3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - THỨ BA CN1MV-A -

  •  
    Tinh Cao
    Dec 2 at 5:50 PM
     
     

    LẮNG NGHE Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: Is 11: 1-10

    "Chúa lấy đức công bình mà xét xử người nghèo khó".

    Trích sách Tiên tri Isaia.

    Ngày ấy, từ gốc Giê-sê sẽ đâm ra một bông hoa.

    Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.

    Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công bình mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở.

    Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác.

    Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng.

    Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy.

    Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sửa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc.

    Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta.

    Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước tràn đại dương.

    Ngày ấy gốc Giê-sê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân.

    Các dân sẽ khẩn cầu Ngài và mộ Ngài sẽ được vinh quang.

    Ðó là Lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 71,2, 7-8,12-13,17

    Ðáp: Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người.

    Xướng 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.

    2) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn, sẽ triển nở trong triều đại người, cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.

    3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu sống người cùng khổ. - Ðáp.

    4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.

     

    Alleluia: Tv 84,8

    Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng tôi, và ban ơn cứu rỗi cho chúng tôi. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 10: 21-24

    "Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần"

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ.

    Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế.

    Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự.

    Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"

    Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.

    Ðó là Lời Chúa.

     



     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA

     

    Ngôi Lời nhập thể - Mạc khải Thần Linh

     

    Trong các mùa phụng vụ đặc biệt không phải là Mùa Thường Niên, chẳng hạn như Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, hay Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, thường các Bài Phúc Âm không liên tục với nhau như Mùa Thường Niên, dù là Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hay Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh

    Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần I Mùa Vọng, Giáo Hội lại chọn một bài Phúc Âm không phải bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu như hôm qua và tiếp hôm qua, mà là bài Phúc Âm của Thánh ký Luca, có một nội dung hoàn toàn khác hẳn với bài Phúc Âm hôm qua, nhưng vẫn theo đúng chủ đề chung của cả Mùa Vọng là "Lời hóa thành nhục thể". 

    Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta biết về thái độ và hành động của Chúa Kitô trong một lúc đột xuất đầy thần hứng của Người theo tác động của Thánh Thần, để thốt lên những lời hân hoan chúc tụng Cha của Người cùng những lời phấn khích các môn đệ của Người:

    Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng Cha của Người"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"

    Chúa Giêsu phấn khích các môn đệ của Người: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe".

    Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao trong Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô Giáo Hội lại cho đọc những bài Phúc Âm hầu như chẳng liên hệ và dính dáng gì với chiều kích trông đợi và ngưỡng vọng Chúa Kitô đến lần thứ nhất? 

    Nếu bài Phúc Âm hôm qua về viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma được Giáo Hội cho đọc ngay đầu Mùa Vọng, như suy diễn, đã rất am hợp với tinh thần và chủ đề chung của Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" thế nào, thì bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, ý nghĩa sâu xa của lời Chúa vẫn liên hệ với Mùa Vọng như bài Phúc Âm hôm qua, nếu vẫn tiếp tục căn cứ vào chủ đề chính của cả Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể".

    Đúng thế, con người là loài tạo vật được Thiên Chúa dựng nên là để muôn đời hiệp thông thần linh với Ngài. Thế nhưng, muốn hiệp thông thần linh với "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), con người cần phải nhận biết Ngài, một điều kiện duy nhất bất khả thiếu và bất khả châm chước. Tuy nhiên, theo bản tính hữu hình và hữu hạn, con người không thể nào có thể nào tự mình nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, nếu không được chính Ngài tỏ ra cho biết. 

    Đó chính là lý do Chúa Giêsu đã dứt khoát khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!Định luật này thực sự là một điều rất hợp với chẳng những lý lẽ tự nhiên của con người mà còn chính đáng với ý muốn của Thiên Chúa nữa, như Chúa Giêsu cũng đã cho biết: "đó là ý Cha đã muốn thế".

    Có nghĩa là, mạc khải thần linh là một đặc ân, một tác động chính Thiên Chúa tự làm, chứ không phải do con người van xin mà có, do công lênh của con người mà được, và thậm chí cho dù Ngài đã tỏ mình ra cho con người, nhưng con người vẫn tự mình không thể hay khó có thể nhận biết Ngài nếu không được chính Ngài soi động cho biết, hay nếu không có chính Thần Linh của Ngài, như Chúa Giêsu cũng đã xác nhận trong cùng bài Phúc Âm hôm nay: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ".

    Vì mạc khải thần linh là một đặc ân như thế mà những ai được Thiên Chúa tỏ ra cho biết đều là những người diễm phúc, điển hình là thành phần môn đệ của Người, được Người nhắc nhở và phấn khích như phần cuối của bài Phúc Âm hôm nay: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe".

    Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay có nghĩa là gì: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy" đây là gì? Và những gì mà các môn đệ của Người được diễm phúc xem thấy đó, nhìn thấy đó, nghe thấy đó đã từng là đối tượng của những gì hết sức khát khao mong muốn mà không được của "nhiều tiên tri và vua chúa" trong Cựu Ước. Nếu không phải là chính Chúa Giêsu Kitô là tột đỉnh của mạc khải thần linh và là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người biết.

    Chúa Giêsu Kitô là tột đỉnh của mạc khải thần linh vì tất cả những gì Thiên Chúa tỏ mình ra trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái thời Cựu Ước đều được ứng nghiệm và nên trọn nơi Người là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đúng như cảm nhận chí lý của Thư Do Thái ở ngay 2 câu đầu tiên của bức thư này: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử... Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa" (Do Thái 1:1-2)

    Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ là tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa mà còn là và nhất là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa nữa, bởi chỉ ở nơi duy một mình Người là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), là Đấng "hằng ở nơi Thiên Chúa" (Gioan 1:1,18) mới có thể biết Thiên Chúa mà "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) thôi, nhờ đó, "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9).

