24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - LỄ ME DÂNG CON

Ngày 2 tháng 2

HỌC HỎI - CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA

Ðức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Trong Ðền Thánh

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4

"Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".

Trích sách Tiên tri Malakhi.

Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10

Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)

Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.

2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.

3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.

4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18

"Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 2,32

Alleluia, alleluia! - Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]

"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".

 

[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. ]

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm 

Mẹ Maria đóng vai trò trong sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu 

 

 

1- Sau khi nhận ra nơi Chúa Giêsu là “ánh sáng chiếu soi các Dân Ngoại” (Lk 2:32), Simêon liền loan báo cho Mẹ Maria biết về cuộc thử thách lớn lao Đấng Thiên Sai phải chịu và tỏ cho Mẹ thấy việc Mẹ tham dự vào định mệnh buồn thương này.

Lời ông ám chỉ đến việc hy sinh cứu chuộc là những gì đã không được đề cập đến ở biến cố Truyền Tin, những lời của ông cho thấy giống như là “Lời Truyền Tin thứ hai” (Redemptoris Mater, 16), lời sẽ làm Người Trinh Nữ hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm Con của mình.

Simêon, vị đã ngỏ lời với tất cả những ai có mặt lúc ấy, sau khi chúc phúc đặc biệt cho Thánh Giuse và Mẹ Maria, bấy giờ mới nói tiên tri với riêng Người Trinh Nữ là Người sẽ thông phần vào định mệnh với Con của Người. Được Thánh Linh thần hứng, ông đã loan báo cho Người Trinh Nữ rằng: “Này con trẻ sẽ là mục tiêu cho nhiều người trong Yến Duyên vấp ngã và chỗi dậy, và là dấu hiệu phản trắc (và sẽ có một lưỡi gươm đâm thâu qua lòng bà), làm bộc lộ tâm tưởng của nhiều người” (Lk 2:34-35).

2- Những lời này đã báo trước một tương lai khổ đau sẽ xẩy ra cho Đấng Thiên Sai. Thật vậy, Người là một “dấu hiệu phản trắc” phải đối đầu với việc nghiệt ngã chống đối của người đồng thời. Thế nhưng, cùng với cuộc khổ đau của Chúa Kitô, Simêon còn nêu lên một viễn tượng về tấm lòng của Mẹ Maria sẽ bị gươm sắc đâu thâu, như thế là ông đã liên kết Người Mẹ với định mệnh đau thương của Người Con.

Bởi vậy, trong khi con người lão thành đáng kính này thấy trước được cảnh thù hận nổi dậy khiến Đấng Thiên Sai phải đối diện, ông muốn nhấn mạnh đến cái âm dội của sự kiện này tác dụng trên tấm lòng của Người Mẹ. Cuộc khổ đau của người mẹ này sẽ lên đến tột đỉnh nơi Cuộc Vượt Qua, lúc mà Mẹ hiệp nhất với Con Mẹ trong hy tế cứu chuộc của Người. 

Những lời của Simêon, được Phúc Âm Thánh Luca ghi nhận ở đoạn 2 câu 32, đoạn phản ảnh những bài ca về Người Tôi Tớ Chúa (x Is 42:6, 49:6), những lời nhắc nhở chúng ta lời tiên tri về Người Tôi Tớ Khổ Đau (Is 52:13, 53:12), Đấng, “bị thương tích bởi những vấp phạm của chúng ta” (Is 53:5), “biến mình thành một của lễ đền bù tội lỗi” (Is 53:10), bằng việc hy sinh bản thân mình và là việc hy sinh linh thiêng hoàn toàn vượt hơn các hy tế về lễ nghi xưa kia.

Ở đây chúng ta có thể thấy được lời tiên tri của Simêon giúp cho chúng ta ra sao trong việc chúng ta thoáng thấy nơi nỗi khổ đau trong tương lai của Đức Maria cái tính cách tương tự đặc thù giống như nỗi sầu đau sau này của “Người Tôi Tớ”.
 

