24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO -- THỨ TƯ SAU LỄ HIỂN LINH

Thứ Tư sau Hiển Linh 9/1

 

HỌC HÒI - CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA

 

Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 11-18

"Nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, nếu Thiên Chúa thương yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải thương yêu nhau. Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo. Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Và chúng ta đã thấy và chứng nhận rằng Chúa Cha đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế. Ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa đã trọn vẹn đối với chúng ta, để chúng ta tin tưởng trong ngày phán xét, vì Người thế nào, thì chúng ta cũng thế ấy ở thế gian này. Nơi tình thương không có sự sợ hãi, nhưng tình thương trọn lành thì loại bỏ sợ hãi ra ngoài, vì sợ hãi mang theo hình phạt, và người nào sợ hãi thì không hoàn hảo trong tình thương.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 10. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (c. 11).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Các vua xứ Tác-xi và quần đảo sẽ mang lễ vật đến, các vua xứ Ả-rập và Saba sẽ đem triều cống lễ vật. - Ðáp.

3) Vì Người sẽ cứu thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp. 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã sai tôi đi rao giảng tin mừng cho hạng nghèo khó, báo tin cho tù nhân được phóng thích. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 45-52

"Họ thấy Người đi trên mặt biển".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

(Khi năm ngàn người đã được ăn no), Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện. Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất. Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: "Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ". Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối.

Ðó là lời Chúa. 


 

Suy Nghiệm Lời Chúa 

 

Hôm nay, Thứ Tư sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, chủ đề cho riêng Mùa Giáng Sinh, một thời điểm kéo dài cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, vẫn là "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14), vẫn tiếp tục phản ảnh nơi phụng vụ Lời Chúa của ngày này.

 

Bài Phúc Âm hôm nay được tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Bài Phúc Âm hôm qua được Thánh ký Marco trình thuật về sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng 5 ngàn người theo Người để nghe lời Người. Bài Phúc Âm hôm nay, vị thánh ký này thuật lại biến cố Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió cho các tông đồ:

 

"Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện. Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất. Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: 'Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ'. Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối".

 

Việc Chúa Giêsu ra tay dẹp yên sóng gió cho các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay là một trong những cơ hội chứng tỏ "Lời ở cùng chúng ta", chứ không bỏ mặc chung con người và riêng những ai thuộc về Người bị chìm đắm hư vong. 

 

Sự kiện được thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay về sóng gió bất ngờ nổi lên khiến các tông đồ, dù có nhiều vị chuyên nghiệp đánh cá, cũng "khó nhọc chèo chống vì ngược gió" có thể tiêu biểu cho gian nan khốn khó thử thách trong đời sống của con người nói chung và Kitô hữu thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói riêng.

 

Đời sống con người trên trần gian này nói chung không thể nào không có gian nan khốn khó, nhưng chính nhờ gian nan khốn khó như "lửa thử vàng" mà con người mới có thể trở nên cứng cát và trưởng thành như "cái khó bó cái khôn" thế nào, thì trong đời sống tu đức, đời sống đạo, càng cần hơn nữa để đức tin trở nên sâu xa vững chắc hơn.

 

Bởi vì, nhờ gian nan thử thách, con người mới có thể và mới dễ cảm thấy mình hèn yếu và bất lực mà tin tưởng cậy trông vào Đấng duy nhất có thể cứu thoát họ là Thiên Chúa, Đấng cũng có ý để xẩy ra gian nan thử thách như vậy để nhờ đó có thể tỏ mình ra cho họ, và nhờ đó họ có thể nhận biết Ngài hơn.

 

Thiên Chúa thường sử dụng gian nan thử thách để tăng thêm đức tin cho các tông đồ, thành phần đã từng xin Ngài tăng thêm đức tin yếu kém của các vị lên (xem Luca 17:5), chứ Ngài không làm ảo thuật một cách thiêng liêng là ban sẵn cho các tông đồ, không cần luyện tập, tự nhiên cũng có được một thứ nội công thần linh thâm hậu, đến độ không gì có thể đánh gục các vị.