    Mầu nhiệm và biến cố nhập thể thần linh trong lịch sử dân Do Thái và của nhân loại này của "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), như Tông Đồ Phêrô thay tông đồ đoàn tuyên xưng, của "Đức Kitô Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian" (Gioan 11:27), như Matta thay gia đình của chị và dân chúng bấy giờ tuyên xưng, đã được tiên báo từ ngay trong Cựu Ước, rõ ràng nhất là qua Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

    "Ngày ấy, từ gốc Giê-sê (ám chỉ thân phụ của Vua Đavít) sẽ đâm ra một bông hoa. Trên bông hoa ấy (ám chỉ Chúa Giêsu Kitô, thuộc giòng dõi Đavít), thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa". 

    Và chính vì là Đấng Thiên Sai mà Chúa Giêsu Kitô mới tràn đầy "thần linh của Thiên Chúa", chứng tỏ Người thực sự là Con Thiên Chúa, được Thần Linh Chúa thánh hiến và tác động để sống trọn vẹn cho đến cùng tất cả những gì Thiên Chúa mun nơi Người cho phần rỗi muôn dân, như được Bài Đọc 1 tiếp tục cho biết về tinh thần và sứ vụ trần thế của Người:

    "Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công bình mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác. Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng".

    Nhờ thế, tức nhờ Người mà trần gian và nhân thế mới "đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước tràn đại dương", đến độ, như Bài Đọc 1 diễn tả một thế giới tuyệt diệu tràn đầy thái hóa và bình an, hòa giải được hết mọi khác biệt và xung khắc:

    "Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sửa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta".

    Bài Đáp Ca hôm nay cũng hướng về Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế theo chiều hướng của Bài Đọc 1 hôm nay, một Đấng Thiên Sai Cứu Thế là niềm hy vọng và là nguồn cứu độ của muôn dân và cho muôn dân, nhất là của và cho những ai yếu thế bất hạnh cần được giải thoát:

    1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh và phân xử người nghèo khó cách chính trực.

    2) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn, sẽ triển nở trong triều đại người, cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. 

    3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu sống người cùng khổ.

    4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.

     

     Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

    Thu.3.TuanI-MV.mp3  

    Xin nghe chia sẻ về Thánh Phanxicô Xavier ở cái link dưới đây:

     

    LeThanhPhanxicoXavier.mp3  

     

    image.png

     

    Lễ Thánh Phanxicô Xavier
    Quan thày các xứ truyền giáo như ở Việt Nam (lễ ở bậc lễ kính, chứ không phải lễ nhớ)
     
    Bài đọc 1
    1 Cr 9,16-19.22-23

     

    Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng !

    Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

    16 Thưa anh em, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng ! 17 Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công ; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. 18 Vậy đâu là phần thưởng của tôi ? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.

    19 Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. 22 Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. 23 Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.

    Đáp ca
    Tv 116,1.2 (Đ. Mc 16,15)

    Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.

    1Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa,
    ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người !

    Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.

    2Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
    lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.

    Đ.Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng.

    Tung hô Tin Mừng
    x. Mt 28,19a.20b

    Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ha-lê-lui-a.

    Tin Mừng
    Mc 16,15-20

     

    Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng.

    Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

    15 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”

    19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

     

     

     

     Việt Nam, trong số các thánh Dòng Tên, thánh Phanxicô Xavier được các tín hữu yêu mến và tôn kính nhất. Ngài có đặt chân lên đất nước Con Rồng Cháu Tiên không? Chúng ta không dám chắc. Dầu sao, ngài cũng được Hội Thánh đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo,trong đó có Việt Nam.

    Cũng như thánh I-nhã, thánh Phanxicô Xavier thuộc dân tộc ít người Basco sinh sống ở Tây Ban Nha. Ngài sinh năm 1506 trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài đến Paris học, với ý định tiến thân. Năm 23 tuổi, ngài gặp thánh I-nhã. Sau mấy năm, ngài được thụ phục và gia nhập nhóm bạn của thánh I-nhã. Năm 28 tuổi, ngài cùng với thánh I-nhã và các bạn khấn sống thanh bần và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài thụ phong linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á, theo lệnh của Đức Thánh Cha Phaolô III. Từ Ấn Độ, ngài mở rộng hoạt động truyền giáo đếnMalaysia, Inđônêxia và Nhật Bản.

    Với thánh Phanxicô Xavier, Dòng Tên vươn mình đến Châu Á, vừa đạt đến đỉnh cao của sứ mạng loan báo Tin mừng.  Trong 10 năm truyền giáo, ngài vượt chừng 100 ngàn cây số đường biển, trên những con tàu buồm mong manh, để đến Ấn Độ, Malaysia, Inđônêxia, Nhật Bản, và qua đời trên đảo Thượng Xuyên, đang khi mơ ước vào Trung Hoa.

    Tại Ấn Độ, ngài tập trung nỗ lực quanh mũi Comorin, hồi sinh cả một giáo đoàn 20 ngàn tín hữu, và chỉ trong một tháng rửa tội đến 10 ngàn tân tòng. Tại Malaysia, ngài kiên nhẫn giải tội cho từng hối nhân, rửa tội cho từng tân tòng, nay một người, mai một người. Như một mục tử đi tìm chiên lạc, ngài đến các đảo xa lắc xa lơ của Inđônêxia để củng cố đức tin những người thổ dân sống rải rác trên rừng núi, đã được rửa tội nhưng không ai giúp đỡ. Tại Nhật Bản, ngài khởi đầu một cách khó khăn công cuộc rao giảng và gây dựng Hội Thánh. Nghĩ rằng nếu Trung Hoa gia nhập Hội Thánh, cả vùng Đông Á sẽ noi gương, ngài tìm đủ mọi cách để vào vùng đất này.