   

3- Mẹ Maria và Thánh Giuse đã ngỡ ngàng khi nghe thấy Simêon tuyên bố Chúa Giêsu là “ánh sáng chiếu soi các Dân Ngoại” (Lk 2:32). Đối với lời tiên tri về lưỡi gươm thâu qua lòng mình, Mẹ Maria lại không nói một lời nào. Cùng với Thánh Giuse, Mẹ âm thầm chấp nhận những lời bí nhiệm ấy, những lời tiên đoán về một cuộc thử thách hết sức khổ đau và là những lời đặt cuộc Dâng Hiến Chúa Giêsu trong đền thờ vào đúng ý nghĩa đích thực nhất của nó.

Thật vậy, theo dự án thần linh thì của lễ hy sinh được hiến dâng bấy giờ, “theo những gì được qui định trong lề luật Chúa là ‘một đôi chim gáy hay cặp bồ câu non’” (Lk 2:24), những gì cho thấy trước hy tế của Chúa Giêsu, “vì Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11:29); nơi của lễ hy sinh ấụy “cuộc hiến dâng” đích thực sẽ được thực hiện (x Lk 2:22), một cuộc hiến dâng sẽ có Người Mẹ hiệp với Con mình trong công cuộc Cứu Chuộc.

4- Lời tiên tri của Simêon được công bố trước khi xẩy ra cuộc gặp gỡ bà tiên tri Anna: “Bà dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và nói về Ngài cho tất cả những ai đang trông đợi sự cứu chuộc Giêrusalem” (Lk 2:38). Đức tin và sự khôn ngoan có tính cách tiên tri của vị lão bà này, người đã ôm ấp lòng mong đợi Đấng Thiên Sai ở chỗ “sống tôn thờ trong chay tịnh và ngày đêm nguyện cầu” (Lk 2:37), đã hiến thêm cho Thánh Gia niềm khích lệ để trông cậy vào Thiên Chúa Yến Duyên hơn. Vào giây phút đặc biết ấy, hành vi cử chỉ của Anna như là một dấu chỉ Thiên Chúa muốn tỏ cho Mẹ Maria và Thánh Giuse thấy, như một sứ điệp về niềm tin ngời sáng cũng như về việc trung kiên phục vụ.

Bắt nguồn từ lời tiên tri của Simêon, Mẹ Maria đã liên kết một cách chặt chẽ và huyền nhiệm cuộc đời của mình với sứ vụ đau thương của Chúa Kitô: Mẹ đã trở nên cộng sự viên trung thành của Con Mẹ trong việc cứu độ loài người.

(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 18/12/1996, 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ tuần san L’Osservatore Romano, ngày 1/1/1997)

 

LeMeDangCon.mp3

-----------------------------------

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ BẢY CN3TN-C

  •  
    Tinh Cao <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.>
    Feb 1 at 12:24 PM
     

    Thứ Bảy CN3TN-C

     

    HỌC HỎI- CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: (năm I) Dt 11, 1-2. 8-19

    "Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng Sáng Lập".

    Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

    Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt. Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac, và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập. Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.

    Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì. Nhờ đức tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: "Chính nơi Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75

    Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68a).

    Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.

    2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Ngài. - Ðáp.

    3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Ngài cho chúng tôi được khỏi sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn đời sống chúng tôi. - Ðáp.

     

    Ðáp Ca: Tv 50, 12-13. 14-15. 16-17.

    Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).

    Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

    2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.

    3) Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.

     

    Alleluia: Tv 118, 27

    Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mc 4, 35-41

    "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

    Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

    Ðó là lời Chúa.

     

    Hôm nay Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần 3 Thường Niên hậu Giáng Sinhchủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của thời điểm phụng vụ này vẫn được tiếp tục ở chung phụng vụ Lời Chúa hôm nay, cách riêng là bài Phúc Âm, qua sự kiện Người dẹp yên bão tố.

    Thật vậy, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này đã tỏ mình ra qua sự kiện dẹp yên bão tố để cứu các môn đệ của Người, thành phần yếu đức tin cần phải mạnh tin hơn nhờ chứng kiến thấy quyền năng của Người: "Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: 'Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?'"