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy dường như Chúa Giêsu cố ý để gian nan thử thánh xẩy ra cho các tông đồ, (như không cùng đi với các vị sang bên kia bờ, lại còn thanh thản lên núi cầu nguyện nữa, như quên hẳn các môn đệ của Người đang lẻ loi với nhau lênh đênh trên biển hồ bao rộng, và cứ phải chờ cho tới đêm tối mịt mù cùng với sóng gió nổi lên mới chịu xuất hiện), để Người có thể tỏ mình ra cho các vị, nhờ đó các vị luôn tin tưởng và càng tin tưởng rằng "Lời ở cùng chúng ta", và các vị sẽ không còn lo, còn sợ, còn hoảng nữa, vì Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, được sai đến không phải để luận phạt mà là để cứu độ (xem Gioan 3:17).

 

Như thế, theo đường lối thần linh huyền diệu của Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng, thì mỗi khi xẩy ra gian nan khốn khó, khiến con người cảm thấy đêm tối và bão tố kinh hoàng, là thời điểm Thiên Chúa đang ở gần nạn nhân nhất, và là chính dấu báo Thiên Chúa sắp sửa tỏ mình ra cho nạn nhân để cứu nạn nhân: "Người lên thuyền họ, và gió im lặng".

 

Thực tế sống đạo cho thấy, chính trong lúc bị gian nan thử thách đầy tối tăm mù mịt và sóng gió biến động trong đời, chúng ta thường cảm thấy lo âu sợ hãi, hoảng loạn và cuống lên, đến độ bấy giờ chúng ta cảm thấy "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), Đấng đang hiện diện bên chúng ta và đang đến cứu chúng ta, nghĩa là đang muốn tỏ mình ra cho chúng ta mà chúng ta lại "tưởng là ma", lại sợ Ngài hơn là mừng vì thấy Ngài đang ở gần ngay bên mình.

 

Bởi vậy, để có thể khỏi bị nhầm "tưởng là mađối với "Lời ở cùng chúng ta", trước hết và trên hết, Kitô hữu cần phải hết sức thâm tín, như Thánh Gioan Tông đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay nhắc nhở, rằng: "Chúa Cha đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế. Ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta".

 

Phải, tin tưởng vào Thiên Chúa đây chính là tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài, Đấng chỉ vì yêu thương và chính vì yêu thương "đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế", thì không thể nào lại bỏ mặc chúng ta cho tử thần, và vui thích khi chúng ta bị gian nan khốn khó, bị hư vong. 

 

Trái lại, chắc chắn Ngài sẽ cứu chúng ta, không sớm thì muộn, không trước thì sau, bằng không, Ngài tự mẫu thuẫn, ở chỗ, một đàng, theo lý thuyết, Ngài cứu chúng ta nơi Con của Ngài, nhưng trên thực tế, Ngài lại đang tâm để cho chúng ta bị hư đi, như thể Ngài không coi trọng Ơn Cứu Độ vô giá được Con Ngài vô cùng khốn khổ lập công chuộc tội cho chúng ta, như thể chúng ta là đồ bỏ, chẳng là gì trước nhan Ngài.

 

Thậm chí kể cả những con người cao ngạo, kiêu căng tự phụ, coi Ngài chẳng là gì, không cần đến Ngài, truất phế Ngài bằng những luật pháp vô luân và phi nhân, thay thế Ngài bằng những ngẫu tượng duy nhân bản, tôn sùng con người như một thần linh trên hết, muốn làm gì thì làm, quyết định mọi sự lành dữ theo ý nghĩ, ý thích và ý riêng của mình, Ngài vẫn chờ đợi họ, thông cảm với những gì họ làm mà không biết việc sai lầm mình làm (xem Luca 23:34), cho đến khi Ngài làm cho họ mở mắt ra mà hoán cải trở về với Ngài. 