    Thánh Phanxicô Xavier được xem là một vị tông đồ táo bạo, nếu không muốn nói là liều lĩnh. Thật vậy, đường biển thời ấy luôn bị đe dọa vì bệnh dịch, bão tố và hải tặc, nhưng ngài tin tưởng nếu Chúa không cho phép, không có gì làm hại được ngài. Ở Ấn Độ, ngài phải đương đầu với thời tiết nóng như nung và những đoàn quân Badaga hung dữ; ở Malaysia, ngài phải ê chề với thái độ ngoan cố và trịch thượng của người đại diện chính quyền thực dân Bồ Đào Nha; ở Nhật Bản, ngài phải chịu đựng bão tuyết và con mắt nghi ngờ của các sứ quân. Đặc biệt lúc ấy hoàng đế Trung Hoa ra lệnh xử tử bất cứ người châu Âu nào đặt chân đến, nhưng bất chấp mọi sự, ngài khao khát làm sao để gặp được hoàng đế Trung Hoa. Lòng nhiệt thành với các linh hồn và lòng phó thác tuyệt đối nới Chúa đã giúp ngài làm được những điều không ai dám nghĩ tới.

    Chỗ dựa hữu hình của ngài là Dòng Tên. Ngài luôn cảm tạ Chúa vì đã cho ngài có những người anh em cùng chung lí tưởng, luôn xin anh em cầu nguyện và gửi thêm nhân sự đến tăng cường và tiếp tục công việc ngài đã khởi sự. Ngài gọi Dòng Tên là “Dòng yêu thương”, và luôn mong ước được gặp lại anh em, hoặc ở dưới đất hoặc ở trên trời.

    Mặc dầu rửa tội được chừng 100 ngàn người, củng cố được hàng trăm cộng đoàn tín hữu, ngài vẫn cảm thấy bị thiêu đốt vì đòi hỏi gay gắt của nhu cầu truyền giáo.  Ngài qua đời trên đảo Thượng Xuyên, ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ngài được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV tuyên thánh, cùng với thánh I-nhã, năm 1622, và được Hội Thánh đặt làm bổn mạng các xử truyền giáo.

     

    Sau đây là một đoạn văn nổi tiếng: Mời gọi các đại học được trích trong lá thư của Phanxicô Xavier gửi từ Nam Ấn cho các bạn đường ở Rôma, ngày 15.01.1544

    “Biết bao lâu tôi đã muốn đi đến các đại học ở Châu Âu, và nhất là đến Đại học Paris[1] để lớn tiếng kêu to, như một người đã mất trí, với những người vốn giàu kiến thức hơn là có lòng ước ao rút tỉa ích lợi từ  kho kiến thức ấy; và nếu họ đem cũng chừng ấy lòng nhiệt thành dành cho việc nghiên cứu để suy nghĩ về khoản nợ mà Thiên Chúa sẽ đòi họ phải trả về việc nghiên cứu này, cũng như những nén vàng nén bạc đã ban cho họ, thì ắt sẽ có khá đông người xúc động về điếu ấy, họ ắt sẽ sử dụng những phương tiện  và những việc thiêng liêng thích hợp để làm cho mình nhận biết và đi sâu vào thánh Ý Chúa, bày tỏ trong tâm hồn họ và ắt họ sẽ quy phục ý Chúa hơn là sở thích riêng mình mà nói rằng: Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con làm gì?

    Nhưng tôi e rằng có nhiều người đang sôi kinh nẩu sử trong các đại học, cốt chỉ là để dành cho được một chỗ đứng thuận lợi, có lương bổng cao và chức tước. Họ đã chọn bậc sống mình như thế đấy, buông thả theo những tình cảm lệch lạc của mình.

     

     

     

     Tôi đã súy viết cho đại học Paris để nói cho họ biết rằng có hàng ngàn và hàng triệu người ngoại lẽ ra đã trở thành Ki-tô hữu nếu đã có thêm thợ gặt. Có cả một đám đông như thế trở lại với đức tin của Chúa Ki-tô trong xứ mà tôi đang sống đây, biết bao lần tay tôi mỏi mệt vì ban phép Rửa, và không còn hơi sức để nói vì đã đọc đi đọc lại quá nhiều lần kinh Tin Kính và Mười điều răn bằng thổ ngữ của họ, cũng như những kinh nguyện khác và một huấn dụ trong đó tôi cắt nghĩa cho họ hiểu thế nào là một Ki-tô hữu.”

    (tài liệu trên được lấy từ website của dòng tên ở Việt Nam)

    ***

     

    Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng

     

    Trích thư của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, linh mục, gửi thánh I-nha-xi-ô.

    Chúng tôi đã tới nhiều làng tân tòng mới được chịu phép rửa cách đây ít năm. Người Bồ Đào Nha không ở các làng này vì đất đai xác xơ cằn cỗi. Vì không có linh mục nên các Ki-tô hữu bản xứ chẳng biết gì khác ngoài việc mình là Ki-tô hữu. Chẳng có ai cử hành bí tích cho họ, chẳng có ai dạy họ kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, chẳng có ai dạy họ biết các điều răn của Chúa.

    Từ khi đến đây, tôi chẳng ngưng lúc nào : tôi rảo khắp làng mạc, làm phép rửa cho nhiều trẻ em chưa được lãnh bí tích này. Tôi đã làm phép rửa cho một số rất đông các trẻ em chưa biết phân biệt bên phải với bên trái. Khi tôi đến các làng ấy, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho chúng một kinh. Vì thế, tôi bắt đầu hiểu tại sao Nước Trời lại là của những người giống như chúng.