    Căn cứ vào sự kiện xẩy ra được Phúc Âm hôm nay thuật lại là "chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'" chúng ta thấy quả thực các môn đệ đáng bị Thày của các vị quở trách: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"

    Lời quở trách này của Người như thể Người muốn nói cùng các vị rằng: Tại sao các con lại cuống lên và quá hoảng loạn như thế. Chính Thày đang ở bên các con và ở cùng các con mà các con còn sợ và vẫn sợ hay sao. Các con không nhớ rằng Thày đã từng tỏ quyền năng thần linh của Thày ra bằng cách chữa lành đủ thứ bệnh nạn tật nguyền, thậm chí trừ được cả quyền lực của ngụy thần ma quỉ. 

    Phải, chắc chắn các môn đệ của Người không chối cãi được quyền năng của Thày trong việc Người chữa lành và trừ quỉ, nhưng còn bão tố dữ dội khủng khiếp trong thiên nhiên như lần này thì các vị mới gặp lần đầu tiên, nên không biết quyền năng của Thày các vị ra sao và tới đâu, liệu có thể làm chủ nổi sức mạnh cuồng phong kinh hoàng bấy giờ hay chăng thì chưa thấy, do đó để chắc ăn các vị cần phải "đánh thức Người đậy mà nói: 'Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?'"

    Đúng là cơn bão tố quá dữ dội đến độ đã làm cho các môn đệ trở nên hoảng loạn, thậm chí các vị không còn bình tĩnh để nghĩ được rằng tại sao Thày của các vị có thể ngủ say đến thế, đến độ "những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước" mà Thày lại cứ "dựa gối mà ngủ ở đằng lái" được là làm sao? Các vị đang hết sức chống chọi với bão tố mà còn có thể bị chết thì chẳng lẽ Thày ngủ như vậy mà thoát chết được hay sao??

    Tuy nhiên, dầu sao cũng nhờ tình trạng quá yếu kém đức tin của các vị mà Chúa Kitô được dịp tỏ quyền năng của Người nơi cả thiên nhiên tạo vật nữa, chứ không phải chỉ nơi loài người hay nơi ma quỉ mà thôi. Thiên nhiên tạo vật sở dĩ xẩy ra những thiên tai cũng do bởi tội lỗi của loài người, như bệnh hoạn tật nguyền cũng bởi nguyên tội, bị quỉ ám cũng bởi nguyên tội. Là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người cứu độ con người chẳng những phần hồn mà còn phần xác của họ nữa

    Chỉ vào lúc con người cảm thấy hoàn toàn bất lực, cảm thấy bất khả cứu vãn, Thiên Chúa thường mới lợi dụng để tỏ mình ra, nhờ đó đức tin của họ được gia tăng trong đời sống trần gian này và Người được họ nhận biết. Bởi thế, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: 'Hãy im đi, hãy lặng đi'. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ". 

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

    Thu.7.III-TN.mp3  

    --------------------------------

     


HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ BA CN3TN-C

Thứ Ba CN3TN-C

 

HỌC HỎI-CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 1-10

"Lạy Chúa, nầy tôi đến để làm theo thánh ý Chúa"

Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.

Anh em thân mến, lề luật là bóng dáng của những việc tốt lành tương lai, chớ không phải chính hình ảnh chân chính của sự thật.

Lề luật ấy với những hy tế được hiến dâng liên tiếp hằng năm không bao giờ có thể làm cho những kẻ đến tham dự được hoàn hảo.

Chẳng vậy, người ta sẽ chấm dứt việc tế lễ, vì lẽ những người làm việc phượng tự nầy, đã được tẩy sạch một lần rồi, nên không còn ý thức mình có tội nữa.

Ngược lại, các lễ tế hằng năm nhắc nhở người ta nhớ đến tội lỗi.

Bởi chưng máu bò dê không thể xóa bỏ tội lỗi.

Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác.

Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội.

Nên tôi nói: Lạy Chúa, nầy tôi đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về tôi ở đoạn đầu cuốn sách.

Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật".

Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, nầy đây tôi đến để thi hành thánh ý Chúa".

Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hóa nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 39,2 và 4ab, 7-8a, 7-9, 10, 11

Ðáp: Lạy Chúa, nầy tôi xin đến, để thực thi ý Chúa. (8a và 9a)

Xướng 1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên tôi, và Ngài đã nghe tiếng tôi kêu cầu. Ngài đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta. - Ðáp.

2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai tôi. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và đền tội, bấy giờ tôi đã thưa: "Nầy tôi xin đến". - Ðáp.

