩn nấp trong bản thân  mình, là một điều phi thường vô tiền, và vẫn còn có thể nói là “tột đỉnh” về phương diện tâm linh.

     

    Thế nhưng, trở lại với đời sống của ngài, Thánh Âu Quốc Tinh được sinh ra tại Tagaste – tại một địa hạt thuộc đế quốc Rôma ở Phi Châu – vào ngày 13/11/354, con của ông Patrick, một người ngoại sau trở thành một người dự tòng, và bà Monica, một Kitô hữu nhiệt thành. Người phụ nữ nhiệt thành này, được tôn kính như một vị thánh, đã ảnh hưởng rất nhiều nơi người con trai của bà và đã giáo dục người con này theo niềm tin Kitô Giáo. Thánh Âu Quốc Tinh cũng đã lãnh nhận muối, như dấu hiệu đón nhận vào thành phần dự tòng. Ngài bao giờ cũng cảm thấy bị thu hút bởi hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô; ngài nói rằng ngài đã luôn luôn mến yêu Chúa Giêsu, thế nhưng, càng lớn ngài càng xa lìa đức tin và việc thực hành của Giáo Hội, như vẫn thường xẩy ra cho nhiều giới trẻ ngày nay. 

     

    Thánh Âu Quốc Tinh cũng có một người anh em là Navigius, và một người chị em mà chúng ta không biết tên, và là người khi góa bụa đã làm đầu của một nữ đan viện.

     

    Thánh Âu Quốc Tinh có một trí thông minh sắc sảo và được giáo dục tốt đẹp, mặc dù ngài không phải lúc nào cũng là một học sinh gương mẫu. Ngài đã học văn phạm, đầu tiên, ở tỉnh nhà của mình, rồi ở Madaurus, và bắt đầu vào năm 370, ngài đã lấy môn ngữ học ở Carthage, thủ đô của đế quốc Rôma ở Phi Châu. Ngài đã thông thạo tiếng Latinh, nhưng không bằng tiếng Hy Lạp hay Punic, ngôn ngữ người đồng hương của ngài.

     

    Chính ở Carthge, ngài đã đọc cuốn “Hortesius” lần đầu tiên, một tác phẩm của Cicero – sau này bị thất lạc – và là cuốn sách khiến ngài bắt đầu con đường hoán cải. Cuốn sách này khơi lên trong ngài một lòng mến yêu sự khôn ngoan, như được ngài xác nhận trong các bản văn là giám mục của mình trong cuốn “Tự Thú”: “Cuốn sách này đã làm thay đổi cảm thức của tôi”, sâu mạnh đến nỗi “đột nhiên, hết mọi thứ hy vọng hão huyền đều chẳng còn là gì đối với tôi nữa, và tôi ước mong được đức khôn ngoan bất tử, bằng một nhiệt tình không thể nào tưởng tưởng nổi nơi tôi” (III, 4, 7).

     

    Thế nhưng, vì ngài tin tưởng rằng, nếu không có Chúa Giêsu thì cũng không thể nào thực sự tìm thấy được chân  lý, và vì trong cuốn sách đó thiếu mất tên tuổi của Người, nên  ngài liền tìm đọc Thánh Kinh, Sách Thánh. Song ngài đã cảm thấy chán nản. Chẳng những bản dịch Latinh Thánh Kinh không đầy đủ, mà còn chính nội dung của Thánh Kinh cũng dường như không làm cho ngài được thỏa nguyện.

     

    Trong các tường thuật về chiến tranh, cùng với những biến cố khác của con người, ngài không thể tìm thấy những gì tột đỉnh của triết học, tìm thấy ánh rạng ngời của việc tìm kiếm sự thật của nó. Tuy nhiên,  ngài lại không muốn thiếu vắng Thiên Chúa, và vì thế ngài đã tìm kiếm một tôn giáo ăn khớp với ước muốn sự thật của ngài, cũng như ước mong được sống gần gũi với Chúa Giêsu.

     

    Ngài đã rơi vào màng lưới của những người theo phái Nhị Nguyên Thuyết, thành phần cho mình là Kitô hữu, và hứa hẹn về một thứ tôn giáo hoàn toàn theo lý trí. Họ khẳng định rằng, thế giới này được chia làm hai nguyên lý: nguyên lý thiện và nguyên lý ác. Đó là những gì giải thích cho thấy tính cách phức tạp rắc rối của lịch sử loài người. Thánh Âu Quốc Tinh cũng thích thứ luân lý lưỡng diện này, vì nó bao gồm một thứ luân lý rất cao đối với những kẻ được tuyển chọn: và đối với những người, như ngài, những người thiết tha với nó, có thể sống một đời sống xứng hợp với các thời điểm, nhất là đối với một con người trẻ. Bởi thế ngài đã thành một thành viên của phái Nhị Nguyên Thuyết, tin tưởng rằng, ngài đã tìm thấy được sự tổng hợp giữa lý trí, việc tìm kiếm chân lý và tình yêu mến Chúa Giêsu Kitô.