 

Chính vì Thiên Chúa đã làm tất cả mọi sự để con người có thể tin vào Ngài (xem Gioan 5:17), mà một khi đã tin vào Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa cứu độ nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta", Vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta "đến không tiếc Con Một của Ngài" (Roma 8:32), thì chúng ta đừng sợ, vì, như Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay khẳng định: "tình thương trọn lành thì loại bỏ sợ hãi ra ngoài, vì sợ hãi mang theo hình phạt, và người nào sợ hãi thì không hoàn hảo trong tình thương".

 

Vậy, cùng với niềm xác tín và tâm tình tin tưởng của Bài Đáp Ca hôm nay, những ai đã tin tưởng, hay đang bị thử thách, hoặc cần được cứu giúp, hãy xướng lên theo câu 3 rằng: "Người sẽ cứu thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ".

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

 

Ngay.9-1.mp3

 

  

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THƯ BA 08-1-2019

Thứ Ba sau Hiển Linh 8/1

 

HỌC HỎI- CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 7-10

"Thiên Chúa là Tình Yêu".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8

Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (x. c. 11).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

2) Ước gì núi non đem hòa bình cho dân, và đồi nổng đem lại sự công chính. Người sẽ bênh vực kẻ khiêm tốn trong dân, sẽ cứu thoát con cái người nghèo khó. - Ðáp.

3) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp. 

Alleluia: Mt 4,22

Alleluia, alleluia! - Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 34-44

"Hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều. Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: "Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn". Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các con hãy cho họ ăn đi". Họ thưa Người: "Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn". Người nói với họ: "Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem". Khi biết được rồi, họ thưa: "Có năm cái bánh và hai con cá". Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no. Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người.

Ðó là lời Chúa. 

 

image.png
image.png
 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, thời điểm vẫn còn trong Mùa Giáng Sinh cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, vẫn tiếp tục chủ đề cho riêng Mùa Giáng Sinh là "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14), như "sự sống là sự sáng chiếu soi con người" (Gioan 1:4).

 

Đúng thế, "Lời ở cùng chúng ta" như "sự sống chiếu soi con người" trong Bài Phúc Âm hôm nay là ở chỗ Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi "năm ngàn người" từ "năm  bánh và hai con cá", chỉ vì Người "động lòng thương xót họ", thành phần "như chiên không người chăn giữ" và đã vất vả cùng chịu đói khát để đi theo nghe "Người giảng dạy họ nhiều điều".

 

Ở đây, qua phép lạ bánh hóa ra nhiều, được Chúa Giêsu thương tình thực hiện để nuôi đám dân chúng rất đông đảo theo Người trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy dường như Chúa Giêsu muốn ngầm khẳng định rằng: vẫn biết người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (xem Mathêu 4:4), người ta cũng không chỉ sống nguyên bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra mà còn phải sống nhờ ở lương thực hằng ngày nuôi sống thân thể nữa, như thể "có thực mới vực được đạo", miễn là đừng vì của ăn phần xác mà quên mất phần hồn, hay coi trọng phần xác hơn phần hồn, nhưng nhờ phần hồn thánh đức và tin tưởng mà phần xác được biến đổi và thánh hóa, ở chỗ sống bác ái yêu thương phục vụ.

 

Phép lạ bánh hóa ra nhiều đây, chẳng những được bộ Phúc Âm Nhất Lãm, bao gồm cả Thánh ký Marco và Thánh ký Luca thuật lại, mà còn cả Thánh ký Gioan nữa, ở nguyên đoạn thứ 6 của phúc âm thứ tư này. Thế nhưng, trong đoạn thứ 6 của mình, Thánh ký Gioan chẳng những thuật lại biến cố phép lạ bánh hóa ra nhiều mà còn bao gồm cả bài giảng rất quan trọng và cần thiết về Bánh Sự Sống của Chúa Giêsu nữa, để cho những ai ăn bánh được Người hóa ra nhiều nuôi sống phần xác của họ ấy hướng về một thứ bánh thần linh ban sự sống trường sinh bất diệt là chính bản thân Người:

 

"Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Gioan 6:47-51).