    Cũng vì không đang tâm từ khước một lời xin thánh thiện như vậy, tôi đã bắt đầu dạy chúng làm dấu thánh giá mà tuyên xưng niềm tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, rồi dạy chúng kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng. Tôi nhận thấy chúng rất thông minh. Và nếu có ai huấn luyện cho chúng về đạo lý Ki-tô giáo, tôi dám chắc chúng sẽ trở nên những Ki-tô hữu rất tốt lành.

    Tại các miền ấy, có nhiều người không được làm Ki-tô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Ki-tô hữu. Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học ở châu Âu, trước hết là đại học Pa-ri, mà kêu gào khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng : Tiếc thay, chỉ vì lỗi các ông mà biết bao linh hồn thay vì lên thiên đàng lại phải xuống hoả ngục.

    Ước chi họ miệt mài với văn chương chữ nghĩa thế nào thì họ cũng miệt mài với công việc tông đồ này như vậy, để có thể trả lẽ với Thiên Chúa về học thuyết của họ cũng như các nén bạc đã được trao phó cho họ. Nhiều người trong họ được đánh động vì ý tưởng này. Nhờ suy gẫm những sự việc về Chúa, họ nghe được tiếng Chúa trong tâm hồn và từ bỏ các tham vọng cũng như công việc trần thế mà hoàn toàn vâng theo ý Chúa và lệnh truyền của Người. Họ thốt lên tự đáy lòng : Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con làm gì ? Xin sai con đi bất cứ nơi nào tuỳ ý Chúa, cả Ấn-độ cũng được !

     

    (bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh, trong Phụng Vụ Giờ Kinh Sách Lễ Thánh Phanxicô Xavier, Bài Đọc 2)

     

     

     -----------------------------

     

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - THỨ HAI 02-12-2019

  •  
    Chi Tran - Dec 1 at 11:19 PM
     
     


     
     
     
    Ảnh cùng dòng

     
    5 phút Lời Chúa 

    02/12/19 THỨ HAI TUẦN 1 MV
    Mt 8,5-11

     

    SỨC MẠNH CỦA NIỀM TIN

    Đức Giê-su nói với những kẻ theo Ngài rằng: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế.” (Mt 8,10)

    SỐNG: Trước cái nhìn của người Do Thái, viên sĩ quan Rô-ma là người ngoại đạo. Nhưng lòng tin của ông thật là ấn tượng và đáng nể phục.

    Ông biết, trong chức vụ và quyền hạn của ông, ông đầy quyền lực đối với thuộc hạ: Bảo người này đi là nó đi, bảo người kia đến là nó đến. Thế nhưng khi chạy đến cầu xin Chúa Giê-su, ông không chỉ khiêm tốn nhìn nhận những hạn chế và bất lực của mình, mà còn tuyên xưng niềm tin vào lời đầy quyền năng của Ngài: Chỉ cần Ngài phán một lời thì mọi bệnh hoạn tật nguyền, dấu chỉ sự thống trị của ma quỷ, cũng bị xua tan.

    Trước lời tuyên xưng của viên sĩ quan Rô-ma, Chúa Giê-su chẳng những ngạc nhiên mà còn đặt ông làm mẫu gương đức tin cho tất cả chúng ta.

    Mời Bạn CHIA SẺ: Chúa Giê-su mời bạn học đòi bắt chước ông sĩ quan Rô-ma đặt tất cả niềm tin nơi Chúa, như người con chạy đến với cha của mình để tâm sự, và trao phó nơi Ngài những nỗi niềm và mong ước của chúng ta với một niềm phó thác và trông cậy, nhất là những khi gặp đau khổ, thử thách gian nan.

    Một khi đặt niềm tin vào Thiên Chúa, dù bạn gặp phải bất cứ khó khăn thử thách nào, ơn Chúa cũng sẽ giúp bạn vượt qua.

    Sống Lời Chúa: Mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta có cơ hội lặp lại lời viên sĩ quan: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời là linh hồn con sẽ lành mạnh.” Bạn hãy thưa với Chúa những lời ấy một cách thật xác tín.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa. NHỜ THÁNH THẦN củng cố niềm tin còn yếu đuối của con.

    gpdanang
    Download all attachments as a zip file
    • 1575254722855blob.jpg
      116.7kB

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC - CN1MV-A

  •  
    Jerome Nguyen Van NoiNov 29 at 1:54 AM
     
     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ PHÚC ÂM CHÚA NHẬT

    ----oooOooo----

    CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG NĂM A (01/12/2019)

     

    TỈNH THỨC & SẴN SÀNG (MT 24, 37-44)

     

    "Các on hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.

    Các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".

    (Câu 42, 44)

     

    I. DẨN VÀO PHỤNG VỤ

    Chúa Nhât I Mùa Vọng là khởi đầu của Năm Phụng Vụ Mới - Năm A- của Giáo Hội Công giáo. Trong bài Phúc Âm hôm nay Đức Giê-su khuyên các môn đệ hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì ngày Quang Lâm của Người sẽ đến cách bất ngờ, như trận hồng thủy thời Nô-ê, tức vào lúc người ta không ngờ. Đầu Mùa Vọng Giáo Hội nhắc lại lời khuyên của Chúa Giê-su về Ngày Cánh Chung vì lời khuyên ”hãy tỉnh thức và sẵn sáng” ấy của Đức Giê-su có giá trị cho suốt cuộc đời tín hữu chúng ta, chứ không chỉ cho Ngày Cánh Chung.

     

    II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU 24,37-44:Khi ấy, Chúa Giê-su phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Nô-e xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nô-e vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.

    "Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".