     

    Và đời sống riêng tư của ngài cũng có lợi nữa, ở chỗ, đóng vai trò một người Nhị Nguyên Thuyết thì dễ có những cơ hội về nghề nghiệp. Việc gắn bó với thứ đạo giáo này, một đạo giáo bao gồm nhiều nhân vật tiếng tăm, đã khiến ngài bắt đầu theo đuổi mối liên hệ với một người nữ, và tiếp tục nghề nghiệp của ngài. Ngài đã có một người con trai tên là Adeodatus với người đàn bà ấy, nó rất thân thương đối với ngài, rất ư là thông minh, và là người sau đó hiện diện trong cuộc dọn mình lãnh nhận Phép Rửa của Thánh Âu Quốc Tinh ở Lake Como, trở thành yếu tố cho “những Cuộc Đối Thoại” được Thánh Âu Quốc Tinh lưu lại cho chúng ta. Tiếc thay, người con trai này đã bị chết yểu.

     

    Sau khi dạy văn phạm ở tỉnh nhà của mình vào tuổi 20, ngài đã sớm trở lại Carthage là nơi ngài đã trở thành một bậc thày khôn ngoan và nổi danh về ngôn ngữ học. Tuy nhiên, qua giòng thời gian, Thánh Âu Quốc Tinh đã xa rời niềm tin tưởng của phái Nhị Nguyên Thuyết. Nó làm cho ngài không được thỏa mãn về lý trí, vì nó thực sự không giải quyết được những ngờ vực của ngài. Ngài đã di chuyển tới Rôma, rồi tới Milan, nơi ngài đã chiếm được vị trí thế giá trong triều đình của hoàng đế, nhờ những lời khuyên dụ của vị thống đốc Rôma, là một con người ngoại đạo tên là Symmachus, nhân vật hận thù vị giám mục ở Milan là Thánh Ambrôsiô.

     

    Thoạt tiên, vì muốn trau dồi thêm khả năng vốn liếng về ngữ từ học của mình, Thánh Âu Quốc Tinh đã bắt đầu tham dự các bài diễn thuyết hùng hồn của Giám Mục Ambrose, vị đã từng là đại diện của hoàng đế ở miền Bắc Ý quốc; ngài đã cảm thấy bị thu hút bởi những lời lẽ của thánh nhân, chẳng những vì tính cách lợi khẩu của chúng, mà còn vì nó đánh động lòng của ngài nữa. Vấn đề chính yếu của Cựu Ước – ở chỗ thiếu tính cách hùng biện và cao độ triết học – đã tự giải tỏa nơi các bài nói của Thánh Ambrôsiô, nhờ những dẫn giải theo khoa biểu tượng học của Cựu Ước, ở chỗ, Thánh Âu Quốc Tinh đã hiểu được rằng, Cựu Ước là một cuộc hành trình tiến đến với Chúa Giêsu Kitô. Bởi thế, ngài đã thấy được cái then chốt để hiểu vẻ đẹp, chiều sâu triết lý nơi Cựu Ước, và ngài đã hiểu được mối hiệp nhất về mầu nhiệm của Chúa Kitô trong lịch sử, cùng với sự tổng hợp giữa triết học, lý trí và đức tin nơi Lời, nơi Chúa Kitô, Lời hằng hữu đã hóa thành nhục thể.

     

    Thánh Âu Quốc Tinh đã mau chóng nhận ra được cách đọc Thánh Kinh theo kiểu ẩn dụ và triết lý tân Plato, như cách của vị giám mục thành Milan đã giúp ngài giải quyết được những khó khăn về trí óc ngài gặp phải vào thời còn trẻ, khi ngài mới chạm tới các bản văn thánh kinh mà ngài cho rằng bất khả khắc phục.

     

    Thánh Âu Quốc Tinh đã tiếp tục đọc các tác phẩm của những vị triết gia cùng với Thánh Kinh, nhất là những thư của Thánh Phaolô. Việc trở lại với Kitô Giáo của ngài, ngày 15/8/386, bởi thế xẩy ra ở tột đỉnh của một cuộc hành trình nội tâm lâu dài và trăn trở, sẽ được chúng ta nói tới ở một bài giáo lý khác; con người Phi Châu này đã di chuyển tới xứ sở ở phía bắc Thành Milan gần Lake Como – với người mẹ của ngài là Monica, với người con trai của ngài là Adeodatus, và một nhóm nhỏ bạn hữu – để sửa soạn lãnh nhận phép rửa. Vào năm 32 tuổi, Thánh Âu Quốc Tinh đã trở thành Kitô hữu bởi Thánh Ambrose ngày 24/4/387, trong thánh lễ vọng Phục Sinh ở Vương Cung Thánh Đường thành Milan.

     

    Sau biến cố rửa tội của mình, Thánh Âu Quốc Tinh quyết định trở về Phi Châu với bạn bè của ngài, với ý định là sẽ thực hành một đời sống đan tu chung để phục vụ Thiên Chúa. Thế nhưng, ở Ostia, trong khi chờ đợi lên đường thì mẹ của ngài đột nhiên lâm trọng bệnh, và qua đời ít lâu sau, làm cho tâm can của người con trai của bà quằn quại nhức nhối.

