3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

HÃY CANH CHỪNG, HÃY THỨC TỈNH

Chúa Nhật I Mùa Vọng B

Vào thời Chúa Giêsu, không phải là không có ai chờ đợi Đấng Thiên Sai – một vị cứu tinh, mà vấn nạn đặt ra cho dân Do thái là Chúa Giêsu hóa ra chính là Đấng Mêsia mà họ đang mong chờ, nhưng Ngài lại không giống như những gì dân chúng tưởng nghĩ. Do đó, không những họ không nhận ra Con Người ngay trước mặt họ là Đấng Mêsia; mà họ còn chống đối, lên án và giết chết Ngài.

Tương tự như vậy – những cách nghĩ của chúng ta thời nay về Thiên Chúa có thể là trở ngại của chính chúng ta trong việc nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa. Chúng ta có thể bị mù quáng bởi những quan niệm sai lầm và thành kiến ​​của chính mình về Thiên Chúa và Chúa Giêsu. Khi xưa người ta không nhận ra Chúa Giêsu và bây giờ chúng ta cũng không nhận ra Ngài. Đúng như Thánh Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1:26).

Vì vậy, lời khuyên cho Chúa nhật đầu tiên trong năm phụng vụ mới của Giáo hội là: “Anh em phải coi chừng, phải thức tỉnh” (Mc 13: 33).

Việc Đấng Thiên Sai đến được nói đến trong Cựu Ước như một sự kiện vĩ đại, gây chấn động, như trong bài đọc thứ nhất: “Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan, như lửa đốt củi khô, như lửa làm cho nước sôi sùng sục! Ngài sẽ khiến cho thù địch Ngài nhận biết Thánh Danh, chư dân sẽ run rẩy trước nhan Ngài, khi thấy Ngài làm những điều kinh hồn táng đởm mà chúng con không ngờ” (Is 63: 19, 64: 1-2).

Nhưng hôm nay chúng ta lại có một hình ảnh khác về việc “chủ nhà đến”. Chúa Giêsu nói “không biết khi nào thời ấy đến… không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng… ông chủ đến bất thần” (Mc 13: 33, 35-36). Thiên Chúa, qua con người Chúa Giêsu, đã đến với dân Do thái một cách bất ngờ, đầy ngạc nhiên mà không ai đã có thể nghĩ tưởng tới trước đó: Thiên Chúa đã nhập thể, trở thành một người trong chúng ta bằng xương bằng thịt, là “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Đó là điều chúng ta ngày nay mong chờ đặc biệt trong mùa Vọng này, và cả cuộc đời mình.

Thử thách đối với chúng ta là phải tỉnh táo và thức tỉnh về mặt tâm linh để nhận ra Ngài, đó là ý nghĩa thực sự của Mùa Vọng. Nhưng thật không may, đối với không ít người Kitô hữu, Mùa Vọng chỉ là khoảng thời gian bốn tuần phụng vụ trong nhà thờ, chuẩn bị trang trí những dây đèn nhấp nháy, hang đá, ngôi sao, các món quà Giáng sinh. Tất cả những chuyện bên ngoài như thế, thay vì giúp cõi lòng bên trong sốt sắng để “thức tỉnh” về mục đích của đời mình, mong chờ ngày “Con Người quang lâm”, thì lại khiến tâm linh chúng ta “ngủ mê” như bài đọc thứ nhất mô tả: “lạc xa đường lối Thiên Chúa…làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài…Không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài” (Is 63: 17, 64: 6). 

Vì vậy – Chúng ta “phải coi chừng, phải thức tỉnh” (Mc 13: 33). Nỗi lo lắng thực sự của chúng ta không gì khác hơn là thức tỉnh, là tự hỏi liệu tôi có đang sống – và chết – trong cơn ngủ quên, trong cái cảm giác mơ hồ mất phương hướng và lạc lối của một kiếp sống vô thường không biết đi về đâu, mà kết cục chỉ là tiêu vong, hư không, vô lý, không còn biết sự hiện hữu của mình hướng vọng về điều gì chắc chắn, qui hướng về Ai vững bền.