3) Như trong cuốn sách đã chép về tôi: lạy Chúa, tôi sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận lòng tôi. - Ðáp.

4) Tôi đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực tôi đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

5) Tôi chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng tôi: tôi đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa, tôi đã không giấu giếm gì với Ðại Hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Ðáp. 

  

Alleluia: Ga 15,15b

Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3,31-35

"Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.

Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".

Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"

Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".

Ðó là Lời Chúa.

 

 

 

Suy niệm

 

 

Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Ba trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này. 

Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết sự kiện "mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra", cũng như phản ứng của Chúa Giêsu khi Người được "đám đông ngồi chung quanh Người trình với Người rằng: 'Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy'".

So sánh với lần trước, cũng ở trong Phúc Âm Thánh Marco, ở bài Phúc Âm Thứ Bảy Tuần II Thường Niên tuần vừa rồi, thì thái độ của thân nhân Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay không hống hách và quá khích như thành phần thân nhân của Người trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, thành phần đến tìm Người để bắt Người đi bởi họ cho rằng "Người mất trí rồi".

Tuy nhiên, cho dù có Mẹ Maria ở trong nhóm thân nhân ngỏ ý muốn gặp Người này, thái độ có vẻ hơi nóng nẩy đến độ không thể nhẫn nại đời chờ chắc chắn không phải là thái độ của Đức Mẹ bấy giờ, vì Mẹ rất khiêm tốn, chắc chắn sẽ cứ chờ cho đến khi Con Mẹ giảng xong thì xin gặp Người, không cần phải vội vàng tỏ ra mình ngon hơn thành phần thính giả lạ mặt của Người, muốn cho thấy vị thế thân nhân ưu tiên của mình đối với thành phần ấy.

Sự kiện Đức Mẹ đi cùng với thân nhân của mình đến gặp Con của Mẹ trong bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rằng Mẹ có thể luôn theo sát Con Mẹ ở các nơi Con Mẹ hiện diện và rao giảng. Không phải vì Mẹ ở nhà một mình buồn và cũng chẳng làm gì thì đi với Con cho vui, cho bằng Mẹ muốn đóng vai môn đệ của Con Mẹ, lắng nghe Lời của Người, tiếp tục được chiêm ngắm dung nhan chí thánh Con Mẹ mà Mẹ không thể nào thiếu vắng được một chút nào.

Ngay cả chi tiết thân nhân của Chúa Giêsu ngỏ ý muốn gặp Người đây chẳng những cho thấy không phải là thái độ nông nỗi của Mẹ như thân nhân của Mẹ mà còn nhất là cho thấy Mẹ dù có luôn đi theo Con Mẹ, như các tông đồ và các môn đệ khác, kể các thành phần môn đệ nữ giới, Mẹ cũng rất âm thầm kín đáo, không bao giờ tự lộ diện hay lên tiếng. Sở dĩ chúng ta biết trong bài Phúc Âm hôm nay có Mẹ là vì thành phần thân nhân của Mẹ muốn lấy thế giá của Mẹ ra để đòi ưu tiên với Chúa Giêsu Con Mẹ.

Tuy nhiên, có thể Chúa Giêsu đã biết được thái độ của thành phần thân nhân đầy tinh thần trần thế này, một tinh thần không phải ở nơi Mẹ của Người, mà Chúa Giêsu, qua cả lời nói lẫn cử chỉ tác hành của Người, như được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, đã tỏ một thái độ có vẻ nghiêm khắc và lạnh lùng như để cảnh báo họ thế này: "Người trả lời rằng: 'Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?' Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: 'Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và là mẹ Ta'".

Phải chăng Người tỏ ra như thể bị gia đình làm phiền Người đang khi Người thi hành sứ vụ Thiên Sai của Người, nên Người có thái độ như lạnh nhạt hơn là vồn vã với gia đình của Người, thậm chí Người còn có vẻ coi trọng thính giả của Người hơn cả gia đình của Người nữa.