     

    Trở về quê hương xứ sở của mình, ngài đã lưu ngụ ở Hippo để lập một đan viện. Ở tỉnh lỵ miền duyên hải Phi Châu này, ngài đã được thụ phong linh mục vào năm 391, bất chấp việc chối từ của ngài, và bắt đầu một đời sống đan tu với một số bạn hữu, chia giờ giấc của mình ra để nguyện cầu, học hỏi và giảng dạy. Ngài chỉ muốn phục vụ chân lý mà thôi, chứ ngài không cảm thấy được kêu gọi sống đời mục vụ; thế rồi, ngài đã hiểu rằng, ơn gọi của Thiên Chúa đó là trở thành một vị mục tử giữa con người và cống hiến cho họ tặng ân chân lý.

     

    Bốn  năm sau, vào năm 395, ngài được tấn phong giám mục ở Hippo. Sâu xa học hỏi Thánh Kinh, và các bản văn của truyền thống Kitô Giáo, Thánh Âu Quốc Tinh đã là một vị giám mục gương mẫu trong việc dấn thân mục vụ không ngừng của ngài: Ngài đã giảng dạy tín hữu mấy lần một tuần, ngài đã giúp kẻ nghèo khổ và mồ côi, ngài đã theo dõi việc giáo huấn hàng giáo sĩ, và tổ chức các đan viện nữ giới cũng như nam giới.

     

    Tóm lại, ngài quyết tâm trở thành một trong con người đại diện quan trọng nhất của Kitô Giáo trong thời của ngài, ở chỗ, khi tỏ ra rất năng động trong việc cai quản giáo phận của ngài – với những thành quả đáng kể cả về dân sự nữa – trên 30 năm thuộc hàng giáo phẩm, vị giám mục thành Hippo này đã gây được một ảnh hưởng lớn lao to tát trong vai trò lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo ở Phi Châu Rôma, nói chung ở Kitô Giáo vào thời của ngài, đối đầu với Manichaeism, Donatism và Pelagianism, là những bè rối đang tác hại đức tin Kitô Giáo, cũng như đến Vị Thiên Chúa duy nhất đầy ân sủng. Thánh Âu Quốc Tinh đã phó thác bản thân mình cho Thiên Chúa hằng ngày, cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời ngài. Ngài đã bị lên cơn sốt, trong khi thành Hippo đang bị các kẻ xâm chiếm công hãm. Vị giám mục này – như người bạn của ngài là Possidius cho chúng ta biết ở cuốn “Cuộc Đời Âu Quốc Tinh – Vita Augustini” – đã xin sao chép thành những chữ lớn các bài thánh vịnh thống hối, “và ngài đã cắm những tờ giấy ấy lên tường, để trong khi bị bệnh, ngài có thể đọc chúng đang khi nằm trên giường, và ngài đã không ngừng kêu khóc bằng những giọt lệ nồng” (31,2); đó là cách Thánh Âu Quốc Tinh đã sống những ngày cuối đời của ngài. Ngài đã chết vào ngày 28/8/430, hưởng thọ 75 tuổi. Chúng ta sẽ giành các buổi tới để chia sẻ về những tác phẩm của ngài, sứ điệp của ngài và cảm nghiệm nội tâm của ngài. 

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/1/2008

     


SỐNG TỈNH THỨC - DẤU CHÂN CỦA CHÚA

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Tue, Aug 25 at 11:42 PM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    NHỮNG DẤU CHÂN CỦA CHÚA

    Có bao giờ bạn cảm thấy như Chúa bỏ rơi bạn không ? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc bạn thật là cần thiết đến Ngài. Giữa những lúc túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bạn kêu cầu: Lạy Chúa, xin đừng để chuyện này xảy đến cho con. Nhưng chuyện vẫn xảy ra. Dường như lúc nào bạn cũng đứng về phe thua bại. Bạn hãy nghe câu chuyện sau đây:
     
    Ðêm nọ, có một người thấy một giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Nhìn lên bầu trời, anh thấy những cảnh sống trong đời mình được chiếu lên. Trong mỗi cảnh sống trong đó, anh ta thấy có hai đôi dấu chân in trên cát, một đôi của anh, còn đôi kia của Chúa.
     
    Khi cảnh cuối cùng trên đời anh chấm dứt, anh nhìn lại những dấu chân đã in trên cát và anh nhận thấy rằng, rất nhiều lần trong cuộc đời anh, anh thấy chỉ có một đôi dấu chân mà thôi. Anh cũng để ý và thấy rằng đó chính là những lúc cuộc đời anh xuống thấp nhất, với thời gian buồn chán đau khổ nhất. Anh hoang mang hỏi Chúa:
     
    - Thưa Chúa, Chúa đã nói rằng một khi con quyết định theo Chúa thì Chúa sẽ cùng bước đi với con suốt mọi chặng đường của đời con. Nhưng con nhận thấy rằng, trong những giai đoạn rối ren nhất của đời con, chỉ vẻn vẹn có đôi chân của con mà thôi. Con không hiểu tại sao những lúc con cần đến Chúa hơn cả lại chính là lúc Chúa từ bỏ con.
     
    Chúa ôn tồn trả lời:
     
    - Hỡi con yêu dấu, ta yêu thương con và không bao giờ lìa bỏ con đâu. Trong những thời gian thử thách nhất, khi con thấy chỉ có một đôi dấu chân, đó chính là lúc Ta bồng ẵm con trên tay Ta. Dấu chân trên cát lúc ấy là của chính Ta chứ không phải của con đâu.
     