 

 

Thật vậy, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) chẳng khác gì như "bánh từ trời xuống", một thứ bánh không phải để nuôi phần xác của con người mà là nuôi phần hồn của họ, ở chỗ ban cho họ sự sống thần linh, bằng cách Người đã "hiến mạng sống mình vì chiên cho chiên được sự sống và là sự sống viên trọn" (Gioan 10:10), tức là Người lấy chính "thịt" của Người, ám chỉ thân xác tử giá và phục sinh của Người, cho phần rỗi của chung nhân loại, nhất là của riêng những ai tin vào Người, một tác động tin tưởng được biểu hiệu qua cử chỉ họ "ăn bánh này", cử chỉ cho thấy họ chấp nhận Người, chấp nhận Ơn Cứu Độ Người thực hiện cho họ.

 

Tuy nhiên, muốn được "sự sống và là sự sống viên mãn" nơi Bánh Sự Sống từ trời xuống là bản thân Chúa Giêsu Kitô, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" đây, không phải chỉ ở chỗ tin tưởng chấp nhận Người, qua tiếng thưa công khai "amen", trước khi rước lấy Thánh Thể của Người lúc hiệp lễ. 

 

Kinh nghiệm sống đạo phũ phàng cho thấy không phải là ít tín hữu Công giáo hằng ngày rước lễ nhưng dường như Thánh Thể là Bánh Sự Sống, Bánh Trường Sinh chẳng có tác dụng thần linh tí nào ở nơi họ, trái lại, Thánh Thể hình như còn làm cho họ càng rước càng bị tẩu hỏa nhập ma nữa. Ở chỗ, họ vẫn cứ đoán xấu cho anh chị em mình, vẫn cứ nói hành nói xấu nhau, vẫn bỏ vạ cáo gian nhau, vẫn giận hờn ghen tức nhau, vẫn oán ghét thù hằn nhau, vẫn chấp nhất không chịu tha cho nhau hay không thể tha cho nhau v.v.

 

Chính vì "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), hay ngược lại, đức ái là hoa trái của đức tin, là chứng cớ hùng hồn nhất về đức tin, mà Thánh ký Gioan trong Thư thứ nhất của mình, ở Bài Đọc 1 hôm nay, mới huấn dụ Kitô hữu của ngài sống yêu thương bác ái như sau:

 

"Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta".

 

Qua đoạn Thư thứ nhất này của mình, Thánh Gioan Tông Đồ đã cho chúng ta biết tất cả lý do sâu xa tại sao chúng ta cần phải yêu thương nhau và phải yêu thương nhau như thế nào. 

 

Trưóc hết, về lý do, đó là "vì Thiên Chúa là tình yêu", Đấng "đã thương yêu chúng ta trước", như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu đã "động lòng thương" dân chúng và tự động làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ, không đợi họ phải van xin Người, nên chúng ta cũng phải làm sao để có thể đáp ứng tình yêu của Ngài như Ngài đã yêu thương chúng ta. 

 

Sau nữa, về cách thức yêu thương, nếu "Thiên Chúa là tình yêu... đã yêu chúng ta trước", ở chỗ "Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống", tức là Ngài "đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta", thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy, "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34, 15:12). 

 

Tuy nhiên, chúng ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa như Ngài đã yêu thương chúng ta, thậm chí chúng ta cũng không nào yêu thương nhau như chính Chúa yêu thương chúng ta hay yêu thương anh chị em của chúng ta. Bởi thế, mới có chuyện "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14), mặc lấy nhân tính bất toàn, hữu hạn, yếu hèn và tội lỗi của chúng ta, để làm người như chúng ta mà lại có thể yêu mến Thiên Chúa một cách xứng đáng và tương hợp thay cho chúng ta và với chúng ta.

