3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

ĐƯỜNG TẮT ĐỂ NÊN THÁNH - Thứ Năm Tuần 4 MC A

“Tôi không cần người đời tôn vinh!”.

R. De Haan nói, “Sự khiêm tốn là điều chúng ta nên thường xuyên cầu nguyện, nhưng đừng bao giờ cảm ơn Chúa vì có nó! Hãy quên mọi việc tử tế ngay khi bạn vừa làm xong; quên ngay những lời khen khi bạn vừa giành được. Đó là ‘đường tắt để nên thánh!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Hãy quên mọi việc tử tế ngay khi bạn vừa làm xong; quên ngay những lời khen khi bạn vừa giành được!”. Đó cũng là một trong các chủ đề của Lời Chúa hôm nay! Bởi lẽ, vinh quang và danh dự không thuộc về con người; nó thuộc về Chúa! Ý thức điều này, chúng ta tìm được con ‘đường tắt để nên thánh’.

Thật sai lầm khi con người thường hay tìm kiếm những khen lao của nhau, đang khi Thánh Kinh nói, “Hãy dâng Chúa vinh quang xứng Danh Ngài!”; Chúa Giêsu thì bảo, “Tôi không cần người đời tôn vinh!”. Tại sao? Vì lẽ, chỉ Thiên Chúa mới xứng với muôn lời chúc tụng, bởi Ngài tạo thành mọi sự! Ý thức điều này, chúng ta đã bước đi trên con đường thánh thiện! Vì phải ăn mày sự bố thí lời khen của con người, chúng ta lao vào công việc một cách chăm chỉ để có thể được chấp nhận; vậy mà, khi làm thế, khác nào chúng ta tự tạo cho mình một chiếc máy chém! Vì vậy, khi thanh tẩy những ý định quy về bản thân này, để tôn vinh một mình Thiên Chúa qua mọi lời nói, hành động và suy nghĩ, thì trước hết, ‘bình an’ và tiếp đến, ‘sự sống đời đời’ được ban cho chúng ta và cho nhiều linh hồn, và đó là ngõ vào ‘đường tắt để nên thánh’ cho mỗi người.

Đối lập với sự chấp nhận của con người là sự khước từ của nó. Chúa Giêsu đã trải nghiệm nỗi tuyệt vọng của sự khước từ này khi Ngài bị treo lên thập giá. Tuy nhiên, ngay tại thời điểm mất hết sự chấp nhận của con người, Ngài vẫn được Chúa Cha chấp nhận; Thiên Chúa, Đấng trung thành, cũng là Đấng đã cho Ngài sống lại từ cõi chết. Mầu nhiệm Vượt Qua, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu cho thấy, việc không được con người chấp nhận không nhất thiết có nghĩa là không có sự chấp nhận của Thiên Chúa! Như vậy, được Thiên Chúa chấp nhận và khen lao còn quý hơn vạn lần so với sự chấp nhận và khen ngợi của con người.

Thật thú vị, Israel trong bài đọc Xuất Hành hôm nay không chấp nhận Thiên Chúa, Đấng cứu thoát; không tôn thờ Ngài như Ngài đáng được tôn thờ. Họ đúc một con bò vàng, quỳ xuống thờ lạy nó! Thánh Vịnh viết, “Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng bò ăn cỏ”. Điều đó khiến Thiên Chúa nổi giận đến nỗi Ngài nhất tâm tru diệt họ; và Môisen, một lần nữa, đứng ra, xin Chúa thương tha thứ. Thật xúc động với lời Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, bởi lòng thương dân Ngài”; và Thiên Chúa lại xiêu lòng!