    Bạn thân mến, xin bạn hãy nhớ lời Chúa Giêsu dạy: "Ta chẳng lìa con, chẳng bỏ con bao giờ" (Dt 13,5).
     
    Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: "Chúa hằng hữu bênh vực tôi, tôi còn sợ loài người làm chi tôi nữa" (Tv 118,6).
     
    Khi bạn rối trí ngã lòng và cảm thấy lạc lõng, hãy nhìn cho kỹ bạn sẽ thấy chỉ còn có đôi chân của Chúa trên bãi cát của cuộc đời bạn, vì Chúa đang bồng ẵm bạn trên tay Ngài.
    SUY TƯ VÀ CẦU NGUYỆN
     

 

SỐNG TỈNH THỨC - KHÔNG BIẾT GIỜ CHẾT

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Thu, Aug 20 at 2:03 AM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     
    ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA

    KHÔNG AI BIẾT TRƯỚC SẼ CHẾT GIỜ NÀO.

     I. Sự chết đến như kẻ trộm.

     Mỗi người chúng ta sẽ chết. Điều chắc chắn nhất là chúng ta sẽ chết, nhưng chết vào giờ nào thì không ai biết chắc được. Để chung ta luôn sửa soạn sẵn sàng, Thánh Phaolô đã nói với chúng ta:“Chính anh chị em đã rõ: ngày của Chúa sẽ đến bất ngờ, như kẻ trộm lúc đêm khuya.” ( I- Thê-xa-lô-ni 5 : 2).

     Chúa bảo chúng ta : Hãy tỉnh thức, vì Con Người sẽ đến phán-xét chúng ta vào giờ chúng ta không ngờ. (Luca 12 : 40)

     Thánh Grêgory đã nói:“Chúng ta không biết trước sẽ chết giờ nào, để chúng ta luôn chuẩn-bị sẵn sàng.”

     Thánh Bênađô nói rằng vì chúng ta có thể chết bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên muốn chết lành, được cứu rỗi, phải sẵn sàng đón nhận sự chết: “Thần chết đến bất cứ giờ nào, bất cứ ở đâu, nên chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi nó.”

     II. Giờ chết còn xa ?

     Ai cũng biết mình sẽ chết. Nhưng điều tai hại là nhiều người cứ tưởng sự chết còn quá xa, xa tít quá tầm mắt mình. Ngay cả những người già cả, những người đau yếu tật-nguyền cũng muốn nghĩ rằng: họ còn sống ít ra 3, 4 năm nữa. Nhưng biết đâu sẽ chết ngay ngày hôm nay vào lúc bất ngờ nhất; người chết đang ngồi, kẻ chết lúc đang ngủ….

     Bạn thân mến, ma quỷ thường lừa dối lúc cám-dỗ rằng ngày mai ta sẽ đi xưng tội, hãy dứt khoát trả lời ngay với nó: “Ai biết được: hôm nay không phải là ngày cuối của đời tôi?”

     Vào giờ đó, lúc đó tôi quay lưng lại với Chúa, ai biết được, chính là giờ phút cuối cùng của đời tôi. Tôi còn thời giờ đâu để hối lỗi và số phận đời đời tôi thế nào? Chính vào lúc cắn phải mồi độc mà thần chết đã đến cho một số tội-nhân khốn-nạn, đẩy họ xuống địa-ngục: “Như cá mắc câu, người tội-lỗi bị mang đi vào giờ tội-lỗi của nó.” (Giảng viên 9: 12)

     Ma quỷ đánh lừa người tội-lỗi rằng trường hợp rủi-ro đó không xảy đến cho bạn đâu, hãy trả lời ngay với nó: ”Trường hợp đó rất có thể xảy đến với tôi, số phận đời đời tôi sẽ ra sao?”

     LỜI NGUYỆN THỐNG HỐI.

     Lạy Chúa, con đáng phải sa vào chốn ngục hình vì các tội –lỗi con đã phạm. “Hỏa –ngục là nhà của con”. Nhưng Thánh Phêrô đã ghi: “Thiên Chúa đã nhẫn nại vì anh chị em, để không một ai phải hư đi, trái lại muốn cho hết mọi người ăn-năn hối-cải.” (2/ Phêrô 3 : 9).

     Chúa nhẫn-nại chờ đợi con đến nay vì Chúa không muốn con hư mất, nhưng Chúa muốn con sấp mình xuống dưới chân Chúa và van nài lòng thương xót của Chúa: “Lạy Chúa xin thương xót con theo lượng từ-bi hải-hà của Chúa.”

     Tội lỗi con thật nặng nề vì Chúa đã soi sáng cho con. Những người tội-lỗi khác đáng được khoan-hồng hơn, vì họ chưa được ánh sáng chiếu dọi như con. Lạy Đấng Cứu-Chuộc con, Chúa là đấng vô tội đã chịu chết khồ nhục trên Thập-giá như một tội-nhân, để “máu Đấng vô tội rửa sạch tội-lỗi các tội nhân!”

     Lạy Cha chí nhân! Xin tha thứ cho con vì tình yêu Chúa Giêsu. Xin nghe lời con Chúa, đấng trung-gian bầu-cử và là Trạng-sư của con. Con không những chỉ xin ơn tha thứ, mà con muốn mến Chúa, vì Chúa là Đấng rất đáng mến yêu. Từ đây, con xin hiến dâng hồn xác con, ý muốn và cả sự tự-do cho Chúa. Từ đây, con xin xa lánh các dịp hiểm nghèo “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.”