 

Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải chỉ là biểu hiệu cho tình yêu vô biên bất tận của Thiên Chúa đối với loài người vô cùng khốn nạn đáng thương chúng ta, mà còn biểu hiệu cho tình yêu của nhân loại thấp hèn chúng ta đối với tình yêu vô cùng nhân hậu và trọn lành của Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta nữa.

 

Bởi vậy, cùng với Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, chúng ta hãy hân hoan phấn khởi mà xướng lên rằng:

 

1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. 

 

2) Ước gì núi non đem hòa bình cho dân, và đồi nổng đem lại sự công chính. Người sẽ bênh vực kẻ khiêm tốn trong dân, sẽ cứu thoát con cái người nghèo khó. 

 

3) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

 

Ngay.8-1.mp3

-----------------------------

 

  

 

--

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ SÁU TRƯỚC LỄ HIỂN LINH

HOC HOI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CN LỄ HIỂN LINH

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - DỨC MẸ TRONG KINH THÁNH

Tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa có nguồn gốc Kinh Thánh không?

1-Làm sao biết được Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha ở trên trời? 2- Tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa có nguồn gốc Kinh Thánh không? 3- Đức Mẹ có nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô hay không?

Assumption-of-Mary.jpg

 

Trả lời: 

1-
 Trong Kinh Tin Kính Nicene   ( đọc ngày Chúa nhật và các ngày Lễ trọng) và  Kinh Tin Kính của các Thánh Tông Đồ, Giáo Hội đều tuyên xưng  Chúa Giê-su Kitô, “ chết, sống lại,  lên trời và ngự bên  hữu Chúa Cha”. 

Lời tuyên xưng này bắt nguồn từ chính lời Chúa Giê su trả lời cho viên thượng tế  Cai pha và  trước toàn thể thượng Hội Đồng  thương tế , kỳ mục và kinh sư Do Thái họp nhau lại  để tìm cách  buộc tội  Chúa với  án tử hình. Viên thượng tế đã hỏi Chúa  xem có phải Người là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không.

 

Chúa đã trả lời như sau:  “ Phải chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người  ngự bên hữu  Đấng  Toàn Năng và ngự  giá mây trời mà đến.”( Mt 26: 64; Mc 14: 62; Lc 22: 69)

 

Như  thế lời tuyên xưng của Giáo Hội về  chỗ ngồi  của Chúa Kitô, bên hữu  Chúa Cha  trên Nước Trời  có nguồn gốc vững chắc  là chính lời Chúa  Giê su đã  nói và được ghi lại trong các Tin Mừng, như bằng chứng trên đây. 

2
Tín điều Đức Mẹ là Mẹ là Mẹ Thiên Chúa có nguồn gốc Kinh Thánh không?

Trước khi trả lời câu hỏi này, xin được nhắc lại một lần nữa là vào thế kỷ thứ 4 sau Chúa Giáng Sinh, có một linh mục tên là Arius  thuộc  Tòa Thượng Phụ Alexandria ( Ai Cập) đã lạc giáo ( heretic) khi  cho rằng Chúa Giê-su Kitô có hai bản tính riêng rẽ là nhân tính( humanity) và thần tính ( Divinity) khi xuống trần gian làm Con Người. Vì thế Đức Mẹ Maria chỉ là Mẹ  của Chúa Giêsu  về phần nhân tính  mà thôi. Quan điểm lạc giáo này đã  bị Công Đồng Nicaea năm 325  A.D lên án  và bác bỏ hoàn toàn vì đi ngược với niềm tin của Giáo Hội về  sự  đồng nhất bản thể của Ba Ngôi Thiên Chúa ( Trinity) và về hai bản tính không tách rời nhau của Chúa Cứu Thế Giêsu.Nghĩa là,  Chúa Giê-su Kitô là Thiên Chúa thật và là Con Người thật, Chúa vừa có Thần tính ( Divinity) như  Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, vừa có nhân tính ( humanity)  như  mọi  con người , và hai bản tính này không hề tách rời nhau. Arius đã lạc giáo khi cho rằng Chúa Kitô có hai bản tính tách rời nhau, nên Mẹ Maria chỉ là  Mẹ Chúa  Giêsu trong phần nhân tính mà thôi. chứ không thể là Mẹ Thiên Chúa ( Theotokos)  như  các Giáo Phụ  dạy  và Giáo Hội sơ khai  đã tin .Quan điểm sai lầm trên đến đầu thế kỷ thứ  5, (428 A.D) lại được tán đồng  bởi  Thượng Phụ Nestorius thành Constantinople, là người cũng cho rằng Đức  Mẹ chỉ là Mẹ phần xác ( nhân tính) của Chúa Giê su-Kitô để  phủ nhận điều các Giáo Phụ từ thời tiên khởi đã dạy rằng : Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa ( Deipara= Theotokos=  God bearer =Đấng cưu mang Thiên Chúa.