     

    III. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU 24,37-44: Vì không muốn ai phải hư mất trong Ngày Cánh Chung, nên Đức Giê-su đã khưyên (cảnh báo các môn đệ và dân chúng phải tỉnh thức và sẵn sàng. Ngày Con Người đến sẽ bất thình lình nên những ai không tỉnh thức và sẵn sàng thì sẽ bị cuốn đi; chỉ những ai tỉnh thức và sẵn sàng mới được cứu. Đức Giê-su lấy sự kiện trong lịch sử để làm bằng chứng cho khẳng định của mình: Đó là trận Hồng Thủy đã giết hết loài người thời ông Nô-ê.  Những lời cảnh báo của Đức Giê-su về Ngày Canh Chung cũng là những lời cảnh báo cho mỗi ngày/giờ sống của chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng!

     

    IV. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU 24,37-44:

    4.1 Sống tỉnh thức: Cuộc đời con người có đủ thứ lo toan (cơm áo gạo tiền) và rất nhiều hấp dẫn (giầu sang, quyến lực, vui thú) nên người ta rất dễ sao lãng những điều tối quan trọng. Có thể là người ta không nhìn ra các mối nguy hại đối với đời sống vật chất và tinh thần. Có thể là người ta chỉ quan tâm đến hiện tại mà không nghĩ tới tương lai, chỉ quan tâm đến cuộc sống đời này mà quên cuộc sống đời sau. Vì thế mọi người cần phải tỉnh thức, cảnh giác để không bị lừa và không bị hố.

    3.2 Và sẵn sàng: Vì không tỉnh thức nên rất nhiều người không sẵn sàng khi các biến cố xẩy đến. Biến cố lớn nhất và quan trọng nhất là cái chết khiến chúng ta từ giã cõi đời này và bước vào cõi đời sau. Cõi đời sau ra sao là tùy cách chúng ta đã sống trong cõi đời này. Của cải tiền bạc chức quyền chúng ta không thể mang theo vào cõi đời sau. Chỉ có việc lành phúc đức, cách sống lương thiện, bác ái, yêu thương và thánh thiện mới là hành trang giúp mỗi người chúng ta tỗn vong trong cõi đời sau.

     

    V. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN [VỚI LỜI CHÚA TRONG MÁT-THÊU 24,37-44:

    KHAI MỞ:  Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha vì chúng con được bước vào Mùa Vọng thêm một lần nữa. Chúng con xin dâng lên Cha lời cầu xin tha thiết của chúng con.  

     

    Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN:

    1.- «Khi ấy, Chúa Giê-su phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Nô-e xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho hết mọi người trên thế giới này biết sống tỉnh thức và sẵn sàng trong mọi tình huống của cuộc đời này.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

     

    2.-«Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nô-e vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế để các vị ấy sống tỉnh thức và sằn sàng chờ đón  Ngày Chúa đến.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

     

    3.- «Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi người sống tỉnh thức và sẵn sàng trong mọi cảnh huống của cuộc đời.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

     

    4.- «Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người say mê của cải, chức quyền, danh vọng và cho những người nghèo khó túng thiều để tất cả những người ấy biết tỉnh thức và sẵn sàng trước mọi sự biến cố bất ngờ xẩy đến trong cuộc đời.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

     

    LỜI KẾT:

    Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban cho chúng con thời gian quý báu của Mùa Vọng Năm A vừa bắt đầu.

    Chúng con quyết tâm đáp lại lời mời gọi sống tỉnh thức và sẵn sàng mà Chúa Giê-su Ki-tô đã dành cho chúng con hôm nay.

    Xin Cha ban Thánh Thần và sức mạnh của Ngài cho chúng con để chúng con vượt qua mọi thử thách và chiến thắng mọi cám dỗ.

    Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con, là Đấng đã đến đang đến và sẽ đến.  Amen.

     

    Sài-gòn ngày 29 tháng 11 năm 2019

    Giêrônimô Nguyễn Văn Nội  

     

    --

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC- THỨ BẢY CN34TN-C

  •  
    Chi TranNov 30 at 10:14 AM
     
     
    ---------- Forwarded message ---------
    From: nguyenthi leyen <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.>
    Date: Fri, Nov 29, 2019, 11:13 PM
    Subject: Fw: 5 phút Lời Chúa 30/11/19 THỨ BẢY TUẦN 34 TN
    To:


     
     
     
    Ảnh cùng dòng

     
    5 phút Lời Chúa

    30/11/19 THỨ BẢY TUẦN 34 TN
    Th. An-rê, tông đồ
    Mt 4,18-22

     ƠN GỌI VÀ GIA ĐÌNH

    Chúa Giê-su đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia là Si-mon, cũng gọi là Phê-rô, và người anh ông là An-rê… Người gọi các ông… Lập tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. (Mt 4,18-20)

    Suy niệm/SỐNG: Trong số mười hai tông đồ thì có đến hai cặp là anh em với nhau: cặp Phê-rô và An-rê, cặp Gio-an và Gia-cô-bê. Đặt mình trong bối cảnh của Tin Mừng mới thấy việc Chúa Giê-su kêu gọi các ông phát sinh lắm vấn đề thật bức xúc.

    Là những lao động chính trong nhà, các ông đồng loạt bỏ lưới bỏ thuyền để đi theo Đức Giê-su theo kiểu “cầm cày không ngoái cổ lại đàng sau,” chắc hẳn các ông đã để lại không ít khó khăn cho công việc làm ăn của cả gia đình, chưa kể đến những tình cảm quyến luyến.

    Các ông quảng đại bỏ mọi sự theo Chúa đã đành mà thân nhân của các ông cũng phải hy sinh lớn lao để hiến dâng các ông cho Chúa. Tin Mừng còn cho biết gia đình các ông sau này vẫn tiếp tục hỗ trợ cho thầy trò các ông trên đường truyền giáo nữa (x. Mt 8,15; Mt 27,56).

    Mời Bạn CHIA SẺ: Giáo Hội Việt Nam vốn được tiếng là giàu ơn gọi. Thế nhưng theo đà phát triển của xã hội hiện nay, đã xảy ra nhiều trường hợp gia đình không còn mặn mà với việc cho con cái bước theo con đường tu trì, thậm chí còn cản trở chống đối. Để đẩy mạnh công cuộc truyền giáo, không thể không phát triển ơn gọi.