    Tác giả: Thánh An-Phong-Xô Li-go-ri  
    (Phêrô Bùi-Đắc-Hữu, dịch)
     

 

SỐNG TỈNH THỨC - CN21TN-A-BẠN MƠ

  •  
    Mo Nguyen
     
    Sun, Aug 23 at 1:50 AM
     
     

    CN 21A: Phêrô là Đá : Đá quy tụ, Đá hợp nhất.

    Nếu ta nhìn vào Tivi cách đây hơn chục năm, hoặc xem băng hình ghi lại các chuyến đi của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II trong những năm cuối đời của ngài, hẳn ta sẽ nhìn thấy cây gậy của Đức giáo hoàng trở thành hữu dụng. Ngài chống và tựa trên chiếc gậy đó. Gậy không còn là biểu tượng cho quyền chăn chiên, quyền dẫn dắt, như ta thấy các giám mục vẫn thường dùng. Vị Giám mục Roma Gioan Phaolô II  dùng gậy để chống đỡ chính mình.
                Hình ảnh ĐGH Gioan Phaolô II về già chống và tựa cả thân mình trên chiếc gậy đó, có diễn tả được điều mà Tin Mừng hôm nay nói về Phêrô mà ĐGH là người kế vị không : Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy và cửa địa ngục không thể phá được. Nếu Phêrô là Đá Tảng, thì kẻ kế vị người, cũng là tảng đá. ĐGH là đá tảng.
                Nếu tảng đá được ví như cái gì chắc chắn, cho người khác tựa nương vào, thì với hình ảnh ĐGH Gioan Phaolô II khi vượt qua ngưỡng cửa bát tuần, đã bết bát về sức khoẻ thể lý, lúc nào cũng phải tựa nương vào chiếc gậy, có còn là hình ảnh của tảng đá cho người khác tựa nương hay không ? Hẳn là khó hình dung tưởng tượng.
                Nhưng tảng đá, ngoài ý nghĩa vững chắc, tựa nương, thì tảng đá còn có một ý nghĩa khác không kém phần quan yếu. Đó là : Tảng đá là nơi qui tụ. Tảng đá là nơi hợp nhất.

    1. Tảng đá qui tụ

    Tảng đá như nền nhà, quy tụ gạch xi măng, cát, sắt… để làm thành căn nhà. Căn nhà trong mạch ý Tin Mừng hôm nay chính là Hội Thánh.
    Nếu Đức Gioan Phaolô không diễn được hình ảnh tảng đá cho người ta tựa vào, thì hình ảnh cụ già Wojtyla trên 80 tuổi vẫn và có khi còn hơn thế nữa, trở nên rõ nét hình ảnh của tảng đá qui tụ. Bởi tâm lý chung, nhất là tâm lý người Việt, người ta quy tụ về nhà người bô lão, chứ không tụ họp nơi nhà đám trẻ (giống như Tết nhất tới, người ta qui tụ về nhà ông bà để chúc thọ). Người bô lão là yếu tố thuận lợi để tụ hội, hợp nhất.
    Chẳng thế mà, tuy tuổi đã cao, rất cao, lại yếu ớt, nhưng Đức Gioan Phaolô đi đến đâu là qui tụ cả rừng người đến đó (ta không nhắc đến ĐGH đương kim vì tuy đã quá bát tuần, nhưng còn mạnh khoẻ chưa phải “chống” gậy !). Chục nghìn, trăm nghìn, nghìn nghìn. Triệu này triệu kia. Điều này thật đúng khi giới trẻ ùn ùn kéo tới với ngài trong các đại hội giới trẻ. Mehico, St Louis, Compostella, và đặc biệt tại Đại Hội giới trẻ tại Paris, Pháp 1997. Đặc biệt không phải vì con số, mà vì sức lôi cuốn không ngờ.  Trước ngày Đại Hội ít lâu, một nhà báo vô thần đã nhận xét về bầu khí xuống dốc của người Công giáo ở Pháp, và đoan chắc rằng đại hội sẽ rất ít người. Và với con số may ra được khoảng 100.000 người đến dự, thì bõ bèn gì để một vị giáo chủ già nua phải lần mò chống gậy sang tận Paris cho tốn công tốn sức. Nhưng rồi chuyện kinh ngạc đã xảy ra: Trên một triệu người trẻ tuốn về qui tụ tại Paris để gặp gỡ ĐGH, tảng đá qui tụ. Đại Hội sau đó 2000, con số bạn trẻ tụ họp tại Roma vượt xa con số này, trở thành kỉ lục với hơn 3 triệu người tham dự thánh lễ bế mạc.  Ấy là ta chỉ kể tảng đá Phêrô qui tụ bạn trẻ, còn cả người lớn nữa, thì con số hẳn là hơn nhiều. Cụ thể, cụ già Wojtyla (tức ĐGH Gioan Phaolô 2) về thăm quê hương Balan lần thứ 9, qui tụ cả rừng người : hơn 3 triệu người tham dự thánh lễ tại Krakovia, giáo phận cũ của ngài trước khi về làm giám mục Roma. Một ông già qui tụ được bạn trẻ, lại nhiều người đến như thế, nghĩa là gì, nếu ngài không phải là tảng đá qui tụ.
    Phát ngôn viên Tòa Thánh lúc đó, tiến sĩ Navaro Valls đã nhận xét : “Sức khỏe của ngài xuống hẳn, nhưng cảm ơn Chúa, điều đó không cản trở công việc của ngài. Tay bị run (vì bệnh Parkinson) phát âm nhiều chữ không rõ, nhưng đây có khi lại giúp ngài nói được với dân chúng hùng hồn hơn ở chiều kích mới.”  “Cảm tưởng của tôi,” lời giáo sư Navaro Valls, “là khi người ta thấy tay ngài run, thì mọi thành quách bên trong của họ bị sụp đổ hết. Cánh tay run, đôi chân không vững phải tựa vào gậy lại có tác dụng mạnh hơn thân hình cường tráng của ngài cách đây hơn 20 năm khi mới lên nhận nhiệm vụ kế vị Phêrô tảng đá.” Phêrô là tảng đá, tảng đá quy tụ. Hình như càng già càng có khả năng quy tụ ! Nói thế không có nghĩa vị giáo hoàng trẻ tuổi thì ít có khả năng quy tụ hơn, nhưng muốn nói : đã là giáo hoàng, đấng kế vị Phêrô Tảng Đá, thì cũng là tảng đá quy tụ muôn người.