Cha Anthony DeMello, một linh mục Dòng Tên nói: “Sống đạo có nghĩa là thức tỉnh. Hầu hết mọi người đều đang ngủ, mặc dù họ không nhận ra điều đó. Họ sinh ra trong ngủ mê, họ sống trong ngủ mê, họ kết hôn trong ngủ mê, họ sinh con trong ngủ mê, họ chết trong ngủ mê mà không hề thức tỉnh. Họ không bao giờ hiểu được sự đáng yêu và vẻ đẹp của điều mà chúng ta gọi là sự hiện hữu của con người” (Awareness – Tỉnh thức). Họ không bao giờ hiểu được làm thế nào để sống cách trọn vẹn, bởi vì họ bị tiêu hao quá nhiều vào vô vàn chuyện trần tục, những áp lực bận rộn của cuộc sống, đến mức cuộc sống của họ không thể coi là sống thực sự. Họ sống theo những gì xảy ra chung quanh họ hoặc những gì họ gây ra cho cuộc sống của mình. Họ sống và chết trong mê lầm như tiên tri Isaia thú nhận: “Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi” (Is 64: 5-6).

Cha Anthony De Mello kể:

  • Một đệ tử là người Do Thái hỏi: “Con phải làm việc lành nào để được Thượng Đế chấp nhận?” Minh Sư trả lời: “Làm sao thầy biết được. Thánh Kinh nói rằng tổ phụ Abraham thực thi lòng hiếu khách và Thiên Chúa ở với ông. Tiên tri Elia say mê việc cầu nguyện và Thiên Chúa ở với ông. Vua David chăm lo việc trị nước và Thiên Chúa cũng ở với ông nữa.”

“Có cách gì con có thể tìm ra việc mà Thượng Đế đã phân định cho riêng con không.”

“Có chứ. Hãy tìm kiếm trong nội tâm con khuynh hướng sâu thẳm nhất, rồi nương theo đó mà hành động.” 

Nhưng nhiều người lao vào hành động, rồi rốt cuộc chỉ để làm mọi việc tồi tệ hơn. Hành động của họ phát xuất từ những cảm xúc tiêu cực ẩn kín trong thâm tâm, từ một mặc cảm tội lỗi, giận dữ, căm ghét; từ một cảm xúc bất công hay bất cứ điều gì giống như thế. Hành động của những người vô minh này chỉ thay thế sự bất công này bằng sự bất công khác, sự giận dữ, căm ghét này bằng sự giận dữ, căm ghét khác. Và cứ như thế, tồi tệ hơn, vì chúng không đến từ lòng yêu thương chữa lành. 

Không phải là hành động của bạn mà là bản chất của bạn mới có giá trị. Thật không may, chúng ta rất ít quan tâm đến việc thức tỉnh này. Cảnh giác, thức tỉnh theo nghĩa Kinh thánh không phải là sống trong lo sợ về mọi thứ hiểm nguy có thể xẩy đến, rồi lao vào đủ mọi thứ để cố quên đi nỗi khắc khoải về sự phi lý của kiếp người, như Albert Camus, một nhà văn triết gia người Pháp, nhận thấy: “Một người muốn kiếm tiền để được hạnh phúc, và toàn bộ nỗ lực của cuộc đời người ấy đều được cống hiến cho việc kiếm được số tiền đó. Hạnh phúc bị lãng quên; phương tiện thay thế cho mục đích cuối cùng” (Albert Camus, Huyền thoại về Sisyphus và các tiểu luận khác). Cũng trong tác phẩm này, Camus thấy con người mình “sẽ mãi mãi không thể xác định được. Giữa sự chắc chắn mà tôi có về sự hiện hữu của mình và ý nghĩa mà tôi cố gắng gán cho sự hiện hữu chắc chắn đó, khoảng cách sẽ không bao giờ được lấp đầy. Mãi mãi tôi vẫn là người xa lạ với chính mình.” 

“Thức tỉnh” là “phản tỉnh”, thoát ra khỏi tình trạng “vong thân”, để trở nên đích thực là mình: nhận ra mình là ai, không còn thấy mình xa lạ với chính mình, nhận thức con đường mình đang đi, đón nhận ánh sáng để biết đâu là chân lý phải theo. Thức tỉnh là “đánh thức” mình dậy khỏi cơn mê ngủ “vô minh”. Đó là thái độ khôn ngoan người tín hữu phải có khi sống ở trần gian. 