    Bạn, gia đình bạn, góp phần thế nào trong công cuộc này? Nhất là khi chính bạn hoặc con em bạn được ơn Chúa kêu gọi, bạn và gia đình bạn có sẵn sàng hiến dâng quảng đại chưa?

    Sống Lời Chúa: Sẵn sàng hy sinh từ bỏ những việc nhỏ trong đời thường để sẵn sàng từ bỏ theo như ơn gọi đòi hỏi.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn sẵn sàng đáp lại ơn gọi của Chúa.

    gpcantho
     
    Download all attachments as a zip file
    •  
      1575080938697blob.jpg
      116.7kB
    • 1575080938697blob.jpg
      116.7kB

SỐNG VÀ CHIA SẺ LC -THỨ BẢY CN34TN-C

  •  
    Tinh Cao
    Nov 29 at 5:15 PM
     
     

    Ngày 30 tháng 11

    Lễ Thánh Anrê, Tông Ðồ

    *******

    SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA

    CÁC ÔNG BỎ LƯỚI MÀ ĐI THEO NGÀI

     

    Bài Ðọc I: Rm 10, 9-18

    "Lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Ðức Kitô".

    Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

    Nếu miệng ngươi tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi.

    Nhưng người ta kêu cầu thế nào được với Ðấng mà họ không tin? Hoặc làm sao họ tin được Ðấng họ không nghe nói tới? Nhưng nghe thế nào được, nếu không có người rao giảng? Mà rao giảng thế nào được, nếu không được ai sai đi? Như có lời chép rằng: "Cao quý thay chân những người rao giảng sự bình an, rao giảng tin lành!" Nhưng không phải mọi người đều suy phục Tin Mừng cả đâu. Vì Isaia nói rằng: "Lạy Chúa, nào có ai tin lời chúng con rao giảng?"

    Vậy lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Ðức Kitô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe đến? Quả thật, tiếng của những vị đó đã vang dội ra khắp địa cầu, và lời của những đấng ấy được truyền đến tận cùng thế giới.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5

    Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).

    Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.

    2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.

     

    Alleluia: Ga 9, 19

    Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các ngươi hãy theo Ta; Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mt 4, 18-22

    "Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

    Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Xin nghe bài chia sẻ về Thánh Anrê Tông Đồ theo bài Giáo Lý của ĐTC Biển Đức XVI dưới đây bằng cách bấm vào cái link sau đây

     

    LeThanhAnreTongDo.mp3  

     

     

     

    “Tông Đồ Anrê, Vị được gọi đầu tiên”

     

    (ĐTC Biển Đức XVI: Giáo Lý về Giáo Hội Truyền Thống - Bài 11)

     

     

     

    image.png

     

     

    Anh Chị Em thân mến,

     

    Ở ba bài giáo lý vừa rồi chúng ta đã nói về hình ảnh của Thánh Phêrô. Giờ đây, căn cứ vào những gì có trong tay, chúng ta muốn nói tới 11 vị tông đồ khác một chút. Bởi thế, hôm nay chúng ta nói tới người anh em của Simon Phêrô là Thánh Anrê, vị cũng là một trong Nhóm 12.

     

    Điều đầu tiên làm cho người ta chú ý về Thánh Anrê là tên gọi của ngài, ở chỗ, tên của ngài không phải là tiếng Do Thái mà là tiếng Hy Lạp, dấu hiệu cho thấy một tính cách cởi mở về văn hóa nào đó của gia đình ngài. Chính chúng ta cũng thấy được ở Galilêa là nơi tiếng Hy Lạp và văn hóa Hy Lạp khá thông dụng.

     

    Trong các danh sách về Nhóm 12 thì Anrê được liệt kê thứ hai ở Phúc Âm Thánh Mathêu (10:1-4) và ở Phúc Âm Thánh Luca (6:13-16), hay thứ bốn ở Thánh Marcô (3:13-18) và ở Sách Tông Vụ (1:13-14). Dù sao chăng nữa thì ngài chắc chắn là ngài có một uy tín lớn trong các cộng đồng Kitô Giáo sơ khai.

     

    Mối liên hệ về máu mủ giữa Thánh Phêrô và Anrê, cũng như việc Chúa Giêsu gọi chung cả hai vị, đều là những gì được minh nhiên trình thuật trong các Phúc Âm. Người ta đọc thấy rằng: ‘Khi bước đi bên bờ Biển Galilêa, thì Người thấy hai anh em, Simon cũng được là Phêrô và Anrê là người anh em của ngài, cả hai đang thả lưới xuống biển; vì họ là những tay đánh cá. Người đã nói với họ rằng: ‘Hãy theo Thày, và tôi sẽ làm cho các người thành những tay đánh cá người ta’ (Mt 4:18-19; Mk 1:16-17).

     

    Theo Phúc Âm thứ bốn, chúng ta biết được một chi tiết quan trọng khác, đó là, mới đầu, Anrê là một người môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả; và điều này cho chúng ta thấy rằng ngài là một con người tìm kiếm, một con người đã chia sẻ niềm hy vọng của Yến Duyên, một con người muốn biết hơn nữa về lời của Chúa, về sự hiện diện của Chúa.

     

    Ngài thực sự là con người của đức tin và đức cậy; nên một ngày kia nghe thấy Gioan Tẩy Giả giảng về Đức Giêsu như là ‘Chiên Thiên Chúa’ (Jn 1:36); bấy giờ ngài đã bị tác động, để rồi cùng với một người môn đệ khác được giấu tên, đã đi theo Đức Giêsu, vị đã được Thánh Gioan gọi là ‘Chiên Thiên Chúa’. Vị Thánh Ký viết: ‘Họ đã thấy nơi Người ở; và họ đã ở với Người’ (Jn 1:40-43), một việc chứng tỏ cho thấy ngay một tinh thần tông đồ khác thường. Bởi thế, Anrê là vị tông đồ đầu tiên được kêu gọi và đã theo Chúa Giêsu.