Anh Chị em,

“Tôi không cần người đời tôn vinh!”. Đó là lập trường và tiêu chí hành động của Chúa Giêsu. Điều này tiết lộ cung cách của Ngài khác hẳn với cung cách của con người. Với Ngài, Chúa Cha là ưu tiên số một, nên Ngài ra sức làm điều Cha muốn. Mục đích sống của Chúa Giêsu cũng phải là mục đích sống của cuộc đời chúng ta! Thế giới đang chứng kiến những tang thương kéo theo bao khó khăn do cuộc chiến tham tàn của những kẻ ‘tham nhũng quyền lực’ và khát khao nó một cách bệnh hoạn, bạn và tôi được mời gọi hãy trở nên những Giêsu, những Môisen, những con người của cầu nguyện, hy sinh và quên mình, hầu khấn xin Chúa thương xót nhân loại khốn cùng này. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta dâng lên Cha những hy sinh âm thầm nhỏ bé mỗi ngày, cốt chỉ để Thiên Chúa nhìn thấy và tôn vinh Ngài. Đó chính là con đường thật nhỏ, thật ngắn; một con đường mang tên “Giêsu”, cũng là ‘đường tắt để nên thánh!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giúp con tránh xa những huyễn danh, một chỉ tìm vinh quang Chúa. Cho con khả năng cuốn hút thật nhiều người, không phải về phía con, nhưng về phía Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

TRAO BAN SỰ SỐNG VÀ CỨU SỐNG - Thứ Tư Tuần 4 MC A

“Cho dù người mẹ có quên đứa con mình đã cưu mang, thì Ta, Ta chẳng quên ngươi bao giờ!”.

“Cuộc sống con người là một tiến trình liên tục làm quen với những điều không ngờ! Thiếu nhi trìu mến, thiếu niên dễ dạy, hai mươi hãnh tiến, ba mươi không mệt mỏi, bốn mươi bốc lửa, năm mươi mạnh mẽ, sáu mươi nghiêm túc, bảy mươi trầm mặc; tám mươi đau đớn, thở gấp, và đợi chết! Thế nhưng, ở bất cứ giai đoạn nào, một cuộc sống con người ‘chỉ có ý nghĩa’ khi nó ‘trao ban sự sống và cứu sống!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trái ngược hoàn toàn với ý tưởng của nhà tu đức trên, Thiên Chúa không trải qua một giai đoạn nào! Ngài đời đời, hằng hữu và hằng sống! Ngài là Đấng ‘trao ban sự sống và cứu sống!’. Lời Chúa hôm nay cho thấy Ngài dịu dàng như một người mẹ; kiên định như một người cha. Từ các thuộc tính ấy, thánh Gioan đã đi đến một định nghĩa tuyệt vời, “Thiên Chúa là Tình Yêu!”.

Bài đọc Isaia gợi lên hình ảnh một phụ nữ đang cho con bú. Mối liên kết giữa người mẹ và đứa con thót lọt trong lòng bà biểu trưng mối dây ràng buộc giữa Thiên Chúa và con người. Như một phụ nữ không thể quên đứa con mình đã cưu mang, Thiên Chúa lại càng không thể quên mỗi người chúng ta. Thánh Vịnh đáp ca tuy gọn ghẽ nhưng thật sâu sắc, “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu!”; qua đó, tác giả lột tả tất cả những gì tốt đẹp nhất, trìu mến nhất và còn hơn thế, hơn cả tình yêu của một người mẹ, một người cha có thể có đối với đứa con của mình.

Thiên Chúa không phải là nam, cũng không phải là nữ; Ngài là Tình Yêu! Tình yêu của người cha và người mẹ thuỷ chung kết hợp với nhau trao ban sự sống, cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về tình yêu của Thiên Chúa. Hình ảnh Ngài như một người mẹ nhắc chúng ta đừng hiểu cách Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha trong Tin Mừng hôm nay theo nghĩa đen. Điều Chúa Giêsu muốn nói ở đây thực sự là, Thiên Chúa, Đấng ‘trao ban sự sống và cứu sống!’. Ngài nói, “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy, và ban sự sống cho họ”.

