24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - NGÀY TẬN THẾ

  • nguyenthi leyen
    Nov 19 at 11:26 PM
     
    Ảnh cùng dòng

    Tận thế
    Trầm Thiên Thu
     

    Thời gian thấm thoát. Mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm, cả về năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – tức là tận thế, Công giáo gọi là cánh chung.

     

    Tận thế là 2 từ người ta không muốn nghe ai nhắc tới, vì nó khiến người ta e ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế có thể là niềm mong chờ của người này, nhưng có thể lại là nỗi sợ của người khác.

    Ngôn sứ Đanien nói: “Thời đó, Micaen sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Đn 12:1a). Đó là những lời tiên báo về ngày tận thế, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là đáng sợ, nhưng lại không hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ sẽ được “thoát nạn”.

    Ngôn sứ Đanien giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết, vậy mà họ “trỗi dậy”, tức là sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung thẩm. Nhưng số phận mỗi người khác nhau:: “Người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có người sợ hãi và có kẻ vui mừng.

    Tác giả Thánh vịnh thân thưa thay những người thuộc về Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao chúng ta quyền quản lý. Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:8-9).

    Tác giả Thánh vịnh xác định nguyên nhân: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn chúng ta không đủ ngôn từ để diễn tả niềm hoan lạc được cận kề bên Chúa!

    Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức để hoàn hảo. Nhưng có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10:12).

    Vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là những tội nhân. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).

    Nói về ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu hiệu: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Đó là giờ G. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó, “Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27).

    Thấy những sự việc diễn biến hằng ngày, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy ra. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt!

    Tuy nhiên, hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba ngày, ba đêm”,… thế nên người ta lo tích lũy nến và mì gói để “đối phó”. Thật là nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin lời Chúa nói. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13:32).

    Vậy sao người ta vẫn bịa ra những tin đồn? Thật tệ hại là vẫn có những người nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết thì sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm trên trời, dưới đất là sao? Quá vô lý!

    Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững niềm tin vào Lời Chúa và hoàn toàn tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

     

     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ HAI CN33TN-B

  • Tinh Cao
    Nov 18 at 7:16 PM
    HỌC HỎI- CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ LC -THỨ HAI CN33TN-B

    Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 1, 1-4; 2, 1-5a

    "Hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ mức nào và hãy hối cải".

    Khởi đầu sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.

    Mạc khải của Ðức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người các điều sắp xảy ra. Vậy Người đã sai thiên thần loan báo cho tôi tớ người là Gioan, và Gioan làm chứng rằng tất cả những gì ông đã thấy là lời của Thiên Chúa và lời chứng của Ðức Giêsu Kitô. Phúc cho ai đọc và nghe các lời tiên tri này, cùng tuân giữ những điều đã chép trong đó, vì thời giờ đã gần.

    Gioan kính gởi bảy Giáo đoàn ở Tiểu Á. Nguyện chúc ân sủng và bình an cho anh em do từ Ðấng đang có, đã có và sẽ đến và do từ bảy thần linh đứng trước ngai của Người.

    Tôi nghe Chúa phán bảo tôi: "Hãy viết cho thiên thần Giáo đoàn Êphêxô rằng: 'Ðây là lời của Ðấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng. Ta biết việc làm của ngươi nổi bật và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể dung kẻ bất lương; ngươi đã thử thách những kẻ tự cho mình là tông đồ, mà kỳ thực thì không phải, nhưng ngươi đã thấu rõ họ là hạng gian dối. Ngươi có lòng kiên nhẫn, ngươi đã chịu đựng vì danh Ta mà không sờn lòng. Nhưng Ta trách ngươi điều này, là ngươi đã bỏ lòng yêu mến thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã sa sút từ mức nào, hãy ăn năn hối cải và làm lại những việc thuở ban đầu' ".

    Ðó là lời Chúa. 

    Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

    Ðáp: Ta sẽ cho kẻ thắng trận ăn trái cây sự sống (Kh 2, 7b).

    Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

    2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

    3) Kẻ gian ác không được như vậy: họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp. 

    Alleluia: Lc 16, 31

    Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia. 

    Phúc Âm: Lc 18, 35-43

    "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.

    Ðó là lời Chúa.

     

     

    Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên, cũng là bài Phúc Âm theo Thánh Marco (10:46-52) được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B, về phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu "cho một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường". 

    Tuy nội dung của 2 bài Phúc Âm này được cả hai Thánh Ký Marco và Luca thuật lại giống nhau, nhưng về chi tiết hơi khác nhau một chút. Chẳng hạn ở những chi tiết rõ ràng sau đây: 

    Trước hết, về nơi xẩy ra phép lạ Chúa, trong khi Thánh ký Marco thuật lại rằng "Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô", thì Thánh ký Luca trong bài Phúc Âm hôm nay lại viết rằng "Chúa đến gần thành Giêricô".

     

    Sau nữa, về bản thân của nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này, trong khi Thánh ký Marco (một vị thánh ký viết Phúc Âm ngắn nhất trong bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, nhưng lại khá chi tiết về các biến cố xẩy ra) cho biết rõ lý lịch của nạn nhân là "con ông Timê tên là Bartimê", thì Thánh ký Luca lại chẳng nói gì hết.

     

    Còn nữa, về thái độ của người mù ngồi ăn xin bên vệ đường này, trong khi Thánh ký Marco cho biết rõ chi tiết về phản ứng của nạn nhân khi nghe thấy mình được Chúa Giêsu gọi đến là "anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu", thì Thánh ký Luca lại chỉ vắn tắt viết: "anh đến gần bên Người".

     

    Sau hết, về lời truyền chữa lành của Chúa Giêsu phán cùng nạn nhân, trong khi Thánh ký Marco ghi lại rằng: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh", thì Thánh ký Luca ở đây lại chi tiết hơn Thánh ký Marco một chút như thế này: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".

     

    Ngoài ra, cả hai vị Thánh ký đều giống nhau ở thái độ của nạn nhân là khi nghe biết có Chúa Giêsu ở đấy thì van xin, và càng bị trấn át thì càng la to hơn, cho đến khi được Người gọi đến, và cũng giống nhau ở câu đối đáp giữa Chúa Giêsu và nạn nhân trước khi phép lạ xẩy ra, đó là Chúa Giêsu hỏi nạn nhân muốn Người làm gì cho nạn nhân và nạn nhân đã xin Người phục quang cho mình. 

     

    Ở đây, để thêm vào các suy niệm và suy diễn đã được chia sẻ cho Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXX Thường Niên Chu Kỳ B, có hai chi tiết khiến chúng ta suy nghĩ không ít:

     

    Chi tiết thứ nhất liên quan đến đấng chữa lành, đó là "Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người", và chi tiết thứ hai liên quan đến nạn nhân được chữa lành: "anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa".

     

    Thật vậy, đây là quả là một vũ điệu thần linh tuyệt vời. Ở chỗ, tác động thần linh từ Đấng Chữa Lành đã được phản hồi hết sức tương xứng bằng một đáp ứng thần linh từ nạn nhân được chữa lành. 

     

    Nạn nhân trước khi được chữa lành không hề dám tự động quẳng áo choàng đứng lên tiến đến gần Chúa Giêsu khi thoạt tiên vừa nghe thấy Người đến gần chỗ nạn nhân đang ngồi ăn xin, mà chờ đợi cho tới khi được Người gọi tới. Thái độ cứ ngồi yên một chỗ đợi chờ không phải là thái độ không nhiệt tình, mà là một thái độ tin tưởng hơn hết, ở chỗ, một đàng thì kêu la van xin cho bằng được, trong khi lại ngồi yên tại chỗ như thể nạn nhân cảm thấy mình hoàn toàn bất xứng không đáng đến gần Chúa Giêsu, cũng như bất lực không thể nào làm gì được nếu không có Người. 

    Đúng thế, tác động thần linh bao giờ cũng đến trước đáp ứng thần linh của thụ tạo, như yếu tố thiết yếu và điều kiện bất khả thiếu để thụ tạo nhờ đó và do đó mới có thể bị động, mới có thể cảm động và mới có thể di động theo tác động thần linh. Bởi thế, chỉ khi nghe thấy Chúa Giêsu truyền gọi, nạn nhân mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường ở thành Giêricô này mới đến được và được đến với Người. 

    Thực tế sống đạo cũng cho thấy thực tại này, ở chỗ, những ước muốn tốt lành của chúng ta cũng cần phải được Thiên Chúa tác động trước, hơn là tự chúng ta có được, vì chúng ta theo bản tính tự nhiên đã bị hư đi theo nguyên tội, luôn hướng hạ hơn là hướng thượng. Một khi chấp nhận ước muốn tốt lành bởi tác động thần linh khởi động ấy, chúng ta mới bày tỏ lòng khát vọng của chúng ta bằng lời cầu nguyện, nhờ đó Thiên Chúa được dịp ban cho chúng ta chính những gì Ngài đã muốn ban nên đã soi động chúng ta ước muốn trước khi van xin. 

    Cuộc hội ngộ thần linh trong bài Phúc Âm hôm nay đã xẩy ra một cách hết sức ngoạn mục. Ở chỗ, nạn nhân kháo khát được chữa lành, trong khi Thiên Chúa vô cùng nhân hậu đã sẵn muốn chữa lành cho nạn nhân rồi, và chỉ chờ đến giờ của mình là ra tay lập tức, tức là cho đến khi nghe thấy nạn nhân kêu xin mình thì đáp ứng ngay, như thể Đấng Chữa Lành thụ động còn nạn nhân chủ động, như xẩy ra trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại. 

    Nạn nhân mù ngồi ăn xin hằng ngày ở thành Giêricô tên Bartimê này, chắc đã lâu lắm rồi, với một thân phận nghèo khổ và tương lai mịt mù như bóng tối hằng che phủ đôi mắt của nạn nhân, có ngờ đâu lại bất ngờ được gặp và gặp được Đấng chữa lành cho mình, và như thế, quả thực cuộc đời của nạn nhân đã được Thiên Chúa sử dụng để tỏ mình Ngài ra, giống hệt như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh trong Phúc Âm Thánh ký Gioan (9:3).

    Phải chăng cảm nhận được như vậy, nạn nhân diễm phúc này đã không còn thiết gì thế gian này nữa, vì nạn nhân được sáng mắt không phải chỉ thấy được ánh sáng tự nhiên mà nhất là thấy được chính "ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), một thứ ánh sáng thần linh ban sự sống đã chữa lành cho nạn nhân, và vì thế nạn nhân đã "đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa"? 

    Bản thân của nạn nhân đã trở thành một cuộc thần hiển cho Thiên Chúa tỏ mình ra, chẳng những cho chính nạn nhân, mà còn cho cả cộng đồng gần xa của nạn nhân nữa. Mục đích của Thiên Chúa ban ơn cho bất cứ một ai không phải chỉ cho riêng người đó mà còn qua người đó cho các người khác nữa. Bao giờ cũng thế. Đó là nguyên tắc và đường lối tỏ mình ra của Ngài. Bởi thế, bài Phúc Âm hôm nay đã kết luận như sau: "Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa".

    Người mù Batimê ở cổng thành Giêricô trong Bài Phúc Âm hôm nay, tuy không thấy gì những sự vật về thể lý, nhưng lại rất sáng suốt về tâm linh như thế, không phải nhờ trí khôn thông minh của nạn nhân, mà là bởi có Thần Linh Thiên Chúa ở cùng, Vị Thần Linh, như Thánh Gioan diễn tả trong Sách Khải Huyền ở Bài Đọc 1 hôm nay, “của Ðấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng”, Đấng bởi tràn đầy Thần Linh ấy đã biết được “Giáo Đoàn Êphêsô” như thế nào, về cả mặt tích cực lẫn tiêu cực của họ, để khuyên dạy họ, theo chiều hướng của Bài Đáp Ca hôm nay:

    1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.

    2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.

    3) Kẻ gian ác không được như vậy: họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên đây

     

    Thu.2.XXXIII.mp3  

     

     
     

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THU BA CN31TN-B

 

  •  
    HỌC HỎI - SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA THỨ BA CN31TN-B

    Phúc Âm: Lc 14, 15-24

     

    "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".

    Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được". 

    "Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi". 

    Ðó là lời Chúa.

     Image result for Lk 14, 15-24

    HỌC HỔI-SỐNG VÀ Chia sẻ Lời Chúa:  

    Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXI Thường Niên Quanh Năm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta trong Bài Phúc Âm của ngài về bữa tiệc mời và thái độ đáp ứng của khách được mời.

     

    Chúng ta nên nhớ rằng, Bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua và 2 Bài Phúc Âm cuối tuần trước, những Bài Phúc Âm ở nửa đầu của Đoạn 14 này cho biết rằng Người đang tham dự bữa ăn ở nhà của một trong những người lãnh đạo nhóm biệt phái, một môi trường hiếm quí Người muốn lợi dụng để có thể tỏ mình ra cho riêng thành phần hầu như toàn biệt phái lúc ấy.  

    Theo thứ tự của các Bài Phúc Âm này thì đầu tiên, ở Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước, Người đã dạy cho thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật một cách duy luật này về ý nghĩa nhân bản đích thực của bản chất luật, bằng cách chữa lành nạn nhân bị thủy thủng ngay trong ngày hưu lễ và tại nhà của gia chủ biệt phái.  

    Sau đó, ở Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Người dạy cho thành phần biệt phái ham danh đầy khoe khoang này về thái độ họ cần phải có khi họ được mời đến dự tiệc nơi công cộng, ở chỗ "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" ở chỗ sẵn sàng chấp nhận bất cứ chỗ nào đã ấn định cho mình, chứ không phải "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", tức những gì theo ý riêng chủ quan đầy tham vọng của mình. 

    Rồi trong Bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Hai, cũng liên quan đến bữa ăn, Người trực tiếp ngỏ cùng gia chủ biệt phái mời Người hôm ấy về tinh thần mà ông cần có trong việc mời mọc khách đến tham dự tiệc tùng do ông khoản đãi, ở chỗ, đặc biệt là mời những ai không thể nào đền đáp lại lòng tốt của ông. 

    Cũng lợi dụng bối cảnh của một bữa ăn hôm ấy và chẳng những theo tư cách là khách tham dự (như Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước), mà còn theo tư cách của người đãi tiệc (như Bài Phúc Âm hôm qua), hôm nay, qua Bài Phúc Âm theo ngày, và lợi dụng câu hỏi của "một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa'", Người đã nói đến cả 2 vế: vế người đãi tiệc lẫn vế khách được mời. 

    Về vế người đãi tiệc, Bài Phúc Âm hôm nay cho biết Chúa Giêsu đã tiếp tục dùng dụ ngôn mà dạy như thế này: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi". 

    Về vế của khách được mời, Bài Phúc Âm cho biết phản ứng của "mọi người" trong họ, nại đủ những lý do riêng tư chính đáng của họ như sau: "Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: 'Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu'. Người thứ hai nói: 'Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu'. Người khác lại rằng: 'Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được'". 

    Trước thái độ có vẻ coi thường của khách được mời, của "mọi người", của tất cả mọi khách được vinh dự mời như thế, khiến cho bữa tiệc thịnh soạn của mình dọn ra chỉ để đãi khách như bị ế ẩm như thế, người đãi tiệc đã tỏ thái độ ra sao, Bài Phúc Âm hôm nay đã thuật lại như sau:  

    "Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt'. Người đầy tớ trở về trình rằng: 'Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ'. Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi'". 

    Ở đây, trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người đãi tiệc và khách được mời này có ít là hai điều cần chú ý, nhờ đó có thể biết được ẩn ý của dụ ngôn, nghĩa là biết được dụ ngôn này ám chỉ về ai, điều chú ý thứ nhất liên quan đến phía khách được mời và điều chú ý thứ hai liên quan đến phía người đãi tiệc.

     

    Về phía khách được mời, dụ ngôn cho biết là "mọi người đồng thanh xin kiếu" và thành phần "mọi người" đây phải chăng ám chỉ chung dân do Thái, cho đến nay, họ vẫn từ chối tham dự bữa tiệc Nước Trời được Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ dọn ra cho họ và mời họ đầu tiên, bằng cách, cho đến nay họ vẫn chưa chấp nhận Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai của họ? 

    Về phía người đãi tiệc, dụ ngôn cho thấy thái độ của người này tỏ ra trước phản ứng bất lợi của khách được mời, một thái độ rất tuyệt vời trong việc giải quyết theo chiều hướng biến dữ thành lành. Ở chỗ, người đãi tiệc này đã mời đủ mọi loại khách xa lạ khác đến tham dự thay chỗ cho đám khách quí thân quen trước đó, một thái độ được tỏ ra đúng như những gì Chúa Giêsu đã dạy cho gia chủ biệt phái trong bài Phúc Âm hôm qua trong việc mời khách thì mời thành phần không thể đáp trả.  

    Thật vậy, dự án cứu độ của Thiên Chúa ngay từ đầu, sau nguyên tội, là cứu chuộc toàn thể nhân loại (xem Khởi Nguyên 3:15), chứ không phải riêng thành phần dân được Ngài ưu tuyển nơi tổ phụ của họ là Abraham, một giòng dõi mà ngài, theo gia phả, đã thực sự mang giòng máu lịch sử nhưng với bản tính của chung loài người. 

    Bởi thế, vị tông đồ dân ngoại Phaolô, trong Thư gửi giáo đoàn Philiphê ở Bài Đọc 1 hôm nay đã ý thức rất chính xác về Lời Nhập Thể rằng: 

    Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá” 

    Đúng vậy, Thiên Chúa đã khoản đãi chung loài người, cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, một bữa tiệc cứu độ Nước Trời thật cao lương mỹ vị đó là chính Con Ngài Nhập Thể và Vượt Qua, một cuộc Vượt Qua bao gồm cả Khổ Giá buồn khổ đau thương lẫn Phục Sinh vinh hiển hân hoan, như Thánh Phaolô đã xác tín và tuyên bố trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

    ”Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang”. 

    Những ai được cứu chuộc và cảm nhận được sâu xa lòng thương xót của vị gia chủ tự động thiết đãi mình là một kẻ hoàn toàn bất xứng chẳng có công lao hay tư cách gì, một bữa tiệc thần linh linh đình tuyệt diệu như thế, sẽ không thể nào không có những tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay: 

    1) Bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời".

     

    2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa.

     

    3) Miêu duệ con sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng: "Ðiều đó Chúa đã làm".

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên đây

     

    -----------------------------------------------


 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THU HAI CN32TN-B

 

  •  
    nguyenthi leyen <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.>
    Nov 12 at 12:44 AM
     
    Ảnh cùng dòng

    HỌC HỎI  ĐỂ  SỐNG ĐẠO - THỨ HAI 12/11/2018 TUẦN 32 TN
     
     
    Bài Ðọc I: (Năm II) Tt 1, 1-9

    Phúc Âm: Lc 17, 1-6

    "Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.

    "Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: "Tôi hối hận", thì con hãy tha thứ cho nó".

    Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển", nó liền vâng lời các con".

    Ðó là lời Chúa.

    Image result for Lk 17, 1-6

    HỌC HỎI- SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA

    Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXII Thường Niên, Bài Phúc Âm bao gồm 3 vấn đề "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ" của Người, những vấn đề dường như hoàn toàn khác nhau, chẳng liên quan gì đến nhau: vấn đề thứ nhất là "gương xấu", vấn đề thứ hai là "sửa bảo nhau" và vấn đề thứ ba là "lòng tin hạt cải".

    Về "gương xấu": "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này". 

    Về "sửa bảo nhau": "Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: 'Tôi hối hận', thì con hãy tha thứ cho nó"

    Về "lòng tin hạt cải": "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển', nó liền vâng lời các con".

    Thật ra, nếu phân tích kỹ, chúng ta sẽ thấy cả 3 vấn đề này đều có liên hệ với nhau. Chẳng hạn: vì "gương xấu không thể nào" không xẩy ra trên thế gian này (vấn đề 1), nên có thể sẽ khiến cho một số người nhẹ dạ như "những trẻ nhỏ" sa ngã phạm tội (vấn đề 2), nhưng muốn khỏi bị gương mù lôi cuốn đến vấp ngã thì cần phải có một "đức tin" trưởng thành thật là vững chắc (vấn đề 3). 

    Trước hết, về vấn đề "gương xấu": sở dĩ "không thể nào mà không xảy ra" là vì thế gian này, nhất là bản tính của con người, đã bị nguyên tội làm băng hoại, nên mới có những tư tưởng, lời nói, hành vi cử chỉ và việc làm xấu xa bậy bạ. Đôi khi chính đối tượng nhân không có gì là xấu xa bậy bạ, nhưng đối tượng nhân này tự nhiên lại trở thành "dịp tội" cho một người nào đó. Điển hình nhất là một người nữ đẹp, dù rất đoan trang nết na, vẫn rất có thể trở thành "dịp tội" cho một cặp mặt nhục dục nam nhân nào đó. 

    Trong trường hợp này, người nữ vô tình ấy không làm "gương xấu", mà người nam nhục dục kia vẫn có thể phạm tội, bởi "dịp tội" ở ngay con mắt của nam nhân này (xem Mathêu 5:28-29), ở ngay xu hướng thèm thuồng nhục thể của chàng ta. Nếu anh ta nhắm mắt lại, quay đi hay bỏ đi chỗ khác khi bị cám dỗ thì đã không phạm tội ngoại tình trong lòng của mình. Trái lại, nếu người nữ đã đẹp lại còn ăn mặc sexy thì hành động khiêu dâm hay thân mình gợi dục đến xúi dục mời gọi của nàng quả thực càng là "gương xấu" gây "dịp tội" cho thành phần nam nhân vốn có khuynh hướng chiếm đoạt...

    Thế gian đã không thể tránh "gương xấu" mà còn càng gia tăng gương xấu hơn bao giờ hết trong một thế giới càng văn minh về vật chất và càng văn hóa về nhân quyền, những gương xấu khủng khiếp chưa bao giờ có, chẳng hạn quyền phá thai, quyền được hôn nhân đồng tính v.v., khiến cho Chúa Giêsu dường như đã thấy trước và đã phải công nhận "vì sự dữ gia tăng mà lòng người hầu hết trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12).

    Đối với những ai gây "gương xấu" như thế thì phải chịu trách nhiệm về hành vi cử chỉ của mình: "vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này". Tại sao hình phạt cho thành phần gây ra gương xấu không phải là một hình phạt nào khác ngoài hình phạt "bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển"? Phải chăng là vì họ chẳng khác gì như đàn heo bị quỉ nhập nên đã lao đầu xuống biển sau khi đám quỉ xuất khỏi người bị chúng ám (xem Mathêu 8:28-30)?

    Tuy nhiên, không ai trong chúng ta dám vỗ ngực cho mình là trưởng thành, khó có thể hay không thể nào sa ngã trước bất cứ một gương xấu vào một lúc nào đó trong đời, và cũng chẳng ai dám tự phụ cho mình là chưa bao giờ gây gương mù gương xấu cho ai, nghĩa là chúng ta chưa bao giờ phạm tội, vì tội lỗi của chúng ta tự bản chất là một gương mù. Bởi thế, ai cũng có lỗi và cũng cần phải ăn năn thống hối và hoán cải. 

    Thế nhưng, không phải vì thế mà chúng ta không dám chỉ bảo cho ai hay sửa lỗi cho ai. Trái lại, chính vì chúng ta lỗi lầm mới thấy được cái xấu xa và tai hại của lầm lỗi gây gương mù gương xấu tác hại lẫn nhau của chúng ta, mà chúng ta càng cần phải giúp cho nhau tránh khỏi những lầm lỗi như chúng ta, tránh gây tác hại xấu cho chung đoàn thể của chúng ta, bằng cách giúp nhau hoàn chỉnh lại những gì cần thiết. 

    Nhất là phải có lòng quảng đại thứ tha một khi phạm nhân tỏ lòng thống hối ăn năn, thậm chí họ cứ sa đi ngã lại nhiều lần trong ngày nhưng vẫn có thiện chí hoán cải qua hành động họ tỏ thiện chí đến xin lỗi chúng ta: "nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: 'Tôi hối hận', thì con hãy tha thứ cho nó". 

    Có thế, có thông cảm tha thứ cho hối nhân, mới chứng tỏ chúng ta sửa lỗi cho nhau chỉ vì thương nhau và cho công ích, bằng không, nếu cứ chấp nhất nhau, một khi họ đã hối hận và xin lỗi chúng ta, thì rõ ràng là chúng ta sửa bảo nhau chỉ vì những lý do không chính đáng, và chắc chắn chúng ta cũng không được Chúa thứ tha, thậm chí Ngài còn để cho chúng ta bị đong lại đúng cái đấu chúng ta đong cho anh chị em của chúng ta nữa (xem Luca 6:38). 

    Để có thể vừa tránh gương xấu bất khả tránh xẩy ra trên thế gian đã bị băng hoại bởi nguyên tổ này, và để có thể giíp nhau hoàn chỉnh cuộc đời theo ý Chúa, chúng ta không thể nào thiếu đức tin hay yếu đức tin. Hình ảnh "những trẻ nhỏ" bị lôi cuốn bởi gương xấu và sa ngã theo gương xấu là hình ảnh tiêu biểu cho bản tính yếu đuối của con người, cho một đức tin non dại chưa trưởng thành của Kitô hữu. 

    Đó là lý do trong Bài Phúc Âm hôm nay "các Tông đồ thưa với Chúa rằng: 'Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con'". Thật ra đức tin tự bản chất đối nội không tăng trưởng, vì đức tin đã chất chứa tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, không còn thiếu một sự gì. Tuy nhiên, đức tin ấy, đối ngoại, vẫn có thể gia tăng hay giảm sút, mạnh mẽ hay yếu mềm, tùy ở môi trường của đức tin, tùy ở mỗi một người có biết thực hành đức tin hay chăng, nhất là có biết chấp nhận mọi gian nan đau khổ thử thách để sống đức tin và chứng tỏ đức tin hay chăng! 

    Tuy nhiên, đức tin gia tăng hay lớn lên hoặc mạnh mẽ không phải ở chỗ phát triển về hình dạng như thân thể của con người trong thời kỳ trưởng thành, mà trái lại càng nhỏ đi, nhỏ như "hạt cải" được Chúa Giêsu ví trong bài Phúc Âm hôm nay, "một hạt nhỏ nhất trong các hạt giống" (Mathêu 13:32), nhưng lại có khả năng và quyền lực thần kỳ trong việc có thể "khiến cây dâu này rằng: 'Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển', nó liền vâng lời các con". 

    Tại sao thế, nếu không phải, theo nguyên tắc tu đức và đường lối siêu nhiên, thì càng nhỏ lại càng lớn: "ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này là kẻ lớn nhất trên Nước Trời" (Mathêu 18:4)! 

    Kinh nghiệm sống đức tin cũng cho thấy, một khi càng cậy mình lại càng thất bại, hay có thành công rồi cũng thất bại, thất bại một cách chua cay, bằng không, càng thành công càng nguy hiểm cho phần rỗi, Trái lại, cho dù đã cố gắng hết sức, lại càng chẳng làm được gì, càng bất lực trong những việc đạo đức và tông đồ mình ham muốn, mà nhờ đó mới có thể hoàn toàn trông cậy vào Chúa, mới càng được Chúa chiếm đoạt và càng làm được những việc cao cả chưa từng thấy và theo sức tự nhiên không thể nào làm được, vì Chúa sống trong họ và hoạt động qua họ, nhờ họ.

    Vì thế gian không thể nào thoát khỏi gương mù là những gì cần phải được chỉnh sửa bằng đức tin của thành phần môn đệ của Chúa Kitô, như Bài Phúc Âm thứ tự dường như cho thấy như thế qua lời Chúa Giêsu giáo huấn, mà vị tong đồ dân ngoại Phaolô đã ý thức được ơn gọi và sứ vụ “tông đồ” của mình, như ngài đ ã nói cùng một trong những người môn đệ của mình là Titô của ngài trong Bài Đọc 1 hôm nay: “để rao giảng đức tin cho những kẻ được Thiên Chúa kén chọn và làm cho họ nhận biết chân lý; chân lý đó giúp họ ăn ở đức hạnh và ban cho họ niềm hy vọng sống đời đời mà Chúa, Ðấng chẳng hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời”.

    Bởi sứ vụ hoàn chỉnh thế gian bao gồm tất cả mọi Kitô hữu, thành phần môn đệ của Chúa Kitô, được Người xác định phải “là ánh sáng thế gian” (Mathêu 5:14) đối với những con người sống trong “thế gian ưa chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Gioan 3:19) mà thánh Phaolô chẳng những được tuyển chọn làm tông đồ “để rao giảng đức tin… làm cho họ nhận biết chân lý”, mà còn truyền đạt sứ vụ này cho những người môn đệ của mình nữa, như cho Titô trong Bài Đọc 1 hôm nay, liên quan đến cả “việc chỉnh đốn” lẫn việc “thiết lập” thành phần lãnh đạo giáo đoàn cho xứng đáng, tránh gương mù bao nhiêu có thể:                                                                                                           

    “Lý do Cha để con ở lại đảo Crêta là để con chỉnh đốn những gì còn thiếu sót, và thiết lập các Trưởng lão trong mỗi thành như cha đã căn dặn. Con người được chọn phải là người không có gì đáng trách, chỉ kết hôn một lần; có con cái ngoan đạo, không mang tiếng buông tuồng hoặc ngỗ nghịch. Vì chưng, chủ tịch cộng đoàn, theo tư cách là người quản lý của Chúa, phải là người không có gì đáng trách, không kiêu căng, không nóng nảy, không mê rượu, không gây gỗ, không trục lợi đê hèn, nhưng hiếu khách, hiền lành, tiết độ, công minh, thánh thiện, tiết hạnh, nắm giữ lời chân thật hợp với đạo lý, để có thể dùng đạo lý lành mạnh mà khuyên dụ và phi bác những kẻ chống đối”. 

    Muốn chỉnh đốn thế gian gương mù thì thành phần được Thiên Chúa tuyển chọn làm tong đồ và là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài phải sống xứng đáng với những gì mình rao giảng, mình làm chứng, thành phần được Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả về bản thân họ, bao gồm những yếu tố tu đức bất khả thiếu, như “tay vô tội” và  “lòng thanh khiết”, luôn “tìm kiếm Chúa”: 

    2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hưởng bả phù hoa.

    3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên đây

     

    Thu.2.XXXII.mp3  

    -----------------------------------

     


 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO -THIÊN THẦN VÀ LOÀI NGƯỜI

CÁC THÁNH ,CÁC THIÊN THẦN  VÀ LOÀI  NGƯỜI KHÁC VÀ GIÔNG NHAU THẾ NAO?

Hỏi :

Nhân Lễ kính các Thánh ngày 1 tháng 11, xin cha giải thích rõ những thắc mắc sau đây :

  • Có Thiên Thần không ?
  • Thiên thần, các Thánh và loài người khác và giống nhau thế nào ?

Trả lời :

  • Có Thiên Thần ( Angels) hay không ?

Để trả lời câu hỏi này , xin đọc Sách Giáo Lý của Giáo Hội đã  nói rõ như sau : : “ “Sự hiện hữu của các hữu thể  thiêng liêng,  không có thân xác mà Thánh Kinh thường gọi là các Thiên Thần, (Angels) là một chân lý của đức tin. chứng từ của Thánh Kinh cũng  rõ ràng như toàn thể Thánh Truyền. “ ( x. SGLGHCG, số 328))

Là chân lý của đức tin có nghĩa đây là điều phài tin trong toàn bộ niềm tin của Đạo Thánh do Chúa Kitô khai sinh  và rao giảng cách nay trên 2000 năm..

Chúa  Giêsu đã nói đến các Thiên Thần như sau :

   “ Anh  em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh  em biết : các Thiên Thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan  Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” ( Mt 18:10)

Dịp khác, khi nói về sự sống của những ai được sống lại sau khi phải chết  trong thân xác con nhười, , Chúa cũng nói rõ : “ Quả thật, họ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các Thiên Thần. Họ là  con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” ( Lc 20: 36)

Lần nữa, Chúa  cũng nói đến công việc  của các thiên thần như sau:

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các Thiên Thần theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người.” ( Mt 25:31)

Các Thiên Thần cũng được gọi là các Thiên Sứ  (Heavenly Messengers) như  ta đọc thấy trong Thánh Vịnh sau đây:

       “ Chúc tụng Chúa đi , hởi muôn vì Thiên Sứ

        Bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người

          Luôn sẵn sàng  phụng lệnh.” ( Tv 103: 20)

Như thế rõ ràng cho thấy có các Thiên Thần hay Thiên Sứ ở trên trời. Họ là những  thực  thể thiêng liêng,  không có thân xác (spiritual non-corporeal beings) như loài người chúng ta.Họ đựơc tạo dựng cách hoàn hảo ngay từ đầu để thờ lậy, chúc tụng , ngợi khen Chúa trên Thiên Đàng.Họ.  không có thân xác,và không vướng mắc tội lỗi như con người. Nhưng  một số  -mà kẻ cầm đầu là Satan- đã nổi lên chống lại Thiên Chúa và “ Thiên Chúa sẽ không dung thứ cho các thiên thần có tội,  nhưng đã đẩy họ vào hố địa ngục tối tăm giữ họ để chờ cuộc phán xét.”( 2 Pr 2, 4)

. Khi phải thi hành mệnh lệnh hay sứ mạng nào của Thiên Chúa cho loài người,   thì các Thiên Thần cũng phải dùng những phương tiện “con người” để giúp con người hiểu sứ vụ của họ. Thí dụ, Sứ Thần Gabriel đã xuất hiện có thân xác và dùng ngôn ngữ loài người để truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria.(x Lc 1 :26-38)). Sau khi Chúa Giê su giáng sinh trong Hang bò lừa, các Thiên Thần cũng xuất hiện để báo tin cho các mục đồng biết và chỉ chỗ cho họ đến thờ  lậy Chúa Hái Đồng..Lại nữa,  Khi các Tông Đồ của Chúa Giêsu bị các thuợng tế Do Thái tống giam vào ngục thất, vì đã rao giảng tên Giêsu cho dân chúng, “ nhưng ban đêm các thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói : các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân chúng những lời ban sự sống. ( x. Cv 5:19-20)

Trong Giáo Hội, người ta thường minh hoạ các thiên thần với đôi cánh trên vai để “bay từ trời xuống”  (theo tưởng tượng của con người.).

II- Sự khác biệt giữa Thiên Thần, Các Thánh và con người:

  • Các Thánh là ai ?

Các thánh ( Saints) trước hết là những con người có hồn có xác, được sinh ra và sống  trên trần thế này và đều vướng mắc tội nguyên tổ (original sin) cũng như các tội cá nhân khác, trừ một mình Đức Trinh Nữ Maria, người  duy nhất được diễm phúc giữ gìn khỏi mọi tội lỗi từ phút đầu được thụ thai cho đến ngày về trời cả hồn xác.

.Thánh Gioan Tẩy Giả được tin là chỉ  mắc tội tổ tông trong 6 tháng  và được khỏi tội này khi Đức  Mẹ đến thăm viếng Bà Ê-li-sa-bét. đang mang thai Thánh nhân đã được sáu tháng.  Lúc đó.  “Bà Ê-li sa bét vừa nghe tiếng bà Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên , và bà được tràn đầy Thánh Thần” ( Lc 1:41).Từ sự kiện này, Giáo Hội tin Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ mắc tội tổ tông có 6 tháng thôi.

 Những người phàm được nên thánh vì đã sống thánh thiện, đã thực tâm yêu mến Chúa và đã “ thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt. 7: 21) trong suốt cuộc đời của họ trên trần thế này. Họ là những anh hùng  tử đạo, tức những người dám đổ  máu  ra để minh chứng lòng  yêu mến Chúa và trung thành với đức tin Công Giáo. Họ là những nhà truyền  giáo (missionaries).đã hy sinh đời mình cho sứ mạng  phúc  âm  hoá thế giới. Họ là các Tông Đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô. Họ là các Tổ phụ  dân Do Thái, là các Ngôn sứ (prophets) , các Giáo Phụ ( Church  Fathers) và cũng là những tín hữu không tên tuổi , tức  là những người chồng, người vợ  đã  chu toàn bổn phận của mình trong mọi  gia đình nhân loại, và âm thầm sống đức tin, đức cậy và đức mến cách sâu đậm trong suốt cuộc đời tại thế.

Đức Mẹ và các Thánh nam nữ đang hưởng Thánh nhan Chúa trên Thiên Đàng và cũng đang hiệp thông với các tín hữu trên trần thế và các linh hồn thánh trong nơi luyện tội( Purgatory) qua lời cầu bầu (intercessions) của họ  trước Toà Chúa cho chúng ta và cho các linh hồn  còn đang ở nơi thanh luyện  cuối cùng  là  Luyện tội ( purgatory) trước khi được vào Thiên Đàng. ( Tín điều các Thánh thông công).

  • Con người:

Là những tạo vật có hồn có xác,.được dựng nên “ theo hình ảnh của Chúa” (St 1:26). Con người được ban cho có lý trí và ý muốn  tự do (free will) để hiểu biết và tự do chọn lựa cách sống trên trần thế , nên phải chịu trách nhiệm  hoàn toàn về những chọn lựa của mình.trước Thiên Chúa là Đấng công minh,đầy lòng  thương xót và thánh  thiện.  Chính vì con người có tự do , nên vấn đề thưởng phạt  chỉ được đặt ra cho riêng con người  mà thôi.

Nói khác đi, trong tất cả các tạo vật hữu hình, “ chỉ mình con người có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng sáng tạo ra mình.” ( x SGLGHCG số 356).

Là tạo vật có lý trí và ý muôn tự do ( free will), con người được  mời gọi nên thánh để  chia sẻ sự sống và hạnh phúc  của Thiên Chúa  cùng các Thánh và các Thiên Thần  ở trên Thiên Đàng , tức Vương Quốc tình yêu và an vui  đời đời  với Chúa...Vì con người có trí hiểu và tự do chọn lựa , nên  Thiên Chúa sẽ  phán đoán con người về những việc mình làm  trong thân xác  và trên trần thế này cho đến ngày linh hồn xa lìa thân xác  trong sự chết của  bản thân mỗi người..

,Ai cũng có thể nên thánh và phải nên thánh, nên hoàn thiện  “ như Cha anh  em trên trời là Đấng hoàn thiện ” như Chúa Giê su đã kêu gọi.( Mt 5: 48).. Lời  mời này dành cho  hết mọi người sinh ra trên trần thế này.Nhưng vấn đề đặt ra là liệu con người có đáp lại lời mời gọi này hay không, vì con người còn có tự do chọn lựa để ưng thuận hay  từ khước.

Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do đó của con người. Nghĩa là Ngài không ép buộc ai phải yêu mến Ngài và vào dự “ Tiệc cưới , cỗ bàn đã dọn sẵn”(x. Mt 22:4). Nếu ai từ khước  vào dự  Bàn Tiệc Nước Trời, tức là hưởng phúc Thiên Đàng,   thì họ đã tự chọn cho mình món ăn và  nơi cư ngụ khác sau khi chấm dứt cuộc sống trên trần thế này.

Tóm lại, các Thiên Thần khác với loài người ở điểm căn bản này: Thiên thần là tạo vật hoàn toàn thiêng liêng (spiritual)  trọn hảo và bất tử. Chức năng của các ngài là các Thiên  sứ( Heavenly Messengers) tức các Sứ giả thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa và hầu hạ Người trên Thiên Đàng. Các Thiên Thần cũng che chở, phù giúp  mỗi  người

chúng ta cách đặc biệt trong cuộc sống trên trần gian này. Đó là chức năng của các Thiên Thần bản mệnh( Guardian Angels),  có lễ kính ngày 2 tháng 10 hàng năm.

Các Thánh là những con người từng có hồn xác, tức là có cả tinh thần lẫn vật chất và đã trải qua cuộc sống con người trên trần thế này. Các ngài đã được cứu độ  và trở nên thánh , nên giống các Thiên Thần vì đã sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này.

Như thế , mọi người chúng ta đều có hy vọng được cứu rỗi, trở thành  thánh và nên giống các Thiên Thần nếu chúng ta cùng quyết tâm noi gương các thánh nhất  là gương mẫu đức tin, đức cậy và  đức mến tuyệt vời  của  Mẹ  Maria, của Thánh Cả Giuse và của  các anh hùng tử đạo. Chúng ta cũng có thể nên thánh bằng những việc đơn sơ, nhỏ bé  nhưng  làm vì  lòng mến Chúa như Thánh nữ Tê-rê-xa Giêsu Hài Đồng hoặc yêu thương săn sóc những người nghèo khó, bênh tật, bị bỏ rơi ngoài đường phố như Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta, đã được tôn phong hiển thánh ( saint).

Tóm lại, có được cứu rỗi và nên thánh hay không là tuỳ  thuộc tự do chọn lựa của mỗi cá nhân cộng tác với ơn thánh của Chúa trong suốt  cuộc sống trên trần thế này.. Nếu ta quyết tâm thì Chúa sẽ giúp sức nâng đỡ để đạt mục đích cứu độ.. Ngược lai, nếu ai cương quyết từ khước Thiên Chúa để sống theo ý muốn của minh, và làm những sự dữ ,sự tội,  như giết người, giết thai nhi, căm thù, gian ác, trộp cướp, dâm ô; cụ thể  ( theo tin báo chí cho biết)  một người  cha và ông nội  đã   hiếp dâm con, cháu  gái còn nhỏ bé,rồi bán nó cho bọn bất lương hành nghề ấu dâm ( child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi, hoặc   chồng giết vợ để lấy vợ khác,, hay  ngược lại, vợ giết chồng để lấy “kép nhí”, như thực trạng sống của biết bao con  người trong  các  xã hội ung thối vì vô luân, vô đạo, bất công bạo tàn, vô nhân đạo. . Những ai sống như vậy,  thì  Chúa  sẽ tôn trọng ý muốn tội lỗi này  của họ ,  và dĩ nhiên những  con người ấy  sẽ phài gánh chịu mọi hậu quả của tự do mình đã chọn.

Đó là lý do phải có Thiên Đàng dành cho những ai thành tâm yêu mến Chúa,  sống theo đường lối của Người,  và bước đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là sự Thật và là sự Sống” ( Ga 14 : 6). Mặt khác, cũng  phải có hỏa ngục để dành cho những kẻ đã và đang  khước từ Thiên Chúa để  làm những sự dữ . sự tội mà không hề  biết sám hối, ăn năn  để xin tha thứ. Chúa không muốn phạt ai trong hỏa ngục ( Hell) là  nơi đáng sợ này, nhưng chính con người đã tự do chọn nơi này vì đã khước từ Thiên Chúa để sống theo theo những đòi hỏi bất chính của bản năng và đầu hàng ma  quỉ ,là kẻ thù của Thiên Chúa và là bạn rất thân thiết của những ai nghe theo lời dụ dỗ của chúng để chống lại Thiên Chúa bằng đời sống vô luân vô đạo   khi làm những sự dữ, sự tội khiến phải xa lìa Chúa vĩnh viễn trong nợi gọi là hỏa ngục.

Ước mong những giải thích trên đây thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

Lm. Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn.

-----------------------------------