     

    Đó là lý do phụng vụ của Giáo Hội Byzantine tôn kính ngài với dan hiệu là ‘Protoklitos’, tức là người ‘được ọi đầu tiên’.

     

    Vì mối liên hệ huynh đệ giữa Phêrô và Anrê mà Giáo Hội Rôma và Giáo Hội Constantinople coi minh là hai Giáo Hội chị em với nhau. Để nhấn mạnh đến mối liên hệ này, vị tiền nhiệm của tôi là Giáo Hoàng Phaolô VI, vào năm 1964, đã hoàn lại di hài nổi tiếng của Thánh Anrê là những gì cho tới bấy giờ vẫn được lưu giữ ở đền thờ Vatican, cho vị giám mục tổng giáo phận Chính Thống ở thành phố Patras, Hy Lạp, nơi mà theo truyền thống, vị tông đồ này đã bị đóng đanh.

     

    Các truyền thống Phúc Âm đề cập đến tên Anrê đặc biệt vào 3 trường hợp khác nữa, giúp cho chúng ta có thể biết thêm về con người này. Lần thứ nhất đó là vào biến cố bánh hóa ra nhiều ở Galiêa. Lần này, Anrê đã chỉ cho Chúa Giêsu biết về sự hiện diện của một em trai có 5 ổ bánh và 2 con cá: ngài nói là rất ít ỏi cho tất cả đám dân chúng đang tu họp lại ở nơi ấy (x Jn 6:8-9).

     

    Cn phải nhấn mạnh đến tính cách thiết thực của Anrê. Ngài đã thấy em trai này, tức là ngài đã hỏi Người rằng: ‘Thế nhưng điều này thì có nghĩa gì đối với tất cả bằng ấy người chứ?’ (ibid) và ngài đã biết được tình trạng thiếu phương tiện. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã có thể làm cho chúng trở thành đủ cho đám đông dân chúng đã đến nghe Người rao giảng.

     

    Lần thứ hai ở Giêrusalem. Khi rời thành phố, một người môn đệ đã chỉ cho Người phong cảnh của những tường thành vĩ đại vây bọc ngôi đền thờ. Lời đáp ứng của Vị Sư Phụ đã làm bàng hoàng sửng sốt đó là Người nói rằng những bức tường thành đó sẽ không còn một hòn đá nào trên hòn đá nào. Bấy giờ Anrê, cùng với Phêrô, Giacôbề và Gioan, đã hỏi Người rằng: ‘Xin Thày nói cho chúng con biết khi nào thì điều này sẽ xẩy ra, và đâu là dấu hiệu cho thấy tất cả những điều ấy đều được nên trọn’ (Mk 13:1-4).

     

    Để trả lời cho vấn nạn ấy, Chúa Giêsu đã nói một bài quan trọng về việc Thành Giêrusalem bị hủy diệt và về ngày cùng tháng tận của thế giới, kêu gọi các môn đệ hãy can thận để ý tới các dấu chỉ thời đại và luôn giữ thái độ tỉnh thức. Theo tình tiết này thì chúng ta có thể suy diễn là chúng ta không cần phải sợ đặt vấn đề với Chúa Giêsu, thế nhưng đồng thời chúng ta cũng phải sẵn sàng chấp nhận các giáo huấn của Người, những giáo huấn cũng kinh hoàng và khó khăn.

     

    Sau hết, các Phúc Âm ghi nhận lần thứ ba nói về Anrê. Trường hợp này cũng ở Giêrusalem, ngay trước Cuộc Khổ Nạn một chút. Đó là vào dịp Lễ Vượt Qua, Thánh Ký Gioan thuật rằng, có một số người Hy Lạp đã đến Thành Thánh này, có lẽ là thành phần cải đạo hay những con người kính sợ Thiên Chúa, để tôn thờ Vị Thiên Chúa của dân Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua.

     

    Anrê và Philiphê, hai người môn đệ mang tên gọi Hy Lạp, đã đóng vai thông dịch viên và môi giới cho Chúa Giêsu của nhóm người Hy Lạp nhỏ bé này. Câu Chúa Giêsu trả lời cho câu hỏi của ngài có vẻ khó hiểu, như vẫn thường xẩy ra ở Phúc Âm Thánh Gioan, thế nhưng chính vì thế mà nó cho thấy tất cả ý nghĩa của nó. Chúa Giêsu nói cùng những người môn đệ của Người, và qua môi giới của họ, với thế giới Hy Lạp rằng: ‘Đã đến giờ Con người được hiển vinh. Thật vậy, thật vậy, Thày nói cùng các con hay là trừ phi hạt lúa miến rơi xuống đất chết đi bằng không nó vẫn y nguyên như thế; nó có chết đi mới sinh nhiều hoa trái’ (Jn 12:23-24).

     

    Trong bối cảnh ấy những lời này có nghĩa là gì? Chúa Giêsu muốn nói rằng: Phải, cuộc gặp gỡ của Thày với những người Hy Lạp sẽ xẩy ra, thế nhưng cuộc gặp gỡ của Thày sẽ không phải là một cuộc nói chuyện giản dị và ngắn ngủi với một số người nào đó được tác động trước hết bởi tính tò mò vậy thôi. Bằng cái chết của mình, có thể được so sánh với việc hạt lúa miến rơi xuống đất, thời điểm hiển vinh của Thày sẽ đến. Nhờ cái chết trên cây thập tự giá mới phát sinh nhiều hoa trái. ‘Hạt lúa miến chết đi’ – tiêu biểu cho việc Thày bị đóng đanh – sẽ trở thành, nhờ Cuộc Phục Sinh, bánh sự sống cho thế gian: Nó sẽ là ánh sáng soi chiếu cho các dân tộc và các nền văn hóa.