Nếu về mặt con người, cần một người nam và một người nữ để mang lại một sự sống mới; thì về mặt thiên linh, Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa, cũng sẽ ban cho chúng ta sự sống thần linh của Ngài. Ngài đã đến thế gian; nhờ Ngài, qua Ngài và trong Ngài, chúng ta có sự sống của Thiên Chúa và có nó một cách trọn vẹn! Khi nói đến ‘giờ’ của Ngài, Chúa Giêsu dùng hình ảnh một phụ nữ sắp sinh con; ở đây, Ngài muốn nói, chính qua ‘giờ sinh nở’ tử nạn và phục sinh của Ngài, Ngài ban sự sống mới! Ai mở lòng ra, tức là tin vào Ngài, Đấng đã chết và sống lại vì họ, người ấy sẽ nhận được sự sống này, một sự sống từ trên cao, vĩnh cửu; và sau sự chết, họ đi vào cõi đời đời với sự sống ấy. Vì thế, tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu, thuộc mọi thời, nam hay nữ, kết hôn hay độc thân, đều được kêu gọi chia sẻ công việc hiến dâng của Ngài; cùng Ngài ‘trao ban sự sống và cứu sống’ trong thế giới!

Anh Chị em,

“Cho dù người mẹ có quên đứa con mình đã cưu mang, thì Ta, Ta chẳng quên ngươi bao giờ!”. Tìm đâu được một câu nói ngọt ngào và trìu mến đến thế qua ngôn từ nhân loại hay thần minh trên thế gian này? Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành ấy, là Cha chúng ta đó! Cảm nghiệm được tình yêu và hạnh phúc khi được làm con Ngài, không ai được phép sống tầm thường! Họ buộc phải chọn sống một đời sống có ý nghĩa! Vậy, hãy thôi sống lây lất, thôi ‘sống qua ngày đợi qua đời!’; nhưng tuỳ sức mình, bạn và tôi tái tạo tình yêu, tái tạo niềm vui, tái tạo bình an cho người khác. Được như thế, bạn và tôi đang cùng Thiên Chúa ‘trao ban sự sống và cứu sống’ vậy!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trong mọi đấng bậc, xin cho con đừng bao giờ chểnh mảng với bổn phận cao cả của con, cùng Chúa con đang ‘trao ban sự sống và cứu sống’, mở rộng Vương Quốc!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Hãy để đôi mắt được thắp sáng - Chúa Nhật 4 MC A

Người được Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt trong Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay là “người mù từ thuở mới sinh”. Thái độ của anh đối diện với Chúa, với dấu lạ Chúa ban cho anh có nhiều biến đổi:

1. Khởi đầu, khi bị điều tra, anh nói về Chúa quá mơ hồ: “Người có tên là Giêsu trộn một chút bùn và xức vào mắt tôi” (Ga 9, 11). Anh chưa có thể nói thêm bất cứ kinh nghiệm hay cảm nghiệm nào của chính anh về Chúa.

2. Về sau, càng lúc anh càng thấm thía ân huệ mà mình đã nhận được, nhất là khi so sánh thái độ đố kỵ, hung hăng của những người có trách nhiệm khi đối diện với sự thật anh được chữa lành, cõi tâm hồn anh càng lúc càng biến đổi, càng lúc càng nhận ra Chúa. Anh khẳng khái nói về Chúa Giêsu: “Người là một vị ngôn sứ” (Ga 9, 17).

Anh dám phản biện những lời kết án Chúa Giêsu là người tội lỗi: “Ông ấy có phải là người tội lỗi không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được” (Ga 9, 25).

Khi bị tra khảo dồn dập, người từng bị mù còn dám trêu những kẻ đang đe dọa mình: “Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” (Ga 9, 27).

Càng lúc thái độ của anh càng mạnh mẽ. Anh cho thấy đức tin của mình vào Chúa Giêsu thật lớn, thật can đảm. Anh tuyên bố trước mặt những kẻ nắm quyền hành trong thế gian: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 31-33).