Bề ngoài có thể là thế thật, nhưng tận sâu xa ở những lời nói và cử chỉ có vẻ tiêu cực này của mình, Người lại sử dụng đường lối phủ nhận cách liên quan đến mối liên hệ ruột thịt tự nhiên với gia đình của Người để khẳng định một chân lý hết sức quan trọng về mối liên hệ thiêng liêng với Người là những gì Người đang thiết lập và sẽ hoàn thành vào cuộc Vượt Qua của Người trong tương lai.

Thật vậy, là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Người không đến chỉ cho Mẹ của Người hay gia đình của Người thôi, mà cho toàn thể nhân loại, được đại diện bởi thành phần thính giả của Người bấy giờ. 

Nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), để "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), thì Người quả thực, qua việc rao giảng và tỏ mình ra, "như ánh sáng chiếu soi mọi người", đang thiết lập mối liên hệ thiêng liêng với nhân loại, nghĩa là Người đang làm cho nhân loại tin vào Người, "chấp nhận Người", để họ "được quyền làm con Thiên Chúa" như Người và với Người.

Bởi thế, so với tình nghĩa thiêng liêng vô cùng chân thật, hoàn hảo và bền vững thì tình nghĩa xác thịt thấp hèn, hạn hữu và trần tục không thể nào sánh bằng, và vì thế tình nghĩa xác thịt tự nhiên cần phải được thăng hoa, cần được thánh hóa, cần phải được nâng cấp bằng lời Chúa. 

Nếu tình nghĩa thiêng liêng với Chúa Kitô, như Người nói, ở chỗ "làm theo ý Thiên Chúa", như chính bản thân Người liên lỉ chú trọng và thực thi cho tới cùng, thì không còn ai hơn Mẹ của Người, một Trinh Nữ đã đáp ứng lời thiên sứ truyền tin Lời Nhập Thể bằng tất cả đức tin siêu vượt của mình qua tiếng "Xin Vâng" (Luca 1:38), cho đến khi "đứng chân Thánh Giá Chúa Giêsu" (Gioan 19:25).

Như vậy, lời nói và thái độ có vẻ dửng dưng lạnh lùng như phủ nhận gia đình mình của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì chẳng những phấn khích việc nâng cấp cho thành phần thính giả của Người bấy giờ mà nhất là còn cố ý chúc tụng Mẹ của Người, lấy Mẹ của Người như là một mô phạm cho thành phần thính giả ấy trong việc lắng nghe lời Chúa (xem Luca 2:19,51).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

 

Thu.3.III-TN.mp3  

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THƯ TƯ CN3TN-C

Thứ Tư CN3TN-C

 

HÔC HỎI-CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 10, 11-18

"Người đã làm cho những kẻ được thánh hóa nên hoàn hảo đến muôn đời"

Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.

Trong khi mọi tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ mình và hiến dâng cũng những ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xóa được tội lỗi, còn Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người.

Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ được thánh hóa nên hoàn hảo đến muôn đời.

Vả chính Thánh Thần cũng đã minh chứng cho chúng ta như thế.

Vì sau khi Chúa đã phán: "Nầy là giao ước Ta sẽ ký kết với chúng sau những ngày ấy", thì Người còn thêm: "Ta sẽ đặt lề luật Ta trong lòng chúng, và khắc nó vào tâm trí chúng; ta sẽ không còn nhớ đến những tội lỗi và sự gian ác của chúng nữa".

Vậy nơi nào tội lỗi được thứ tha, thì không còn việc dâng của lễ đền tội nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 88, 4-5, 27-28, 29-30

Ðáp: Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái. (29)

Xướng 1) Ta sẽ ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa. Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".

2) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của tôi". và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian.

3) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh.

 

Alleluia: 1Sam 3,9

Alleluia, Alleluia. - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 4,1-20

"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.

Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng:

"Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống.

Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết.

Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất.

Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu.

Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô.

Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được.

Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".

Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".

Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông:

"Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội".

Người nói với các ông:

"Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?

Người gieo hạt là gieo lời Chúa.

Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ.

Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền.

Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai.

Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được.

Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".

Ðó là Lời Chúa.

 

Suy niệm

    

Tiếp tục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bài Phúc Âm Thứ Tư hôm nay trong Tuần 3 của thời điểm phụng vụ này liên quan đến dụ ngôn "người gieo hạt đi gieo hạt giống".

Theo bài Phúc Âm thuật lại ở phần đầu thì nội dung của dụ ngôn này như sau: "Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm".