 

Các Công Đồng Nicaea ( 325) và Ê-phê sô  ( 431) đều lên án tư tưởng lạc giáo của Arius và Nestorius để  khẳng định rằng Chúa Giê-su đồng bản tính ( bản thể= substance) với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lại nữa, Chúa Kitô có hai bản tính không hề tách rời nhau là nhân tính ( Humanity  và Thiên tính ( Divinity). Do đó, Đức Mẹ là Mẹ thật của Chúa Kitô, cũng là Thiên Chúa thật, nên Mẹ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa=( Deipara=Theotokos= God bearer)  như Giáo Hội đã dạy không sai  lầm

 

Sau đây là bằng chứng Kinh Thánh :

 

Khi Đức Mẹ đến viếng thăm người  chị em họ là  bà Ê-i-sa-bét ( Elizabeth), thì bà này đã được  tràn đầy Thánh Thần,  liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được diễm phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu của Chúa  ( Mother of my Lordđến với tôi thế này  Lc 43: 39- 43)

 

Bà Eli-sa-bét chắc chắn đã được Chúa Thánh Thần soi sáng  nên đã thốt ra những lời  trên để ca tụng Đức Mẹ. Như thế đủ cho thấy Giáo Hội ,từ đầu, đã không sai lầm khi tuyên xưng Đức Trinh Nữ Mara là Mẹ Thiên Chúa, vì  là Mẹ thật của Chúa Giê su-Kitô, cũng là Thiên Chúa thật, đồng bản tính ( bản thể= Substance) với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi một Thiên Chúa ( Holy Trinity).

 

Nhưng cho dầu với địa vị cao trọng làm vậy, Đức Mẹ cũng không cao hơn Thiên Chúa mà chỉ được tôn kính( veneration) ở mức Hyperdulia trong khi Thiên Chúa được tôn thờ  ( adoration) ở mức Latria trong phụng vụ thánh của Giáo Hội.Nghĩa là chúng ta chỉ phải thờ lậy ( adore), ngượi khen, vinh danh  một mình Thiên Chúa mà thôi, chứ không thờ  lậy Đức Mẹ, mà chỉ tôn kính ( venerate)  Mẹ cách đặc biệt ( hyperdulia) hơn các Thánh nam nữ khác,  được tôn kính ở mức Dulia.

 

Do đó, trong thực hành, người tín hữu phải cầu xin Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhờ Đức Mẹ và các Thánh chuyển giúp cầu thay, chứ không cầu xin Mẹ hay bất cứ Thánh Nam nữ nào như nguồn ban phát mọi ơn phúc.Chỉ có Chúa  là  cội nguồn của mọi ơn phúc mà chúng ta phải cầu xin cho được an vui trong cuộc sống trên trần gian này , và nhất là biết  sống  xứng đáng  là con cái của Cha trên trời để được cứu rỗi nhờ công nghiệp Chúa Kitô và sự  phù giúp đắc lực của Đức Mẹ và các Thánh Nam nữ  đang  vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng.