Meister Eckhart, linh mục và nhà thần bí người Đức, nói: “Mọi người không nên lo lắng quá nhiều về những gì họ làm mà thay vào đó là về những gì họ là. Nếu họ và cách sống của họ tốt lành thì việc làm của họ sẽ rạng ngời. Nếu bạn là người công chính thì việc làm của bạn cũng sẽ công chính. Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thánh thiện dựa trên những gì chúng ta làm mà đúng hơn là dựa trên con người chúng ta, vì không phải việc làm của chúng ta thánh hóa chúng ta mà là chính chúng ta thánh hóa việc làm của mình. Dù các việc làm của chúng ta có thánh thiện đến đâu, chúng cũng không làm cho chúng ta nên thánh vì chúng chỉ là các việc làm, nhưng chính chúng ta, càng thánh thiện và trở nên chính mình cách trọn vẹn, thì chúng ta thánh hóa mọi việc làm của chúng ta, cho dù đó là những việc như  ăn, ngủ, thức, hay bất cứ điều gì” (Selected Writings).

Ngay cả việc tôi mang thức ăn cho người đói, mang nước cho người khát, hay thăm kẻ tù rạc liệu có ích gì nếu tôi làm những việc đó chỉ để phô trương “cái tôi quy kỷ – egocentric.” Khi đó, người đói khát và tù rạc chỉ là một phương tiện cho mục đích quảng cáo thương hiệu “vị kỷ” của tôi; tôi vẫn chưa thức tỉnh, vẫn vô minh, vẫn ảo tưởng về giá trị của việc “bác ái” của mình, mà lẽ ra các việc đó phải là cách giúp tôi “từ bỏ chính mình, xóa mình – self-denial” để trở nên sẵn sàng chấp nhận mất mát, thiệt thòi vì yêu thương hết lòng, như Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15: 13). Thay vì “dốc đổ chính mình – self-emptiness” tôi lại âm thầm tìm cách “làm đầy chính mình – self-fulfilment” bằng tiền bạc, của cải vật chất, tiếng tăm, thú vui, theo chuẩn mực của “cõi người tham sân si”. Liệu lòng dạ tôi đã có thể buông bỏ “cái tôi quy ngã” để trở nên chỉ còn là yêu thương chưa? Chúa Giêsu không ngừng lên tiếng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15: 12). Ngài chỉ ra con người thật của chúng ta: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17: 10).

Thánh Phaolô tha thiết nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13: 3).

Thức tỉnh như thế quả là một thách đố quá khó khăn nếu chỉ nhắm vào sức riêng của chúng ta. Yêu như Chúa yêu không phải là kết quả của năng lực riêng của chúng ta. Tình yêu ấy phải được kín múc từ nguồn yêu thương không hề cạn là Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu trao phó cho chúng ta sứ mệnh yêu thương như Ngài, thì chính Ngài làm trổ sinh trong chúng ta những hoa trái của một tình yêu như thế: “Chính Thầy đã tuyển chọn và cắt đặt anh em để anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15: 16). Chúng ta có thể loan báo tình yêu tột cùng này và làm chứng về tình yêu ấy bằng chính đời sống của ta chỉ khi ta thức tỉnh về giới hạn của mình, tin tưởng trở về với Đấng duy nhất có thể khơi nguồn tình yêu ấy trong ta. “Tất cả những gì các con xin Chúa Cha nhân danh Thầy, người sẽ ban cho các con” (Ga 16: 23).

Như vậy, để có thể “thức tỉnh”, con người cần “lắng nghe và làm theo” lời Chúa dạy: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14: 6) và kết quả của việc bước theo Chúa Giêsu là: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12: 46). Đó là lời hứa của Chúa Giêsu: “Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12) một sự sống dồi dào: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).

Thức tỉnh là lấy lòng yêu thương và sự hòa hợp làm lẽ sống của chúng ta. Đó là luôn có tâm tình biết ơn, trân quý mọi khoảnh khắc cuộc đời, tha thứ, xin lỗi và vui mừng được sống trong vòng tay chắc chắn của Thiên Chúa mỗi ngày, trong cộng đồng nhân loại  – là liên tục sống mỗi ngày trong ân sủng của Chúa Kitô, để Ngài đi vào cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Điều chúng ta nên tự vấn là: tôi muốn sống và chết trong trạng thái tâm linh nào. Tôi có thức tỉnh luôn mãi không? Nghĩa là tôi luôn có ánh sáng, sự thật và sự sống của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu, trong con người mình không? Hay tôi đang trở nên lười biếng trong đời sống đức tin và có thể rơi vào tình cảnh ngủ mê “ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (Mc 13; 36).