Hóa ra trước dấu lạ của Chúa, người mù không chỉ đã được sáng đôi mắt. Anh còn sáng cả tâm hồn, sáng cả một đức tin thật kiên cường.

Còn những kẻ chưa bao giờ mù đôi mắt, những kẻ cứ tưởng mình thật sáng suốt vì nắm giữ truyền thống tôn giáo lại là kẻ đui mù. Nguy hiểm và thật đáng sợ vì đây là sự đui mù về tâm linh, về nhận thức chân lý, về sự sống của đức tin.

1. Hành trình đức tin của người mù được chữa lành là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của từng người. Chúng ta cần trưởng thành mỗi ngày một hơn trong hành trình sống của mình.

Nhất là những lúc đối diện với nguy nan, thử thách, đối diện với những ai tấn công đức tin của mình, chúng ta càng phải mang trong tâm tư một tư thế của người hãnh diện về đức tin, một tư thế của người luôn xác tín: Chỉ một mình đức tin vào Chúa Giêsu mới là tất cả.

2. Cả thái độ ngạo mạn, kiêu căng của những người bị mù tối tâm hồn cũng thành bài học kinh nghiệm cho chúng ta.

Hãy nhìn vào đó để luôn khiêm nhường nhận ra Chúa, thờ lạy Chúa trong bất cứ những điều tốt đẹp nào, nếu nó mang lại giá trị thiêng liêng cho linh hồn.

Hãy loại khỏi trái tim những đố kỵ, thù hằn, ganh tỵ, ganh ghét, để con mắt tâm hồn được sáng mà nhận ra những huyền nhiệm của Thiên Chúa trong cõi đời, và trong từng hoàn cảnh của đời sống.

Hãy sống có tình người để có thể yêu cái đáng yêu của người khác, cảm thông cái khó khăn của người khác, vui mừng với cái tốt mà người khác có được, hạnh phúc trong niềm hạnh phúc của người khác, đau trong cái đau của người khác, khóc hay cười trong tiếng khóc hay nụ cười của người khác…

Dù bất cứ hoàn cảnh nào, hãy để đôi mắt được thắp sáng.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

TIẾC NUỐI THUỞ LANG THANG - Thứ Ba Tuần 4 MC A

“Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra!”.

Samuel Baker kể về một trung đoàn chết khát trên sa mạc. Nhìn xa xa, họ nghĩ, họ thấy nước; nhưng người dẫn đường Ả Rập cảnh báo, đó chỉ là ‘nước của ảo ảnh!’. Họ cãi cọ, người dẫn đường bị giết! Trung đoàn lao về phía trước; dặm này đến dặm khác. Ảo ảnh dẫn đoàn quân lang thang sâu hơn. Quá muộn, họ nhận ra sự thật! Họ đã chết khi theo đuổi một điều viển vông!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay không nói về ‘nước của ảo ảnh’, nhưng về một dòng nước thật, nước làm cho sống! Êzêkiel nói đến dòng nước bên phải đền thờ chảy ra. Tin Mừng nói đến Chúa Giêsu như dòng nước ban sự sống; Ngài chữa lành một người một người bại liệt. Anh này nằm bên hồ những 38 năm! “38 năm”, khoảng thời gian Israel lang thang trong sa mạc. Cũng thế, người này hầu như đã ‘lang thang trong sa mạc’ đời mình; và xem ra, anh ‘tiếc nuối thuở lang thang!’.

‘Lang thang!’, một hành động mang tính biểu tượng rất rõ qua con người này; đúng hơn, sự tê liệt về thể chất của anh ta. Đó chính là hình ảnh hậu quả của tội lỗi trong cuộc sống chúng ta! Khi phạm tội, chúng ta làm cho mình “tê liệt”, chúng ta ‘lang thang trong sa mạc’ của mình. Tội lỗi có những hậu quả nghiêm trọng đối với cuộc sống và hậu quả rõ ràng nhất là chúng ta không thể đứng dậy và bước đi đúng hướng. Đặc biệt, tội trọng, nó khiến chúng ta bất lực trong việc yêu thương và sống trong tự do đích thực. Nó khiến chúng ta mắc kẹt và không thể quan tâm đến đời sống tinh thần của chính mình hoặc cuộc sống người khác theo bất kỳ cách nào.