 

Lại nữa, khi vào nhà thờ hay nhà nguyện nào, thì  phải bái lậy trong tâm tình thờ lậy  Chúa trong nhà tạm ( Tabernacle) trước khi bái kính  ảnh tượng Đức Mẹ , Thánh Cà Giuse, hay Thánh  nam nữ nào khác.Phải nói điều này vì có một số người, khi vào nhà thờ,  đã chạy ngay đến nơi có thánh thượng Đức Mẹ  để cầu xin mà quên bái quỳ thờ lậy Chúa Kitô đang hiện diện thực sự  trong nhà tạm.

 

Tóm lại, sùng kính Đức Mẹ là việc đạo đức rất tốt đẹp và đáng khuyến khích cho mọi tín hữu, nhưng đừng quên là trên hết phải thờ lậy Chúa  là Đấng mà Mẹ Maria cũng phải tôn thờ cùng các Thánh nam nữ và các Thiên Thần, mặc dù Mẹ có địa vị cao trọng là Mẹ Chúa Kitô và cũng là Mẹ Thiên Chúa như Giáo Hội dạy.

3-
 Mẹ Maria có nhận công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô không ?

Theo giáo lý của Giáo Hội, chúng ta phải tin  Mẹ được diễm phúc  thụ thai không mắc tội nguyên tổ ( immaculate Conception) và mọi tội khác  như mọi người trong nhân loại, cũng như được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa, vì là Mẹ thật của Chúa Kitô, cũng là Thiên Chúa thật  đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần như đã nói ở trên. Nhưng Mẹ không cao hơn Chúa và không cùng một bản thể ( substance) với  Ba  Ngôi  Thiên Chúa, nên Mẹ vẫn phải nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô  như chính Mẹ đã tuyên xưng như sau:

 

 Linh hồn tôi ngượi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
 Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.…” ( My Savior)
( Bài ca Ngượi khen Magnificat, Lc 1: 46-55)

 

Vì là Mẹ Chúa Kitô, nên Mẹ được diễm phúc khỏi tội tổ tông và mọi tội cá nhân từ  khi được thụ thai cho đến khi về trời cả hồn xác. Mẹ được sinh ra như  mọi tạo vật khác, trừ đặc ân được  giữ gìn khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi để xứng đáng làm Mẹ  Ngôi Lời nhập thể.

 

Nhưng việc nhận ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu ,Con của Mẹ, không làm thương tổn địa vị cao trọng của Mẹ là Mẹ Ngôi Hai và là Mẹ Thiên Chúa. Ngược lại, Mẹ đã vinh danh Chúa Cứu Thế  Giêsu khi nhận ơn cứu chuộc của Chúa, vì “ ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh ấy mà được cứu độ.” ( Cv 4 :12)

 

Như thế khi nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô, Mẹ  đã tôn vinh Chúa là Đấng cứu thế duy nhất đã hòa giải con người với Thiên Chúa qua vâng phục và hy sinh chịu chết trên thập giá năm xưa,  mặc dù Mẹ không có tội lỗi nào cần phải được tha thứ nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa.

 

Chúng ta cảm tạ Mẹ Maria thật nhiều  vì Mẹ đã “ xin vâng” với Thiên Chúa để làm Mẹ Chúa Cứu Thế Giêsu, và cộng tác với Con của Mẹ trong sứ mệnh cứu chuộc  cho nhân loại khỏi phải chết vì tội. Vai trò của  Mẹ thật quan trọng trong Chương Trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô, Con của Mẹ.

 

Vậy chúng  ta hãy siêng năng chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ nguyện giúp cầu thay cho chúng ta  được mọi ơn cần thiết của Chúa trong cuộc lữ hành về quê Trời giữa bao khốn khó , gian nan vì cản trở  và đánh phá  của ma quỷ ,  cám dỗ của thế gian với đầy rẫy gương xấu, dịp tội và vì  bản chất yếu đuối nơi mỗi người chúng ta.

 

Lm. Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn.