24. Học Hỏi Để Sống Đạo

HOC HỎI ĐẺ SỐNG ĐẠO - THỨ HAI CN3TN-C

Thứ Hai CN3TN-C

 

HỌC HỎI- CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 9, 15. 24-28

"Người chỉ tế lễ chính mình một lần để huỷ diệt tội lỗi, Người sẽ xuất hiện lần thứ hai để cứu độ những ai trông đợi Người".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Chúa Kitô là trung gian của Tân Ước, vì nhờ sự chết của Người để cứu chuộc các tội phạm dưới thời Cựu Ước, mà những kẻ được kêu gọi, đến lãnh lấy gia nghiệp đời đời đã hứa cho họ. Ðức Giêsu không tiến vào cung thánh do tay người phàm làm ra, chỉ là hình bóng cung thánh thật, nhưng Người vào chính thiên đàng, để từ đây xuất hiện trước tôn nhan Thiên Chúa vì chúng ta. Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập địa, Người đã phải chết nhiều lần: nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Ðức Kitô cũng tế hiến một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6.

Ðáp: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu (c. 1a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh, Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là vua. - Ðáp.

 

  

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 22-30

"Satan phải diệt vong".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ". Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y. Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".

Ðó là lời Chúa

 

Đức Kitô Quyền Năng


   Hôm nay, Thứ Hai, ngày thường đầu tiên trong Tuần 3 Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" cho chung thời điểm phụng vụ này vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay. 

Bài Phúc Âm hôm nay Thánh ký Marco thuật lại sự kiện đụng độ giữa "những luật sĩ từ Giêrusalem đến" và Chúa Giêsu, một cuộc đụng độ càng cho thấy bản chất "đầy ân sủng và chân lý" của "Người Con duy nhất đến từ Cha" này. Ở chỗ, cho dù bị xuyên tạc chụp mũ Người vẫn "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn nhẫn nhịn giúp cho đối phương nhận ra cái sai lầm của họ và cảnh giác họ để họ khỏi bị đời đời hư mất.

Thật vậy, khi thấy danh tiếng của Chúa Giêsu càng ngày càng nổi nang khắp nơi trong dân chúng, cho dù Người mới chỉ ở Galilêa thuộc miền bắc đất nước Do Thái, chứ chưa xuống tới Giuđêa thuộc miền nam là nơi toàn tòng dân Do Thái và có giáo đô Giêrusalem là trung tâm của Do Thái giáo, thành phần "những luật sĩ từ Giêrusalem đến nói rằng 'Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám', và nói thêm rằng: 'Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ'".  

Không biết thành phần luật sĩ từ Giêrusalem đến này từ bao lâu rồi, đã tận mắt xem thấy Chúa Giêsu trừ quỉ hay chưa, hoặc chỉ nghe nói đến thôi, rồi suy diễn một cách méo mó như vậy để chống phá đối phương mới trở nên nổi tiếng, với chủ đích hạ bệ đối thủ của mình xuống càng sớm càng tốt?! 

Tuy nhiên, nếu "miệng nói ra những gì đầy trong lòng", như chính Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu trong Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (12:34) cũng có cùng chủ trương như những người luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay, thì nội dung của lời phát biểu này dường như chất chứa tính cách cạnh tranh xuất phát từ lòng ghen ghét, chứ chưa nói đến tính cách hết sức phạm thượng của nó, của những ai phát ngôn như thế.

Thế nhưng, cho dù bị phạm thượng như vậy, Chúa Giêsu chẳng những đã không nổi giận, quát mắng họ hay thậm tệ quở trách họ, như Người sẽ làm sau này, được thấy ở nguyên đoạn 23 Phúc Âm Thánh Mathêu, mà còn hết sức nhân từ "gọi họ lạivà "dùng tỉ dụ" (như cha mẹ hay thày cô dạy cho đám học trò con nít của mìnhcho dễ hiểu để nhờ đó vạch ra cho họ thấy những gì sơ hở đầy mẫu thuẫn nơi cái nhận định và lập luận vừa thiển cận nông nổi vừa mâu thuẫn mù tối của họ, bằng cách Người đã lấy gậy ông đập lưng ông, như sau:

"Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong". Tức là Chúa Giêsu muốn nói với thành phần luật sĩ đầy thế lực từ giáo đô Giêrusalem rằng: quí vị thật là mâu thuẫn, chẳng hiểu gì cả, nếu tôi như quí vị nói "bị quỉ Belzebul ám" nhờ đó tôi mới có thể "nhờ chính tướng quỷ mà trừ quỷ" thì ma quỉ tự chúng chia rẽ nhau mà chết thôi - làm gì có cái chuyện hoang đường là ma quỉ quay ra tàn sát lẫn nhau để hủy diệt đi vương quốc tử thần của chúng chứ? 

Chưa hết, Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để chẳng những sửa lỗi cho họ mà còn tỏ mình ra cho họ thấy rõ hơn một chút nữa, hy vọng họ thấy được quyền phép thần linh của mình là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", một quyền phép vô địch còn hơn cả quyền lực chết chóc của thần dữ, ở chỗ còn khống chế được cả ma quỉ là loài vẫn từng thống trị loài người từ sau nguyên tội: "Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y". 

Không biết các nhà luật sĩ khôn ngoan thông thái trong bài Phúc Âm hôm nay, nghe xong câu nói nhẹ nhàng xa xa bóng gió này của Chúa Giêsu có hiểu ý Người muốn nói hay chăng, nhưng thực tại đúng là như thế, đúng là Người có một quyền lực vô địch, một quyền lực sẽ đạt đến tột đỉnh của mình nơi cuộc Vượt Qua chiến thắng tội lỗi và sự chết của Người.

Tình thương của Chúa Giêsu tỏ ra với thành phần luật sĩ mù quáng trong bài Phúc Âm hôm nay không phải chỉ ở chỗ: 1- vạch ra cho họ thấy cái sai lầm của họ; và 2- tỏ cho họ thấy quyền lực thần linh trừ quỉ của Người, mà còn 3- cảnh báo về phần rỗi đời đời của họ nữa, như thể khuyên họ hãy cẩn thận và coi chừng thứ tội nguy hiểm được Người thẳng thắn cho họ biết rằng: 

"'Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời'. Ðó là vì họ nói 'Người bị thần ô uế ám'".

Căn cứ vào lời cảnh báo này của Chúa Giêsu thì ở đây Chúa Giêsu nói đến kẻ phạm tội "kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần... nó mắc tội muôn đời'", hơn là thứ tội "phạm đến Chúa Thánh Thần", và hình phạt muôn đời giành cho kẻ phạm một thứ tội phạm thượng khủng khiếp, dám cho "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" là Đấng có thể khống chế quyền lực của thần dữ "bị thần ô uế ám", có nghĩa là dám hoàn toàn phủ nhận Thánh Linh là "quyền phép Đấng Tối Cao" (Luca 1:35) ở trong Người và làm việc đó, và vì thế cũng có nghĩa là gián tiếp không chấp nhận Người là Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu Thánh Linh, một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để được cứu độ (xem Marco 16:16).

Ngày 28 tháng 1 - Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội thánh (1225-1274)

Thánh Tôma sinh tại thành Naples năm 1225 trong một gia đình giàu sang và đạo hạnh. Cha ngài làm lãnh chúa đảo Aquinô. Chính nhờ ảnh hưởng gia đình mà Tôma đã hấp thụ được một nền đạo đức chắc chắn để tiến lên đỉnh trọn lành, một ý chí sắt đá để theo ơn gọi và một nền học vấn uyên thâm để giải đáp các vấn nạn của thời đại.

Lúc đầu Tôma được cha gửi ở tu viện Cassino của các cha dòng Bênêđictô. Nhưng 9 năm sau, vì một biến cố chính trị, tu viện bị giải tán, Tôma được gửi về gia đình và tiếp tục học đại học Naples. Nơi đây, Tôma có dịp tiếp xúc với các tu sĩ dòng Ða Minh và cậu bắt đầu say mê lý tưởng sống nghèo khó và làm việc trí thức để truyền bá cho người khác chân lý đã suy niệm.

Năm 1244, Tôma đã quyết định xin khoác bộ áo trắng của dòng Ða Minh. Việc này đã gây chấn động mạnh mẽ cho gia đình, vì thân mẫu ngài vẫn thầm có tham vọng muốn cho con mình trở thành tu viện trưởng ở Cassino. Bà đã quyết định bắt Tôma về giam trong nhà và dùng mọi mưu kế để dụ dỗ cậu trở về thế gian, nhưng bị thất bại nên cuối cùng trong cơn mù quáng bà đã nhờ tới một cô gái trắc nết quyến rũ Tôma. Thầy đã dùng một thanh củi đang cháy đuổi cô gái phóng đãng ra khỏi phòng. Sau việc này, Chúa đã sai thiên thần xuống thắt dây trinh khiết biểu hiện huy chương chiến thắng cho Tôma.

Trước ý chí sắt đácủa con, bà mẹ đành chịu để cho Tôma trốn thoát về tu viện. Năm sau, ngài được thụ huấn với thánh Albertô, một học giả nổi danh thời ấy. Năm 27 tuổi, ngài trở thành giảng sư đại học với một kiến thức uyên bác có thể hướng dẫn được giới trí thức bấy giờ đang say mê với nền triết lý ngoại giáo Hy Lạp. Công trình tuyệt tác của thánh Tôma chính là bộ "Tông Luận Thần Học" mà ngài còn lưu lại cho hậu thế. Ngài thú nhận mình đã kín múc tất cả sự thông thái ấy nơi Chúa qua suy niệm và cầu nguyện.

Ngài qua đời năm 1274, hưởng thọ 49 tuổi. 

Năm 1328, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXII tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh. 

Năm 1567, Ðức Piô V lại phong ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh với biệt hiệu "Tiến Sĩ Thiên Thần". 

Ðến năm 1880, Ðức Lêô XIII đặt ngài làm quan thầy các trường Công Giáo.

 Thánh Thomas Aquinas - Tiểu Sử (ĐTC Biển Đức XVI)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

 

Thu.2.III-TN.mp3  

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - CN3TN-C

Chúa Nhật 3TN-C

HỌC HỎI -CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA


Bài Đọc I: Nkm 8, 2-4a. 5-6. 8-10

"Họ đọc trong sách Luật và người ta hiểu được điều đã đọc".

Bài trích sách Nơ-khe-mia.

Ngày ấy, thầy tư tế Esdras mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdras chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc. Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: "Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc". Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: "Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh chị em!"

Đó là lời Chúa.

 

Đáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 15

Đáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (Ga 6, 64b).

Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Đáp.

2) Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Đáp.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. - Đáp.

4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Đá, là Đấng Cứu Chuộc con. - Đáp.

 

Bài Đọc II: 1 Cr 12, 12-30 (bài dài)

"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Nếu chân nói rằng: "Vì tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Và nếu lỗ tai nói rằng: "Vì tôi không phải là con mắt, nên tôi không thuộc về thân xác", có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Nếu toàn thân xác là một, thì đâu là thính giác? Nếu toàn thân xác là tai, thì đâu là khứu giác? Vậy, Thiên Chúa đã đặt các chi thể, và mỗi chi thể ở trong thân xác như ý Người muốn. Nếu tất cả đều là một chi thể, thì còn đâu là thân xác? Thật vậy, có nhiều chi thể, nhưng có một thân xác. Con mắt không thể nói với bàn tay: "Ta không cần mi". Đầu cũng không thể nói với chân: "Ta không cần các ngươi". Nhưng hơn thế nữa, các chi thể thân xác xem như yếu hơn, lại cần thiết hơn. Và những chi thể ta coi là ít vinh dự nhất, lại là những chi thể chúng ta đặt cho nhiều vinh dự hơn; và những chi thể thiếu trang nhã lại được ta trang sức hơn, còn những chi thể trang nhã lại không cần như thế: nhưng Thiên Chúa đã sắp đặt thân xác, cho cái thiếu vinh dự được vinh dự hơn, để không có sự bất đồng trong thân xác, mà là để các chi thể đồng lo công ích cho nhau. Nếu một chi thể phải đau, tất cả các chi thể khác đều phải đau lây; hoặc một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể cùng chia vui.

Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người, mỗi người có phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các tông đồ, rồi đến các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư?

Đó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 12, 12-14. 27

"Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình.

Đó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 4, 18-19

Alleluia, alleluia! - Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 1-4; 4, 14-21

"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.

Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:

"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".

Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".

 

Đó là lời Chúa.

 

Đức Kitô Thiên Sai

 

Hai Chúa Nhật đầu tiên (1 và 2) của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bao giờ cũng là bài Phúc Âm Nhất Lãm (theo chu kỳ A-B-C) về sự kiện Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa (Chúa Nhật 1), và bao giờ cũng là bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan (cho cả 3 chu kỳ A-B-C) về sự kiện Người bắt đầu tỏ mình ra qua môi giới Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (hai bài Phúc Âm liền nhau, một cho chu kỳ A và một cho chu kỳ B) cũng như qua môi giới Mẹ của Người ở Tiệc Cưới Cana (bài Phúc Âm cho chu kỳ C tiếp sau 2 bài Phúc Âm cho chu kỳ B và A). 

Phải nói rằng ở Chúa Nhật tuần 3 của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, Chúa Giêsu mới thực sự trực tiếp tỏ mình ta cho dân chúng. Nếu trong bài Phúc Âm của chu kỳ A theo Thánh Mathêu, Chúa Giêsu tỏ mình ra bắt đầu ở miền đất đông đảo dân ngoại sống như ánh sáng chiếu trong tăm tối, và trong bài Phúc Âm của chu kỳ B theo Thánh Marco, Chúa Giêsu tỏ mình ra ở lời rao giảng tiên khởi của Người cũng như ở việc tuyển chọn 4 môn đệ đầu tiên, thì trong bài Phúc Âm chu kỳ C theo Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu tỏ mình ra ở Hội Đường Nazarét là nơi Người khẳng định Người chính là Đấng Thiên Sai Cứu Thế được Tiên Tri Isaia báo trước:

"Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: 'Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng'. Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: 'Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe'".

 

Thật vậy, nhân vật Giêsu Nazarét này, nhân vật đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả tiên báo và làm chứng là Đấng đến sau ngài nhưng cao trọng hơn ngài, Đấng sẽ "làm phép rửa Thánh Linh" (Gioan 1:27,33), Vị cũng đã được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, sau ngày lãnh nhận phép rửa, giới thiệu với chung dân chúng "là Chiên Thiên Chúa" (Mathêu 1:29 - Bài Phúc Âm Chúa Nhật 2 Thường Niên Năm A) cũng như với riêng các môn đệ của ngài hôm sau đó "là Chiên Thiên Chúa" (Mathêu 1:36 - Bài Phúc Âm Chúa Nhật 2 Thường Niên Năm B), và là Vị, qua môi giới của mẹ mình, đã tỏ mình ra cho 4 môn đệ đầu tiên ở Tiệc Cưới Cana (xem Gioan 2:11), quả thực là chính Đấng Thiên Sai được Tiên Tri Isaia báo trước, như chính Người đã tự nhận trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, cũng như đã được Thánh ký Luca ghi nhận ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay thế này"Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng". 

 

Thật vậy, yếu tố chính yếu bất khả thiếu làm nên Vị Thiên Sai Cứu Thế nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đây là Thánh Linh, hay nói cách khác hoặc nói ngược lại, Thánh Linh là dấu chứng thực nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đây là Đấng Thiên Sai Cứu Thế: đúng như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã nhận biết và giới thiệu, cũng như Mẹ Maria đã nhận biết và dọn đường để Người tỏ mình ra ở Tiệc Cưới Cana, một Vị Thánh Linh đã tác tạo nên chung nhân tính và riêng thân xác của Người trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ Maria, cũng là Vị Thánh Linh đã thánh hóa thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ngay từ trong bụng mẹ khi bé mới được 6 tháng thai, và là Vị Thánh Linh được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thấy như chim bồ câu đậu trên nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét sau khi Người lãnh nhận phép rửa, như một dấu chứng thực nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét này chính là Con Thiên Chúa: "Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con" (Luca 3:22).

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, câu Chúa Giêsu tuyên bố 'Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe'", Người chẳng những xác nhận tính chất chính xác và trung thực nơi các chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng như vai trò của Mẹ Maria trong sứ vụ đồng công cứu chuộc với Người, mà còn báo trước những chứng từ của chính bản thân Người trong tương lai mà Người sẽ đích thân tỏ ra cho chung dân chúng và riêng các môn đệ của Người thấy rằng Người quả là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, bởi Người đã được Xức Dầu Thánh Linh, Đấng ngự nơi Người và tác hành trong Người như một động lực thần linh để Người có thể hoàn trọn tất cả những gì Thiên Chúa muốn Người thực hiện với sứ mệnh Thiên Sai Cứu Thế của Người, một sứ mệnh bao gồm 3 vai trò chính yếu là vai trò giải thoát như một vị vương đế, vai trò chữa lành như một vị tư tế và vai trò rao giảng như một vị ngôn xứ, đúng như lời tiên tri Isaia mà Người đã đọc và công nhận là ứng nghiệm ở nơi Người.

 

Nếu Phúc Âm của Thánh ký Luca là cuốn phúc âm thuật lại tất cả những gì Chúa Giêsu làm theo 3 vai trò của một Đấng Thiên Sai Cứu Thế này của Người thì các bài Phúc Âm theo chu kỳ phụng vụ Năm C ở các tuần lễ Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hay hậu Phục Sinh cũng xuất phát từ những gì được Chúa Giêsu xác nhận là "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe", một "hôm nay", về thời gian bao gồm cả những ngày sau đó, cả những gì Người nói và làm, cho tới khi Người hoàn thành cuộc Vượt Qua của Người, nhưng về thực tại lại là chính bản thân của Người, một bản thân được Xức Dầu Thánh Linh để "đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng", mà ngay bấy giờ, trong hội đường hôm ấy (đối với chúng ta bây giờ) cũng là "hôm nay" (đối với Chúa Giêsu bấy giờ), đang thực hiện những gì Tiên Tri Isaia báo trước về Người ở môi trường của một hội đường lúc ấy có sự hiện diện của mọi người trong dân chúng đang cần được Người giải thoát, được chữa lành và được rao giảng.

 

Hình ảnh cộng đồng Dân Chúa trong Cựu Ước ở Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói phản ảnh hình ảnh của cộng đoàn dân Do Thái ở hội đường Nazarét hôm nay, ở chỗ họ qui tụ lại một nơi lắng nghe Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy thế nào thì cộng động trong Bài Đọc 1 cũng thế: "Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên".  

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy 3 vai trò giải thoát, chữa lành và rao giảng được Tiên Tri Isaia báo trước liên quan đến nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là Đấng đã tự xác nhận là "ứng nghiệm" về mình trong bài Phúc Âm hôm nay, ở một nghĩa nào đó, cũng đã được "ứng nghiệm" nơi cộng đồng dân Chúa đang qui tụ nghe "Thày thư ký Esdras ... đọc sách" bấy giờ. 

 

Họ được rao giảng ở chỗ: "Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc". 

 

Họ được chữa lành ở chỗ: "Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: 'Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc'. Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật". 

 

Họ được giải thoát ở chỗ: "Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: 'Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn lũy của anh chị em!'"

 

Tâm tình và thái độ của cộng đồng dân Chúa ở chỗ chẳng những lắng nghe lề luật mà còn đáp ứng những gì được nghe từ lề luật trong Bài Đọc 1 hôm nay dường như được phản ảnh, bộc phát và bày tỏ thật chính xác trong Bài Đáp Ca hôm nay: 

 

1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. 

 

 

2) Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. 

 

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. 

 

4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Đá, là Đấng Cứu Chuộc con.

 

Tâm tình và thái độ của cộng đồng dân Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay đầy tinh thần hân hoan phấn khởi như thể họ đã được tràn đầy Thánh Linh, Vị Thánh Linh đã tác động nơi họ qua những nhân vật lãnh đạo của họ, tùy theo vai trò và trách nhiệm của từng người: "Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng...".

 

Đó là lý do trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô viết cho Giáo Đoàn Côrinto trong Thư Thứ 2 của ngài đã khẳng định về thực trạng hiệp nhất ("một thân xác") trong đa dạng ("nhiều chi thể"), cũng như về tính cách khác biệt của các chi thể, với những phận vụ, sứ vụ, thừa tác vụ thích hợp với từng chi thể, để cùng phục vụ công ích, phục vụ "một thân thể", như sau:

 

"Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình".

 

Kitô hữu chúng ta nhờ bởi Thánh Linh khi lãnh nhận Phép Rửa đã trở thành một thân thể duy nhất với Chúa Kitô là đầu, và nhờ đó chúng ta cũng được hiệp thông với chính Thánh Thần của Chúa Kitô, ở tầm mức trọn vẹn khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức. 

 

Bởi thế, tất cả những gì chúng ta lãnh nhận nhờ được hiệp thông với Nhiệm Thể Chúa Kirtô nói chung và với Đầu Nhiệm Thể là Chúa Kitô nói riêng đều từ Nhiệm Thể này và cần qui về Nhiệm Thể này, nhờ đó chúng ta mới được lớn lên với Nhiệm Thể này, cho đến tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô (xem Epheso 4:13,15), một tầm vóc được chính Chúa Kitô sống trong chúng ta để Người tiếp tục thực hiện vai trò vương đế giải phóng, tư tế chữa lành và ngôn sứ rao giảng của Người cho đến tận thế, qua chúng ta và nhờ chúng ta là thành phần chứng nhân trung thực và sống động của Người.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

 

ChuaNhatIII.TNC.mp3  

--------------------------------

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ BA CN2TN-C

Thứ Ba CN2TN-C

 

HỌC HỎI - CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA  SẺ LỜI CHÚA

 

Bài Ðọc I: (năm I) Dt 6, 10-20

"Chúng ta có một niềm tin đặt trước mặt như chiếc neo chắc chắn và bền vững".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên công trình của anh em và lòng bác ái anh em đã tỏ ra vì danh Người, anh em là những người đã phục vụ và hiện đang phục vụ các thánh. Chúng tôi mong ước mỗi người anh em thi thố cũng một lòng hăng hái đó để giữ vững niềm hy vọng đến cùng, ngõ hầu anh em không trễ nải, nhưng sẽ noi gương những kẻ nhờ tin tưởng và kiên nhẫn mà hưởng thụ các điều đã hứa.

Quả thật, khi Thiên Chúa hứa cùng Abraham, Người không dựa vào ai lớn hơn mà thề, nhưng dựa vào chính Mình mà thề rằng: "Ta sẽ chúc phúc cho ngươi và sẽ cho ngươi sinh sản ra nhiều". Do đó, Abraham kiên nhẫn chờ đợi, nên được hưởng lời hứa. Vì chưng, loài người dựa vào kẻ lớn hơn mình mà thề, và lời thề được coi như bảo chứng chấm dứt mọi tranh tụng. Cũng vậy, vì Thiên Chúa muốn minh chứng cho những kẻ hưởng thụ lời hứa ý định bất di bất dịch của Người, nên đã làm lời thề, để nhờ hai điều bất di bất dịch mà Thiên Chúa không thể sai lời, thì chúng ta là những người tìm ẩn náu nơi niềm hy vọng đã ban cho chúng ta, chúng ta có một nguồn yên ủi chắc chắn. Trong niềm hy vọng đó, linh hồn chúng ta có một chiếc neo chắc chắn và bền vững, cắm vào tận bên trong bức màn, nơi Ðức Giêsu đã vào như vị tiền phong của chúng ta, Người được phong làm Thượng tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 4-5. 9 và 10c

Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. - Ðáp.

2) Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thật là Ðấng nhân hậu từ bi. Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. - Ðáp.

3) Chúa đã gởi tặng ơn giải phóng cho dân Người, đã thiết lập lời minh ước tới muôn đời, danh Người thực là thánh thiện và khả uý. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 2, 23-28

"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

 

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm

Ngày Thứ Ba hôm nay, trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh được tỏ hiện ngay lời tuyên bố của Chúa Kitô về chính bản thân Người rằng: "Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

Thật
 thế, câu tuyên bố này của Người xẩy ra trong trường hợp đưọc bài Phúc Âm hôm nay thuật lại là "vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: 'Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?'". 

T
rong câu giải đáp của mình cho lời trách móc hơn là vấn nạn của những người biệt phái bấy giờ, Chúa Giêsu bề ngoài có vẻ như biện minh cho hành động các môn đệ của Người làm khiến cho các người biệt phái ấy ngứa cặp mắt duy luật của họ, thế nhưng thật ra Người có ý bênh vực tinh thần của lề luật để giúp cho chính những người biệt phái y thấy được tất cả sự thật về luật lệ mà họ thông thạo và hằng tuân thủ một cách chặt chẽ và nghiêm chỉnh, nhờ đó họ có thể sống đẹp lòng Thiên Chúa hơn.

T
rước hết, như trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Người đã dẫn chứng một trường hợp không được phép làm mà vẫn được làm trong trường hợp khẩn cấp ở trong Cựu Ước liên quan đến "điều mà Vua Đavít làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?"

S
au nữa, từ trường hợp không được phép làm mà vẫn được làm trong trường hợp khẩn cấp ở trong Cựu Ước liên quan đến Vua Đavít ấy, Chúa Giêsu đã đi đến kết luật liên quan đến tinh thần của lề luật là những gì trực tiếp liên hệ tới mục đích của lề luật như sau: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbatcho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat". 

C
ó nghĩa là luật lệ được lập ra và ban bố là vì loài người, để phục vụ loài người như chủ nhân ông của nó, như là mục tiêu của nó, hầu mang lại lợi ích thiêng liêng cho họ, giúp họ thăng tiến, vươn lên, được cứu độ, chứ không phải để hủy diệt họ, khiến họ bị mất tự do, biến họ trở thành nô lệ lề luật, khi lề luật không còn thuần túy là một phương tiện cho họ mà là cùng đích của con người, nhất là đối với thành phần duy luật, thành phần cần phải được giải cứu cho khỏi cảnh làm nô lệ cho lề luật, nhờ bởi "Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat", như Người làm cho họ trong bài Phúc Âm hôm nay. 

N
hững gì "" kỹ được Chúa đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm qua có liên quan mật thiết đến những gì Người nói về lề luật trong bài Phúc Âm hôm nay: "áo cũđây phải chăng là chữ nghĩa của lệ luật, hoàn toàn không hợp với tấm "vải mới" được Người cung cấp là ý nghĩa đích thực liên quan đến mục đích chính yếu của lề luật theo những lời dẫn giải của Ngườivà "bầu da cũ" đây phải chăng là chủ trương và thái độ duy luật, hoàn toàn không hợp với và không thể nào chấp nhận thứ "rượu mớihay chứa đựng nổi thứ "rượu mới" là tinh thần yêu thương bác ái làm nên chính lệ luật và làm trọn lề luật (xem Roma 13:10).

Nếu để ý lịch trình của các bài Phúc Âm theo Thánh Marco, nhất là các bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho các ngày trong tuần, chúng ta đã thấy, đang thấy và sẽ thấy chiều hướng Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế tỏ mình ra cho dân Do Thái như một "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14). Nếu trong Tuần I Thường Niên, các bài Phúc Âm cho thấy một Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế "đầy ân sủng", thì các bài Phúc Âm tuần II Thường Niên này cho chúng ta thấy Người "đầy chân lý".

Thật vậy, các bài Phúc Âm tuần I Thường Niên, Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế đã tỏ mình ra "đầy ân sủng": 1- ở chỗ trừ quỉ ám chỉ cứu con người khỏi tội lỗi do ma quỉ gây ra cho con người ngay từ ban đầu (bài Phúc Âm Thứ Ba); 2- ở chỗ chữa lành người cùi ám chỉ cứu con người khỏi chết về phần xác là cái chết tách ly họ khỏi với xã hội loài người (bài Phúc Âm Thứ Năm); 3- ở chỗ chữa lành một nạn nhân bại liệt, cũng ám chỉ sự chết về phần xác khiến con người trở nên bất lực (bài Phúc Âm Thứ Sáu); 4- ở chỗ Người đồng bàn với thành phần thu thuế và tội lỗi trong nhà của chàng Lêvi thu thuế đáp ứng ngay theo lời Người kêu gọi theo Người (bài Phúc Âm Thứ Bảy). Cả bài Phúc Âm Thứ Sáu lẫn Thứ Bảy đều liên quan đến việc tha tội và LTXC của Người.

Nếu trong tuần I Thường Niên, Chúa Giêsu Thiên Sai Cứu Thế tỏ mình ra "đầy ân sủng" ở việc chữa lành cả hồn tội lỗi lẫn xác tật nguyền gây ra bởi tội lỗi của con người, thì trong tuần II Thường Niên, Người tỏ mình ra "đầy chân lý", khi Người lợi dụng tình trạng mù tối (dấu hiệu của sự chết nơi tâm linh) về đạo lý của thành phần trí thức thông luật, giữ luật và dạy luật là luật sĩ và biệt phái, hay thành phần công chính như các môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và biệt phái, để soi sáng cho họ thấy tất cả sự thật về cả việc đạo đức như về vấn đề chay tịnh (bài Phúc Âm Thứ Hai), lẫn việc giữ luật nói chung, nhất là những gì liên quan đến Hgày Hưu Lễ (bài Phúc Âm Thứ Ba và Thứ Tư). 

Chúng ta thường hay phân biệt việc xấu và người xấu, ở chỗ, chúng ta phải thương yêu người xấu nhưng phải chống lại việc xấu của họ. Ở bài Phúc Âm hôm nay, việc xấu ở đây đối với thành phần biệt phái là việc các môn đệ của Chúa Giêsu bứt bông lúa mà ăn vào Ngày Hưu Lễ, một việc bất hợp pháp trong Ngày Hưu Lễ, có tội theo luật. Phản ứng của Chúa Giêsu ra như thể Người bênh vực việc làm của các môn đệ, một việc làm xấu đối với thành phần biệt phái, nhưng lại được phép đối với Chúa Giêsu là Thày của các vị. 

Thật ra, Người không bênh vực những ai thuộc về Người theo cảm tình tự nhiên của con người, hay bênh vực danh dự cùng uy tín của Người bởi có những người môn đệ sống vô kỷ luật như thế theo nhận định của thành phần biệt phái, mà là bênh vực chính sự thật về lề luật.

Bởi đó, cuối cùng Người đã khẳng định nguyên tắc ưu tiên con người trên lề luật và lề luật phải qui về lợi ích thăng tiến của con người, cùng với chủ quyền tối hậu của lề luật như sau: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

Thu.3.II-TN.mp3

--------------------

 

 

HOC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THỨ TƯ CN2TN-C

Thứ Tư CN2TN-C

 

HỌC HỎI-CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

 Bài Ðọc I: (năm I) Dt 7, 1-3. 15-17

"Ngươi là tư tế theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn đời".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Menkixêđê này là vua Salem, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, ông đã đi đón Abraham đang trên đường về sau khi đánh bại các vua, ông chúc lành cho Abraham. Và Abraham dâng cho ông một phần mười các chiến lợi phẩm. Giải nghĩa tên ông, trước tiên thấy tên ông mang tên vua công chính, rồi ông lại còn là vua Salem, nghĩa là vua hoà bình. Ông không cha không mẹ, không gia phả, không ngày sinh, không ngày tử, nhưng ông được so sánh với Con Thiên Chúa, nên ông làm tư tế muôn đời.

Việc còn hiển nhiên hơn nữa, nếu một tư tế khác được thiết lập theo phẩm hàm Menkixêđê, không phải chiếu theo luật xác thịt quy định, nhưng chiếu theo quyền năng của sự sống bất diệt. Vì đã chứng thực về ngài rằng: "Ngươi là tư tế theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 109, 1. 2. 3. 4

Ðáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).

Xướng: 1) Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Ðáp.

2) Ðức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: "Con hãy thống trị giữa quân thù". - Ðáp.

3) Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: "Trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Ðáp.

4) Ðức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống. Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 1-6

"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.

Ðó là lời Chúa.


 

Suy niệm 

 

 

Ngày Thứ Tư trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô vẫn liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, chẳng những về bố cục trước sau của cuốn sách Phúc Âm thứ hai này mà còn liên tục cả về ý nghĩa của hai bài Phúc Âm này nữa. 

Bài Phúc Âm hôm nay được Giáo Hội chọn đọc thích hợp với chủ đề chung của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh "Người Con đến từ Cha ... đầy ân sủng và chân lý", ở chỗ, người chẳng những chữa lành cho "một người khô bại một tay" mà còn mở mắt cho thành phần thông luật nhưng duy luật biệt phái về tinh thần của lề luật, bằng câu hỏi được Người đặt ra cho họ tự suy nghĩ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?"  

 

Bài Phúc Âm hôm nay cũng như bài Phúc Âm hôm qua đều liên quan đến ngày hưu lễ là thời điểm được chung dân chúng và riêng nhóm biệt phái cùng luật sĩ tuân giữ rất kỹ lưỡng và đã thấy ngứa mắt trước những hành động của các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa mà ăn trong ngày hưu lễ (ở bài Phúc Âm hôm qua) hay của chính Chúa Giêsu chữa lành cho người bị bại tay trong ngày hưu lễ (ở bài Phúc Âm hôm nay). 

Cả hai lần Chúa Giêsu đều nhắc nhở thành phần theo dõi và bắt bẻ các môn đệ của Người cũng như bắt bẻ chính Người về tinh thần chính yếu của lề luật cũng như mục đích của lề luật đối với vị thế cùng giá trị của con người so vị thế và giá trị của lề luật. Vấn đề then chốt này cũng chính là vấn đề then chốt của Giáo Huấn Giáo Hội Công Giáo về xã hội ngày nay, một bộ giáo huấn bắt đầu từ thời Đức Lêô XIII sau khi chủ nghĩa cộng sản xuất hiện. 

Thật vậy, yếu tố chính yếu làm nên trọng tâm của Giáo Huấn của Giáo Hội về xã hội đó là con người, một thực thể phải được coi trọng theo đúng dự án tạo dựng của Thiên Chúa Hóa Công, ở chỗ con người phải làm chủ trái đất chứ không phải làm tôi cho những gì được dựng nên cho họ (xem Khởi Nguyên 1:28), bởi thế, tất cả mọi sự, bao gồm cả sự vật trần thế và sự việc trên đời, tất cả mọi hoạt động của con người, về phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học v.v. đều phải phục vụ con người, chứ không được coi thường họ và lạm dụng họ như chủ nghĩa cộng sản hay văn hóa sự chết. 

Trái lại, cho dù con người đóng vai chính yếu trên trần gian này, trên trái đất này, họ vẫn không thể nào trở thành tối cao, là cùng đích của mình, trở thành tuyệt đối như Thượng Đế, như Thiên Chúa, như Đấng dựng nên họ. Bởi thế, tất cả những chủ nghĩa tôn sùng con người, được gọi là chủ nghĩa duy nhân bản, như chủ trương tương đối hóa mọi nguyên tắc và lề luật luân lý bất di bất dịch, để tuyệt đối hóa tự do và ý riêng của con người, cũng tác hại chính con người, mang con người đến chỗ diệt vong chẳng khác gì chủ nghĩa cộng sản và văn hóa sự chết coi thường con người vậy. 

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu, "Người Con đến từ Cha" đã tỏ mình ra "đầy ân sủng và chân lý", khi tự xưng mình là "Chúa của cả ngày hưu lễ", thì trong bài Phúc Âm hôm nay "Người Con đến từ Cha" đã tỏ mình ra "đầy ân sủng và chân lý", ở chỗ chữa lành cho "một người khô bại một tay". 

Thật ra, tật "khô bại một tay", so với các trường hợp bệnh tật khác, như phong cùi, bại liệt, què quặt, mù lòa, câm điếc v.v., thì chỉ là chuyện nhỏ, không đáng kể là bao nhiêu. Tuy nhiên, chính ở cái nho nhỏ, không đáng kể là bao nhiêu ấy mà vẫn được Người lưu tâm đáp ứng cứu chữa, nhất nữa lại vào ngày hữu lễ nữa, lại càng cho thấy chân dung tuyệt vời của "Người Con đến từ Cha ... đầy ân sủng và chân lý" này. 

Đúng thế, cho dù chỉ bị "khô bại một tay", thân xác của con người vẫn không được vẹn toàn đúng như nó đã được Thiên Chứa dựng nên "rất tốt đẹp" (Khởi Nguyên 1:31) ngay từ ban đầu, và khả năng hoạt động của con người vẫn bị ngăn trở, không được tự do, tức vẫn cần phải được cứu chữa hay cần phải được giải thoát để có thể nguyên vẹn hơn về hình hài cùng tầm vóc và đắc lực hơn về hoạt động cùng phục vụ.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

 

 Thu.4.II-TN.mp3

 

 

HỌC HỎI ĐỂ SỐNG ĐẠO - THƯ HAI CN2TN-C

Thứ Hai CN2TN-C

HỌC HỎI - CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA


Bài Ðọc I: (năm I) Dt 5, 1-10

"Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Tất cả các vị Thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi, như Aaron. Cũng thế, Ðức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Ðấng đã nói với Người rằng: "Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con". Cũng có nơi khác Ngài phán: "Con là Tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê". Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Mình khỏi chết, và vì lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người. Người được Thiên Chúa gọi là Thượng tế theo phẩm hàm Menkixêđê.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 109, 1. 2. 3. 4.

Ðáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).

Xướng: 1) Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Ðáp.

2) Ðức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: "Con hãy thống trị giữa quân thù". - Ðáp.

3) Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Ðáp.

4) Ðức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê". - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 2, 18-22

"Tân lang còn ở với họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".

Ðó là lời Chúa.

 

  

image.png

 

Suy niệm

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai đầu Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh, vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh. Ở chỗ nào?

Bài Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên hậu Giáng Sinh Chu Kỳ Phụng Vụ Năm C hôm qua về tiệc cưới Cana, một biến cố cần phải có để mở màn cho việc Chúa Kitô tỏ mình ra cho các môn đệ tiên khởi của Người, nhờ đó đã làm cho các vị tin vào Người.

Bài Phúc Âm hôm nay, để trả lời cho vấn nạn được "môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay" đặt ra "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?", Chúa Giêsu đã tự ví mình và tự nhận mình là "tân lang", và cho biết lý do các môn đệ của Người được Người ví như là thành phần "các khách dự tiệc cưới", không ăn chay như thành phần đặt vấn đề với Người đó là vì "tân lang còn ở với họ". 

Thật vậy, sở dĩ "các môn đồ Ngài lại không ăn chay?" bởi vì Người "còn ở với họ", tức là Người còn đang cần thời gian để tiếp tục và từ từ tỏ mình ra cho họ để họ có thể hân hoan vui sướng nhận biết Người mỗi ngày một hơn, và càng nhận biết Người họ càng kính phục Người và yêu mến Người, nhờ đó họ mới có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Ngưi và cho Người, đúng như ý nguyện và mục đích Người tuyển chọn họ làm nhóm 12 của Người.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà các môn đệ của Người không phải chay tịnh, một thứ chay tịnh nếu có và nếu cần lại hoàn toàn không phải như thành phần "môn đồ của Gioan và các người biệt phái" đã làm, mà là một thứ chay tịnh không còn được ở với Người nữa, không còn được thấy Người tận mắt, nghe Người tận tai và động chạm đến Người tận tay (xem 1Gioan 1:1), trái lại các vị chỉ giao tiếp với Người hoàn toàn bằng đức tin thuần túy trong tăm tối của giác quan và cảm thức, nghĩa là "ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay", ở chỗ "Các con sẽ than khóc trong khi thế gian vui mừng" (Gioan 16:20).

Thế nhưng, việc chay tịnh hay cách chay tịnh của các môn đệ Chúa Giêsu này không phải là những gì hủy hoại mà là những gì thăng hoa, thăng tiến, hoan hỉ: "Nếu các con yêu mến Thày thì các con phải vui mừng vì Thày về cùng Cha vì Cha là Đấng cao trọng hơn Thày" (Gioan 14:28). Bởi vì, nhờ Thày về cùng Cha là Đấng cao trọng hơn Thày với tư cách Ngài là Đấng đã sai Thày như thế mà các vị, cho dù không còn thấy và ở với Người nữa, mới càng nhờ thế có thể đạt đến chỗ thần hiệp nên một với Người: "Thày ở đâu các con cũng được ở đó" (Gioan 14:3).

Như thế, trong chính sự vắng bóng của mình, khuất dạng của mình, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " lại càng tỏ mình ra hơn bao giờ hết, lại càng hiển linh hơn hết... trước con mắt thuần túy đức tin siêu nhiên của các môn đệ Người. 

Đó là lý do phần còn lại của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mới nói thêm những lời quan trọng và thiết yếu cho việc sống đạo sau đây: "Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".

Cái "mới"  "cũ" được Chúa Giêsu đề cập tới trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến vấn đề chay tịnh đây là gì, nếu không phải cái "mới" đây là đức tin (của Tân Ước) và cái "" đây là nghi thức hay hình thức hoặc lễ vật bề ngoài (của Cựu Ước), và vì thế, "rượu mới" và "bầu da mớiđây chính là "tinh thần và chân lý" được Chúa Giêsu nói đến trong trường hợp Người trao đổi với người phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp về thực tại "Thiên Chúa là Thần Linh nên những ai tôn thờ Thiên Chúa đích thực thì cũng phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24).  

Nếu "áo cũ" bị rách đây ám chỉ luật Moisen hay Luật Cũ, chẳng hạn "mắt đền mắt răng đền răng" (Mathêu 5:38) hay "yêu đồng hương và ghét kẻ thù" (Mathêu 5:43), là những gì Chúa Kitô đến không phải để phá hủy hay xé nát, mà là để làm cho nên trọn (xem Mathêu 5:17) thì "vải mới" đây là chính "giới răn mới" Người ban cho các tông đồ và chung Giáo Hội trong Bữa Vượt Qua. Và nếu "bầu da cũ" ám chỉ tinh thần duy luật và thái độ giả hình và tư duy tự mãn, như nơi thành phần luật sĩ và biệt phái, thì "rượu mới" đây ám chỉ Thánh Linh chỉ thích hợp với "bầu da mới" đây là tinh thần bé nhỏ, bác ái yêu thương nhân hậu.

Nếu bài Phúc Âm cho Chúa Nhật II Thường Niên theo Thánh Gioan, cho cả 3 chu kỳ Phụng vụ A-B-C, và Bài Phúc Âm Năm C là bài chính, bởi 2 bài Phúc Âm cho Năm A và B đều hướng về bài Phúc Âm Năm C là bài Phúc Âm Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ đầu tiên của Người ở tiệc cưới Cana, trong đó, vị quản tiệc đã trách "tân lang" không tiếp "rượu ngon hơn trước" mà để dành cho đến khi khách ngà ngà mới tiếp, một thứ "rượu ngon hơn trước" ám chỉ hoa trái cứu chuộc của Chúa Kitô là Thánh Linh chỉ xuất hiện vào "thời sau hết" (Do Thái 1:1), vào thời cánh chung, chứ không phải từ ban đầu, từ khi con người mới được tạo dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27).

Thế rồi, hình như không hẹn mà họ, bài Phúc Âm cho Thứ Bảy trước Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã cho thấy niềm vui của ngài được nên trọn khi ngài chỉ là "người phù rể của tân lang (the groom's best man)" được nghe thấy tiếng của tân lang là Chúa Kitô. Và Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần 2 Thường Niên lại xuất hiện hình ảnh một "tân lang" trong câu Chúa Giêsu trả lời cho các môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả.

Nếu chung Cựu Ước và riêng vai trò của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là phù rể của "tân lang" Giêsu thì Giáo Hội tân ước nói chung qua các tông đồ là hiền thê của Người, được xuất phát "như máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người" (Gioan 19:34), và được hiệp thông cuộc khổ nạn và tử giá của Người, chẳng những khi cử hành phụng vụ Thánh Thể mà còn bằng máu chứng đức tin nữa trong suốt giòng lịch sử của nhân loại, cho đến khi Chúa Kitô lại đến trong vinh quang.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

 

Thu.2.II-TN.mp3

-----------------------------------