    2. Tảng Đá Hợp nhất.
    Qui tụ và hợp nhất có nét giống nhau, nhưng ta tạm phân biệt như sau: qui tụ là từ nhiều nơi trên khắp mặt địa cầu này hội tụ về một chỗ. Hợp nhất là cho dẫu phân tán ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng vẫn hướng về một người, một đích để hợp nhất. Phêrô là đá tảng hợp nhất.
    Khi gọi Phêrô là Đá, trên nền đá này “tập kết” (quy tụ) gạch cát ximăng xây nhà Giáo Hội, Chúa Giêsu còn nói thêm: “quyền lực hỏa ngục không thể phá được.”
                Phân tích có vẻ chú giải Kinh Thánh một chút, ta thấy trong hỏa ngục có ma quỷ.  Hỏa ngục không thể phá đổ được, tức ma quỷ không thể lật nhào Hội Thánh được. Mà ma quỷ tiếng Hilạp là Diabolos  (dia: xuyên qua; bolein=bolo=ném), tức kẻ gây chia rẽ, kẻ gây rối.
    Trong ý hướng tảng đá hợp nhất, ta sẽ diễn dịch lại lời Chúa Giêsu như sau: Con là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây một Giáo Hội duy nhất, Kẻ Phá Rối, kẻ gây Chia Rẽ không đời nào phá vỡ nổi sự hợp nhất ta xây dựng.
    Thử điểm lại các tôn giáo trên thế giới, và cách riêng Kitô giáo thôi, ta thấy không có Hội thánh nào khác ngoài Hội Thánh Công Giáo Roma có sự hợp nhất hữu hình này.
    Ví dụ Anh Giáo, với cơ cấu có 7 Bí Tích như công giáo (như về con số 7 chứ không phải như về tính thành sự), họ có 27 Giáo Hội khắp nơi. Nhưng họ đâu có một con người hữu hình, một điểm nhắm cụ thể để họ hướng về đâu. Anh Giáo tại Mỹ, đâu có lệ thuộc gì Anh Giáo tại Anh quốc là nơi phát sinh ra Anh Giáo. Anh Giáo tại Úc không liên hệ gì tới Mỹ, tới Anh. Họ toàn quyền tổ chức, họ phong chức giám mục cho cả người nữ nữa, điều mà Anh Giáo gốc tại Anh Quốc chưa dám (chỉ mới phong chức linh mục cho nữ thhôi).
    Ví dụ như Chính Thống với 13 Lễ chế khác nhau, và ngay cả cùng một lễ chế, như lễ chế Byzantin mà ở 2 nước khác nhau thôi, thì Chính Thống Rumani chẳng cần hướng lòng mình về Chính Thống Nga. Chính Thống Nga chẳng cần ngó xem Chính Thống Constantinop (hiện ở Thổ Nhĩ Kì, nôi của Chính Thống Giáo) làm gì để noi theo. Mỗi nước có một giáo hội Chính Thống độc lập. Họ có liên kết với nhau cũng rất lỏng lẻo, và chỉ là liên kết trên phiên họp lâu lâu (mấy trăm năm…) một lần.
    Còn Tin Lành thì càng khó thấy sự hợp nhất. Mấy trăm giáo phái khác nhau là mấy ngàn thế giới: nào là Lutheran, Presbyterian, Methodist, Baptist, Phục Lâm ngày thứ 7… Mỗi giáo phái là một thế giới, mà hơn thế nữa, mỗi giáo phái tại mỗi nước, lại không lệ thuộc gì, không hợp nhất gì với cùng một giáo phái đó, tại các nước khác. Ranh giới quôc gia phân chia luôn ranh giới đạo giáo. (Và còn nhỏ hơn, trong cùng một nước, mà tỉnh này khác tỉnh kia. Vd: Hội Thánh Tin Lành Trần Hưng Đạo và Hội Thánh Tin Lành Tân Bình, đâu nhất thiết phải hợp nhất với nhau.)
    Tóm lại các Hội Thánh kể trên chỉ có cấp quốc gia mà không có cấp hoàn vũ. Trong khi đó, Hội Thánh Công Giáo, dù ở chân trời góc biển nào, dù màu da khác nhau tương phản, đều qui về, đều hợp nhất dưới một con người hữu hình, mang danh hiệu đấng kế vị Phêrô, Tảng Đá hợp nhất.  Đây là nét trổi vượt, tính hơn hẳn, là lợi thế của Hội Thánh Công Giáo Roma trên con đường hợp nhất Kitô hữu, đến nỗi có thành ngữ, đường nào cũng dẫn tới Roma.  
    Sách Giáo Lý Chung, số 882, nói về ĐGH như sau: “Đức thánh cha, giám mục của Roma, kẻ kế vị Phêrô, là nguồn mạch và nền tảng hữu hình và vĩnh cửu về sự hợp nhất giữa các giám mục và sự hợp nhất của toàn thể cộng đoàn tín hữu.”
                  Anh là Phêrô nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Ta đã diễn dịch lại rằng “Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây một Hội Thánh duy nhất, tên Phá Rối, tên Gây Chia Rẽ không đời nào phá vỡ nổi sự hợp nhất Thầy xây dựng.”
                Trong Kinh Tạ ơn của bất cứ thánh lễ nào, cử hành bằng bất cứ ngôn ngữ nào: Tây Tàu Mỹ, Lào, Campuchia, K’hor, H’Mong… đều có một lời cầu cho ĐGH, Tảng Đá hợp nhất. Ta hãy đặc biệt hợp lòng. Và ta hãy long trọng tuyên xưng rằng ta tin vào một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, mà trong đó nét trổi vượt chính là sự hợp nhất, do bởi có ĐGH là đá tảng hợp nhất, tảng đá qui tụ. Amen.