Cũng theo bài Phúc Âm hôm nay, ở phần cuối Chúa Giêsu đã giải thích ý nghĩa của từng hình ảnh được ám chỉ trong dụ ngôn cho các môn đệ nghe, như lời yêu cầu của các vị:

"Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".

Trong phần dẫn giải của mình, Chúa Giêsu không cho biết "người gieo hạt" là ai. Tuy nhiên, vì "gieo hạt là gieo lời Chúa" như Chúa Giêsu dẫn giải, thì "người gieo hạt" đây còn ai khác ngoài chính bản thân Người, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". 

Nếu "hạt đây là lời Chúa" và lời Chúa đây chất chứa "ân sủng và chân lý", vì chính bản thân Người là "Lời", bởi thế "người gieo hạtđây tức là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" tỏ mình ra để thông ban cho "những ai chấp nhận Người" (Gioan 1:12) "ân sủng và chân lý" của Người và từ Người: "ân sủng" là "được quyền làm con Thiên Chúa" và "chân lý" là "được sinh ra bởi Thiên Chúa, chứ không phải bởi huyết nhục, bởi nhục dục hay bởi ý muốn của con người" (Gioan 1:13).

Đúng thế, theo dẫn giải của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay thì hạt khi chưa gieo vẫn còn là hạt, nhưng một khi đã gieo xuống rồi thì hạt được gieo xuống ấy trở thành người nghe, người đón nhận. Có tất cả 4 loại người chính yếu tiêu biểu đáp ứng lời Chúa, đáp ứng mạc khải thần linh là chính Chúa Kitô, hay "chấp nhận" Chúa Kitô cũng thế.

Nếu "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12) và là người "sinh bởi Thiên Chúa" thì họ quả thực là "những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm". 

Vậy thì 3 thành phần còn lại sẽ có thể được suy diễn và áp dụng như sau:

"Những hạt ở trên vệ đường là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi huyết nhục", nghĩa là hoàn toàn sống theo tự nhiên nông nổi bề ngoài một cách hờ hững lãnh đạm với những gì siêu nhiên, thuộc lãnh vực đức tin, thuộc đời sống thiêng liêng.

 

"Những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi nhục dục", sống theo cảm giác cảm tình nên rất thay đổi bất nhất.

 

"Những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được" ở đây có thể hiểu về thành phần "sinh bởi ý muốn của con người", sống tìm kiếm và theo đuổi ưu tiên lợi lộc trần gian, coi trọng giá trị trần gian hơn những gì là chân thực bất biến. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

 

Thu.4.III-TN.mp3  

HOC HỎI ĐẺ SỐNG ĐẠO - THỨ HAI CN3TN-C

Thứ Hai CN3TN-C

 

HỌC HỎI- CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 9, 15. 24-28

"Người chỉ tế lễ chính mình một lần để huỷ diệt tội lỗi, Người sẽ xuất hiện lần thứ hai để cứu độ những ai trông đợi Người".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Chúa Kitô là trung gian của Tân Ước, vì nhờ sự chết của Người để cứu chuộc các tội phạm dưới thời Cựu Ước, mà những kẻ được kêu gọi, đến lãnh lấy gia nghiệp đời đời đã hứa cho họ. Ðức Giêsu không tiến vào cung thánh do tay người phàm làm ra, chỉ là hình bóng cung thánh thật, nhưng Người vào chính thiên đàng, để từ đây xuất hiện trước tôn nhan Thiên Chúa vì chúng ta. Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập địa, Người đã phải chết nhiều lần: nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Ðức Kitô cũng tế hiến một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6.

Ðáp: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu (c. 1a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh, Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là vua. - Ðáp.

 

  

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 22-30

"Satan phải diệt vong".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ". Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y. Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".

Ðó là lời Chúa

 

Đức Kitô Quyền Năng


   Hôm nay, Thứ Hai, ngày thường đầu tiên trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay. 

Bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Marco thuật lại sự kiện đụng độ giữa "những luật sĩ từ Giêrusalem đến" và Chúa Giêsu, một cuộc đụng độ càng cho thấy bản chất "đầy ân sủng và chân lý" của "Người Con duy nhất đến từ Cha" này. Ở chỗ, cho dù bị xuyên tạc chụp mũ Người vẫn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn nhẫn nhịn giúp cho đối phương nhận ra cái sai lầm của họ và cảnh giác họ để họ khỏi bị đời đời hư mất.