Chúa Giêsu đã tự nguyện đến với người đàn ông này; Ngài bước vào sự cô lập của anh dù không được mời! Ngài nhìn thấy anh, biết hoàn cảnh của anh, đến gặp và trực tiếp nói với anh. Thoạt tiên, Ngài hỏi, “Anh có muốn khỏi bệnh không?”. Anh không trả lời, “Có” hay “Không” nhưng anh phàn nàn, “Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động”. Ôi! Anh mắc bệnh bi quan; anh phát ốm vì buồn; anh mắc bệnh lười! Đây là căn bệnh của anh, “Đúng, tôi muốn lành, nhưng...”, và anh đợi ở đó. Thế mà mấu chốt là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu; dẫu xem ra, anh không cần chữa lành. Phải chăng anh vẫn ‘tiếc nuối thuở lang thang?’.

Thật tuyệt vời! Chúa Giêsu đã chữa lành con người bi quan tuyệt vọng này mà không cần dìm anh xuống hồ Bêthesda. Bêthesda có nghĩa là “Ngôi nhà của lòng thương xót”, hoặc “Ngôi nhà của ân sủng” theo tiếng Do Thái. Đúng thế, người đàn ông này đang cần lòng thương xót và ân sủng cả khi anh không ý thức. Và Chúa Giêsu không phải là ‘nước của ảo ảnh’ nhưng là nguồn mạch ân sủng và xót thương đã phục hồi anh! Thánh Augustinô nói, “Vết thương của chúng ta rất nghiêm trọng, nhưng vị Thầy Thuốc thì toàn năng. Tôi sẽ tuyệt vọng về vết thương chí mạng của tôi, nếu tôi không tìm thấy một Thầy Thuốc vĩ đại như Ngài!”.

Anh Chị em,

“Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra!”. Giêsu, không phải là ‘nước của ảo ảnh’, Ngài là đài phun chữa lành; nước làm cho sống! Giêsu là đền thờ mới mà Êzêkiel đã nhìn thấy trước dòng suối tuyệt vời tuôn ra từ phía bên phải của nó. Nơi nào nước này chảy qua, đều được an lành và sự sống. Đỉnh của đền thờ là Canvê, nơi nước ngọt ngào của phép Rửa chảy ra từ cạnh sườn Đấng Kitô. Và ngày nay, nước cứu độ ấy vẫn tiếp tục chảy, nuôi sống, rửa sạch mọi thương tích trong tâm hồn chúng ta. Nước Giêsu đem lại hạnh phúc viên mãn ngay trong sa mạc trần gian khô khốc này, Ngài đang nói với bạn và tôi, thôi đừng ‘tiếc nuối thuở lang thang!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con bất lực, ù lì; con ‘tiếc nuối thuở lang thang’, con chạy theo ‘nước của ảo ảnh’ trong sa mạc đời mình. Xin giải thoát con, dìm con vào Chúa mà đừng thèm hỏi con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

KHỞI ĐI TỪ VỰC THẲM BẤT XỨNG - Thứ Bảy Tuần 3 MC A

“Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ có tội!”.

Simpson viết, “Cầu nguyện là sợi dây liên kết con người với Thiên Chúa, là cây cầu bắc qua mọi vùng vịnh, giúp bạn vượt mọi thung lũng hiểm nguy! Chúa không cần những con người vĩ đại, Ngài cần những con người dám chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài. Vì thế, lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của một linh hồn dám chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của một linh hồn!”. Đúng thế, lời cầu của người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay, “Lạy Chúa, xin xót thương con, vì con là kẻ có tội!” là một trong những lời cầu đó; nó cũng là cao điểm của dụ ngôn Tin Mừng này.