    Anphong Nguyễn Công Minh, ofm


     

SỐNG TỈNH THỨC - BẠN MƠ--ĐỨC TIN MẠNH

  •  
    Mo Nguyen
    Sat, Aug 15 at 4:27 PM
     
     

    CN 20A. Đức tin mạnh, đức tin yếu. Làm sao để yếu thành mạnh

     

    Có một lời ca mà ta nghe rất quen, của Y-Vân : “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào, Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.” Lời ca đó có thể dẫn ta đến một người mẹ mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc tới : bà mẹ người ngoại, người Canaan. Bà bất chấp tất cả, bất chấp nhục nhã để đi van xin cho con gái của bà b qu ám được cha lành. Chc bà này đã đi nhìu thy, chạy nhiu thuc mà tin mất tật mang. C xem cách mô t trong bài Tin Mừng hôm nay thì rõ. Bởi vì ln đến vi ông thy Giêsu này, bà đã t ra lão luyn trong ngh van xin đến độ Chúa phi khen : “Lòng tin của bà mnh tht !” Thật đẹp, tht phúc biết bao nếu Đức Giêsu cũng nói câu đó vi tôi, “Lòng tin của con mạnh tht !” Nói như thế, tức là có nhng người “lòng tin ca ngươi yếu quá !” Vậy ta s tr li 2 câu hi : (1) Tại sao có người lòng tin mạnh, có người lòng tin yếu ; và câu (2) quan yếu hơn : nếu lòng tin yếu, có cách nào làm cho mnh không ?

     

    1. Tại sao có người lòng tin mạnh, có người lòng tin yếu.

    Ta phải giới hạn để nâng câu hỏi này lên hàng “thiêng liêng.” Đức tin khác lòng tin. Giữa người với người là lòng tin. Giữa người với đấng Tối Cao là đức tin. Tại sao có những người đức tin thật mạnh mà có những người đức tin yếu kém. Hỏi đổi lời : “Tại sao có những người dễ dàng tin vào Chúa vào Mẹ. Còn có những người cảm thấy rất khó khăn để tin Chúa tin Mẹ ?”

    Câu hỏi này cũng giống như câu hỏi : Tại sao có những người thật mập mạp khoẻ mạnh lại cũng có những người khẳng khiu ốm yếu ?

    Họ khẳng khiu ốm yếu là do cha mẹ họ. Họ thừa hưởng một thân xác eo xèo của mẹ của cha. Cha nào con nấy. Cha gầy gò, con ốm yếu. Nhưng cũng có những người ốm yếu vì chính họ không biết chăm sóc sức khoẻ cho chính mình.