     

    Phải, cuộc gặp gỡ với cái hồn Hy Lạp, với thế giới Hy Lạp, sẽ xẩy ra ở cái ý nghĩa sâu sắc được hạt lúa miến ám chỉ như thế, một biến cố thu hút các quyền lực của cả trái đất lẫn trời cao và trở thành bánh sự sống. Nói cách khác, Chúa Giêsu nói tiên tri về Giáo Hội của người Hy Lạp, Giáo Hội của dân ngoại, Giáo Hội của thế giới là hoa trái của Cuộc Người Vượt Qua.

     

    Các truyền thống rất cổ tin rằng Anrê, vị đã chuyển đạt những lời ấy cho các người Hy Lạp, chẳng những là thông dịch viên của một số người Hy Lạp trong cuộc họ gặp gỡ Chúa Giêsu như chúng ta vừa nhớ lại, mà ngài còn được coi là vị Tông Đồ của người Hy Lạp vào những năm sau Biến Cố Hiện Xuống nữa; những truyền thống ấy cho chúng ta biết rằng cả cuộc đời còn lại của mình, ngài là người rao giảng tin mừng và là thông dịch viên về Chúa Giêsu cho thế giới Hy Lạp.

     

    Phêrô, người anh em của ngài, đã từ Giêrusalem đến Rôma, đi ngang qua Antiôkia, để thi hành sứ vụ hoàn vũ của mình; Anrê, trái lại, là vị Tông Đồ của thế giới Hy Lạp. Bởi thế, cả khi sống lẫn lúc chết, các vị đều là những người anh em chân thực, một tình huynh đệ được diễn tả một cách tượng trưng nơi mối liên hệ đặc biệt của các giáo hội Rôma và Constantinople, hai Giáo Hội là chị em với nhau thực sự.

     

    Một truyền thống sau đó, như tôi đã nói, thuật lại cái chết của Thánh Anrê ở Patras, nơi ngài cũng bị hành quyết đóng đinh vào thập giá. Tuy nhiên, vào chính giây phút cuối cùng ấy, như người anh em Phêrô của mình, ngài đã xin được đóng đanh khác với cách của Chúa Giêsu. Nơi trường hợp của ngài thì cây thập tự giá theo kiểu chữ X, tức là có hai thanh gỗ bắt chéo nhau, nên mới được gọi là ‘cây thập giá của Thánh Anrê’.

     

    Đó là những gì, theo một trình thuật cổ (vào đầu thế kỷ thứ sáu), với nhan đề ‘Cuộc Khổ Nạn của Thánh Anrê’: vào lúc ấy ngài đã nói rằng: ‘Kính mừng, Ôi cây thập giá, được thân thể Chúa Kitô khai mạc, một thập tự giá đã trở thành đồ trang điểm cho các phần tử của Người, như thể họ là những viên ngọc quí. Trước khi Chúa Kitô cưỡi lên ngươi thì ngươi gây kinh hoàng cho trần thế. Tuy nhiên, giờ đây, được tình yêu thiên quốc ban tặng, ngươi đã trở thành một tặng ân. Thành phần tín hữu cảm thấy niềm vui biết bao nơi ngươi, bao nhiêu là tặng ân do người cống hiến. Bởi thế, hãy tin tưởng và tràn đầy niềm vui, ta đến đây để ngươi cũng sẽ nhận lấy ta hân hoan như người môn đệ của Đấng đã bị treo lên trên ngươi… Hỡi cây thập tự giá diễm phúc…, cây thập tự giá đã lãnh nhận cái uy nghi và kiều diễm của những chi thể Chúa Kitô…, xin hãy nhận lấy ta và hãy dẫn ta xa khỏi con người và trao ta cho Vị Sư Phụ của ta, để nhờ ngươi, Người sẽ lãnh nhận ta, Đấng nhờ người đã cứu chuộc ta. Kính mừng, Ôi cây thập tự giá, phải, xin thực lòng kính chào ngươi!’.

     

    Như chúng ta có thể thấy, chúng ta đang đứng trước một linh đạo Kitô Giáo hết sức sâu xa, một linh đạo thấy nơi cây thập tự giá, vượt ra ngoài tính cách một dụng cụ hành hình, như một phương tiện khôn sánh cho việc hoàn toàn nên giống với Đấng Cứu Chuộc, nên giống hạt lúa miến rơi xuống đất. Chúng ta cần phải học được bài học rất quan trọng này, đó là, những thập tự giá của chúng ta có một giá trị nếu chúng được coi và đón nhận như yếu tố của thập giá Chúa Kitô, nếu chúng được chạm tới bằng việc phản ảnh ánh sáng của Người. Chỉ nhờ những cây thập tự giá như thế, các nỗi đau thương của chúng ta cũng mới cao quí và đạt được ý nghĩa đích thực của chúng.

     

    Chớ gì Tông Đồ Anrê dạy cho chúng ta biết theo Chúa Giêsu một cách mau mắn (x Mt 4:20; Mk 1:18), nói một cách nhiệt tình về Người với tất cả những ai chúng ta gặp gỡ, trước hết là để vun trồng một mối liên hệ thân tình thực sự với Người, với ý thức là chỉ ở nơi Người chúng ta mới có thể tìm thấy ý nghĩa tối hậu nơi cuộc sống cũng như nơi cái chết của chúng ta mà thôi.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 14/6/2006

     

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHo_PQ-wsjGrmqOyL8KcoGff%2BKmf4xuhb0SbsHr6X_Q-LA%40mail.gmail.com.
     

Subcategories