Thật trùng hợp, qua bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Hôsê cho biết, Thiên Chúa thấu suốt lòng dạ con người; Ngài chỉ muốn một điều, tình yêu, “Ta muốn tình yêu, chớ không cần lễ tế. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu”. Thánh Vịnh đáp ca cũng chỉ lặp lại ngần ấy!

Khác với điều Thiên Chúa muốn, người biệt phái trong dụ ngôn đã làm điều ngược lại; ông quá nặng về ‘lễ tế’. Ông nghĩ, ông đã đến đúng nơi, quy về đúng hướng, và đang làm điều đúng đắn! Thế nhưng, lời cầu của ông đã bị bóp méo, bởi ông chỉ độc thoại, mà không đối thoại. Ông kể công với Chúa; tệ hơn, coi Ngài như ‘Con Nợ’ của mình; tệ hơn nữa, ông lấy ‘kỳ tích’ của bản thân để so sánh và khinh dể kẻ khác. Thực ra, đó không phải là cầu nguyện; đó là diễn văn! Dẫu ông không phải là người xấu; ông không phạm tội trọng, ông thuỷ chung và rộng lượng… nhưng chỉ có một điều, lòng kiêu hãnh của ông đã khiến ông mù loà đến độ xúc phạm Thiên Chúa, xúc phạm tha nhân. Ông sống tôn giáo của mình một cách tối thiểu để không phạm tội; ông không biết rằng, Thiên Chúa không bao giờ thoả mãn ‘mức tối thiểu trần!’. Lời cầu nguyện ông là ‘vô trùng’, khi ông quên rằng, Chúa chỉ “muốn tình yêu, chứ không cần lễ tế!”.

Đang khi nhân vật thứ hai của dụ ngôn cũng lên đền thờ, một người thu thuế! ‘Vai phụ’ này “khi ra về thì được khỏi tội”, Chúa Giêsu đã tiết lộ! Người này “khỏi tội” không phải vì đã làm những điều đúng đắn, nhưng vì đã khiêm hạ nhận ra rằng, mình đã làm những điều sai trái! Lời cầu của ông ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ trước một Đấng Vĩ Đại Toàn Thánh. Và có lẽ, ông đã nghe những gì người biệt phái tố cáo, và điều này càng làm ông tê tái hơn; từ đó, ông chìm vào đáy vực linh hồn khốn khổ của mình, và bòn chút tàn hơi, ông đấm ngực van vỉ, “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ có tội!”. Lạ thay, điều này đẹp lòng Thiên Chúa, và Ngài thích thú với nó!

Anh Chị em,

“Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ có tội!”; “Chúa không cần những con người vĩ đại, Ngài cần những con người dám chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài!”. Nhìn nhận mình tội lỗi là chứng tỏ sự vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng cần tình yêu, lòng thống hối và quyết tâm chừa lỗi! Đừng quên, “Lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của linh hồn!”. Đến gần Chúa, chúng ta nhận biết sự vĩ đại và tốt lành của Ngài; đồng thời, nhận ra tội lỗi yếu hèn của bản thân. Đây là điều làm cho lời cầu của chúng ta có kết quả; vì chỉ những ai tự nhận mình không có gì mới có thể nhận được tất cả; chỉ những ai trống rỗng mới có thể được lấp đầy. Mùa Chay, mùa bạn và tôi nhìn lên thập giá Chúa Kitô; đồng thời, nhìn xuống lòng mình, ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của linh hồn, và chân thành thưa lên, “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ có tội!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Chúa biết con hơn cả con biết con! Mỗi khi con cầu nguyện, cho con không ‘khởi đi từ cái tôi dị hợm’ của con, nhưng ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của linh hồn mình!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

Subcategories