    Điều đúng cho sức khoẻ thể lý thế nào thì cũng gần đúng cho sức khoẻ tâm linh, tức đức tin của chúng ta thể ấy. Một số người đức tin yếu kém là do cha mẹ tổ tiên của họ. Cha mẹ có đức tin loại ba cọc ba đồng thì đức tin của con cái làm sao mạnh mẽ được. Đức tin của cha là loại “con quì lạy Chúa Ba Ngôi, con lấy được vợ con thôi nhà thờ” thì con cái họ sinh ra làm sao có được lòng tin vào Chúa vào Mẹ vững mạnh được. Người ta nhận xét, những Giáo hội có tổ tiên là những vị tử đạo, thì đức tin của Giáo hội đó vững mạnh. Giáo hội Việt Nam thừa hưởng đức tin 117 vị thánh Tử đạo, 2000 người tử đạo khác đã có hồ sơ chờ xin phong thánh và cả trăm ngàn người chưa có hồ sơ. Đại Hàn với 103 vị thánh tử đạo là tổ tiên, và cách đây 3 năm, 16-8-2014, đức giáo hoàng Phanxicô đến Đại Hàn để phong chân phước cho 124 vị tử đạo nữa, khiến con dân Giáo hội Đại Hàn có một đức tin kiên vững, bậc nhất ở Á Châu này. Đức tin cũng như sức khoẻ phải vun đắp. Thừa hưởng đức tin bất khuất từ cha ông, mà không tài bồi vun đắp thì đức tin cũng lung lay yếu ớt. Đến đây ta qua câu hỏi 2.

     

    2. Nếu đức tin yếu, có cách nào làm cho mạnh không ?

    Thưa có, và phải như vậy. Một cơ bắp nếu không hoạt động không tập luyện thì sẽ yếu dần, có thể đi đến co rút lại. Một đức tin không củng cố sẽ lắc lư giữa dòng đời đầy cạm bẫy làm mình xa Chúa. Vậy đức tin năng tập luyện cũng sẽ thành đức tin mạnh. Học hỏi bàn luận suy niệm về Lời Chúa như chúng ta đang làm đây ; tham dự thánh lễ với phần dâng lễ ít phút nữa cách chăm chú sốt sắng hơn ; cầu nguyện mỗi ngày để trở thành thói quen trong đời sống… tất cả đều có thể làm đức tin mạnh hơn. Và còn một cách tập luyện đức tin xem ra hữu hiệu hơn. Đó cũng là cách chúng ta muốn nói hôm nay, Dostoievski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có bàn tới cách này.

    Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến một bà lão, sức khoẻ thiêng liêng (đức tin) suy thoái cùng với sức khoẻ thể xác (càng già đức tin càng yếu…). Ngày nọ bà bàn luận vấn đề này với một vị linh mục cũng già tên là Zossima. Bà nói với linh mục về đức tin yếu kém và những ngờ vực của bà mới phát sinh khi … già: “Thiên Chúa có hay không ? Ngài có quan tâm đến tôi ? Có gì sau khi chết không ?”

    Linh mục già lắng nghe, cảm thông và nói với bà: Chẳng có cách nào chứng minh rõ ràng những điều bà thắc mắc. Nhưng bà vẫn có thể tin những điều đó cách vững vàng hơn.

    -Bằng cách nào ? bà giả hỏi.

    -“Bằng yêu thương. Hãy cố gắng yêu người láng giềng của bà thật tình và bà sẽ nhận thấy có Chúa thật. Có một tương lai huy hoàng sau khi chết. Đây là điều chắc chắn, đã được thể nghiệm và đã có kết quả”.

    Linh mục già Zossima nói thật chí lí. Càng yêu nhiều thì càng tin mạnh. Tin và yêu đi đôi với nhau như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này là thấy rõ cái kia. Người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng hôm nay mà Chúa khen đức tin mạnh thật cũng là người yêu thật mạnh. Bà không xin Chúa cho bà mà bà xin cho con bà. Lòng mẹ bao la. Bà đã vượt qua cả 3 cửa ải, 3 bước khó để xin cho bằng được :

    -  Bước 1 : Bà xin Chúa, Chúa nín thinh !

    -  Bước 2 : Môn đệ nhắc khéo Chúa để đuổi bà về, Chúa bỏ lửng một câu: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Israel  thôi”

    -  Bước 3 : Khi bà cố nài van nữa để chữa lành cho đứa con bị quỉ ám, thì Chúa cho một cú “ân huệ” (tức phát súng kết liễu kẻ bị án tử hình) : “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó ăn.” Tưởng rằng cú ân huệ này sẽ hạ gục bà mẹ. Ai ngờ bà vẫn sống : “Đúng thế thưa Ngài, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”

    Đức Giêsu thua. Lòng tin bà mạnh thật. Bà tin mạnh vì bà yêu con bà quá sức. Yêu là việc làm của Tin. Đức tin không việc làm là đức tin (yếu). Tin mà không yêu là tin yếu. Muốn tin mạnh thì cũng hãy yêu nhiều. Chắc chắn như vậy. Amen.

     

    Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

     


    Anh chị em thân mến

    Trong khi chúng ta đang tập họp nhau trong nhà thờ này để thờ phượng Chúa, thì có nhiều người khác, tuy cũng là kitô hữu, không có mặt ; và còn biết bao anh chị em người lương chưa biết Chúa.

    Thiên Chúa là Cha của hết mọi người, yêu thương hết mọi người và muốn ban ơn cứu độ cho hết mọi người.

    Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các kitô hữu nguội lạnh trở về với tình thương của Chúa, và cho anh chị em người lương có dịp cảm nếm tình thương của Chúa.

    II. GỢI Ý SÁM HỐI

    - Chúng ta có thành kiến coi thường những người ngoài tôn giáo của chúng ta.

    - Chúng ta không quan tâm giới thiệu Chúa cho lương dân.

    - Nhiều khi cuộc sống của chúng ta còn thua kém người lương nữa.