Thật vậy, khi thấy danh tiếng của Chúa Giêsu càng ngày càng nổi nang khắp nơi trong dân chúng, cho dù Người mới chỉ ở Galilêa thuộc miền bắc đất nước Do Thái, chứ chưa xuống tới Giuđêa thuộc miền nam là nơi toàn tòng dân Do Thái và có giáo đô Giêrusalem là trung tâm của Do Thái giáo, thành phần "những luật sĩ từ Giêrusalem đến nói rằng 'Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám', và nói thêm rằng: 'Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ'".  

Không biết thành phần luật sĩ từ Giêrusalem đến này từ bao lâu rồi, đã tận mắt xem thấy Chúa Giêsu trừ quỉ hay chưa, hoặc chỉ nghe nói đến thôi, rồi suy diễn một cách méo mó như vậy để chống phá đối phương mới trở nên nổi tiếng, với chủ đích hạ bệ đối thủ của mình xuống càng sớm càng tốt?! 

Tuy nhiên, nếu "miệng nói ra những gì đầy trong lòng", như chính Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu trong Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (12:34) cũng có cùng chủ trương như những người luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay, thì nội dung của lời phát biểu này dường như chất chứa tính cách cạnh tranh xuất phát từ lòng ghen ghét, chứ chưa nói đến tính cách hết sức phạm thượng của nó, của những ai phát ngôn như thế.

Thế nhưng, cho dù bị phạm thượng như vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã không nổi giận, quát mắng họ hay thậm tệ quở trách họ, như Người sẽ làm sau này, được thấy ở nguyên đoạn 23 Phúc Âm Thánh Mathêu, mà còn hết sức nhân từ "gọi họ lạivà "dùng tỉ dụ" (như cha mẹ hay thày cô dạy cho đám học trò con nít của mìnhcho dễ hiểu để nhờ đó vạch ra cho họ thấy những gì sơ hở đầy mẫu thuẫn nơi cái nhận định và lập luận vừa thiển cận nông nổi vừa mâu thuẫn mù tối của họ, bằng cách Người đã lấy gậy ông đập lưng ông, như sau:

"Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong". Tức là Chúa Giêsu muốn nói với thành phần luật sĩ đầy thế lực từ giáo đô Giêrusalem rằng: quí vị thật là mâu thuẫn, chẳng hiểu gì cả, nếu tôi như quí vị nói "bị quỉ Belzebul ám" nhờ đó tôi mới có thể "nhờ chính tướng quỷ mà trừ quỷ" thì ma quỉ tự chúng chia rẽ nhau mà chết thôi - làm gì có cái chuyện hoang đường là ma quỉ quay ra tàn sát lẫn nhau để hủy diệt đi vương quốc tử thần của chúng chứ? 

Chưa hết, Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để chẳng những sửa lỗi cho họ mà còn tỏ mình ra cho họ thấy rõ hơn một chút nữa, hy vọng họ thấy được quyền phép thần linh của mình là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", một quyền phép vô địch còn hơn cả quyền lực chết chóc của thần dữ, ở chỗ còn khống chế được cả ma quỉ là loài vẫn từng thống trị loài người từ sau nguyên tội: "Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y". 

Không biết các nhà luật sĩ khôn ngoan thông thái trong bài Phúc Âm hôm nay, nghe xong câu nói nhẹ nhàng xa xa bóng gió này của Chúa Giêsu có hiểu ý Người muốn nói hay chăng, nhưng thực tại đúng là như thế, đúng là Người có một quyền lực vô địch, một quyền lực sẽ đạt đến tột đỉnh của mình nơi cuộc Vượt Qua chiến thắng tội lỗi và sự chết của Người.

Tình thương của Chúa Giêsu tỏ ra với thành phần luật sĩ mù quáng trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ ở chỗ: 1- vạch ra cho họ thấy cái sai lầm của họ; và 2- tỏ cho họ thấy quyền lực thần linh trừ quỉ của Người, mà còn 3- cảnh báo về phần rỗi đời đời của họ nữa, như thể khuyên họ hãy cẩn thận và coi chừng thứ tội nguy hiểm được Người thẳng thắn cho họ biết rằng: 

"'Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời'. Ðó là vì họ nói 'Người bị thần ô uế ám'".

Căn cứ vào lời cảnh báo này của Chúa Giêsu thì ở đây Chúa Giêsu nói đến kẻ phạm tội "kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần... nó mắc tội muôn đời'", hơn là thứ tội "phạm đến Chúa Thánh Thần", và hình phạt muôn đời giành cho kẻ phạm một thứ tội phạm thượng khủng khiếp, dám cho "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là Đấng có thể khống chế quyền lực của thần dữ "bị thần ô uế ám", có nghĩa là dám hoàn toàn phủ nhận Thánh Linh là "quyền phép Đấng Tối Cao" (Luca 1:35) ở trong Người và làm việc đó, và vì thế cũng có nghĩa là gián tiếp không chấp nhận Người là Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu Thánh Linh, một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để được cứu độ (xem Marco 16:16).

Ngày 28 tháng 1 - Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội thánh (1225-1274)

Thánh Tôma sinh tại thành Naples năm 1225 trong một gia đình giàu sang và đạo hạnh. Cha ngài làm lãnh chúa đảo Aquinô. Chính nhờ ảnh hưởng gia đình mà Tôma đã hấp thụ được một nền đạo đức chắc chắn để tiến lên đỉnh trọn lành, một ý chí sắt đá để theo ơn gọi và một nền học vấn uyên thâm để giải đáp các vấn nạn của thời đại.

Lúc đầu Tôma được cha gửi ở tu viện Cassino của các cha dòng Bênêđictô. Nhưng 9 năm sau, vì một biến cố chính trị, tu viện bị giải tán, Tôma được gửi về gia đình và tiếp tục học đại học Naples. Nơi đây, Tôma có dịp tiếp xúc với các tu sĩ dòng Ða Minh và cậu bắt đầu say mê lý tưởng sống nghèo khó và làm việc trí thức để truyền bá cho người khác chân lý đã suy niệm.

Năm 1244, Tôma đã quyết định xin khoác bộ áo trắng của dòng Ða Minh. Việc này đã gây chấn động mạnh mẽ cho gia đình, vì thân mẫu ngài vẫn thầm có tham vọng muốn cho con mình trở thành tu viện trưởng ở Cassino. Bà đã quyết định bắt Tôma về giam trong nhà và dùng mọi mưu kế để dụ dỗ cậu trở về thế gian, nhưng bị thất bại nên cuối cùng trong cơn mù quáng bà đã nhờ tới một cô gái trắc nết quyến rũ Tôma. Thầy đã dùng một thanh củi đang cháy đuổi cô gái phóng đãng ra khỏi phòng. Sau việc này, Chúa đã sai thiên thần xuống thắt dây trinh khiết biểu hiện huy chương chiến thắng cho Tôma.

Trước ý chí sắt đácủa con, bà mẹ đành chịu để cho Tôma trốn thoát về tu viện. Năm sau, ngài được thụ huấn với thánh Albertô, một học giả nổi danh thời ấy. Năm 27 tuổi, ngài trở thành giảng sư đại học với một kiến thức uyên bác có thể hướng dẫn được giới trí thức bấy giờ đang say mê với nền triết lý ngoại giáo Hy Lạp. Công trình tuyệt tác của thánh Tôma chính là bộ "Tông Luận Thần Học" mà ngài còn lưu lại cho hậu thế. Ngài thú nhận mình đã kín múc tất cả sự thông thái ấy nơi Chúa qua suy niệm và cầu nguyện.

Ngài qua đời năm 1274, hưởng thọ 49 tuổi. 

Năm 1328, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXII tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh. 

Năm 1567, Ðức Piô V lại phong ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh với biệt hiệu "Tiến Sĩ Thiên Thần". 

Ðến năm 1880, Ðức Lêô XIII đặt ngài làm quan thầy các trường Công Giáo.

 Thánh Thomas Aquinas - Tiểu Sử (ĐTC Biển Đức XVI)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

 

Thu.2.III-TN.mp3