Để đạt tới Sự Tỉnh Thức trọn vẹn, chúng ta cần khiêm hạ nài xin ơn trợ giúp của Thiên Chúa như Thánh Phaolô đề cập trong bài đọc thứ hai: “Anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Ngài. Chính Ngài sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Chúa Giêsu Kitô” (1 Cr 7-8).

 

Phêrô Phạm Văn Trung

TỬ HUYỆT

Chúa nhật I mùa vọng B

“Điều Thầy nói với anh em, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải tỉnh thức!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Mùa Vọng, thời gian của hy vọng; trong đó, ký ức về ‘lần đến’ đầu tiên khiêm nhường và ẩn giấu của Con Thiên Chúa được làm mới lại trong tâm hồn chúng ta. Và trong chính mình, mỗi người làm mới lại nỗi khát khao sự trở lại vinh quang của Chúa. Quan trọng hơn, Mùa Vọng còn là mùa sám hối, mùa nhận ra điểm yếu, ‘tử huyệt’ của mình để mỗi người trở về với Chúa, sẵn sàng nghinh đón Ngài trong giờ Ngài đến!

Mùa Vọng còn là thời gian để nhìn thế giới như nó vốn là, để thừa nhận những thứ hỗn độn đang diễn ra, để nhận ra những thất bại của mình do sự thờ ơ bản thân gây ra. Bài đọc thứ nhất là một lời cầu nguyện tuyệt vời của Mùa Vọng. Đại diện cho dân, Isaia thưa lên, “Lạy Chúa, tại sao Ngài để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ? Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống!”. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Lạy Thiên Chúa, xin phục hồi chúng con!”. Mùa Vọng còn là mùa tạ ơn vì hồng ân được làm con cái Chúa. Phaolô trong thư Côrintô hôm nay viết, “Trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện… khiến anh em không thiếu một ân huệ nào!”.

Có lẽ chúng ta đã quá mất tập trung, quá đắm chìm trong những mời mọc của thế gian; đắm chìm trong những cuộc trò chuyện liên miên trên điện thoại. Mùa Vọng là món quà giúp chúng ta dành thời gian để thấy rõ, chúng ta cần một Vị Cứu Tinh, lắng nghe tiếng Ngài thầm thì trong tâm hồn mình. Mùa Vọng, mùa bạn và tôi được mời sống chậm lại để biết rằng, tôi cần ‘Chúa đến’, chỉ cho tôi ‘tử huyệt’, đưa tôi trở lại con đường đúng đắn để cùng anh em, tôi sống trên hành tinh này như ý Ngài định.

Lời Chúa hôm nay được đánh dấu sâu sắc bởi lời kêu gọi tỉnh thức đến ba lần. Với lần thứ ba, Chúa Giêsu lên tiếng một cách trang trọng, “Điều Thầy nói với anh em, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải tỉnh thức!”. Nhưng tôi đâu có mê ngủ, tôi phải tỉnh thức điều gì?

Thần thoại Hy Lạp nổi tiếng với Achilles, con của Peleus, vua Hy Lạp và thuỷ thần Thetis. Khi vừa hạ sinh Achilles, Thetis được tiên tri rằng, con bà sẽ tử trận. Vì thế, bà đem con nhúng xuống dòng sông bất tử Styx; vua cha tưởng bà hại con nên tức giận tuốt kiếm xông ra. Bà mẹ không giải thích mà bỏ về thủy cung khi chưa kịp nhúng hai gót chân con trai xuống nước. Kể từ đó, Achilles mình đồng da sắt, sức mạnh thần thánh vô địch; nhưng về sau, phải chết vì một mũi tên bắn trúng gót chân, ‘tử huyệt!’.

Anh Chị em,

Mùa Vọng, mùa tự hỏi, “Gót chân Achilles, ‘tử huyệt’, của tôi là gì?”. Điểm yếu nhất của tôi là gì? Ngoại tình? Trộm cắp? Dối gian? Phá vỡ hiệp nhất? Đây không chỉ là những câu hỏi đưa đến một lời khuyên khổ hạnh, nhưng là một lời mời gọi sống như trẻ thơ, sống trong ánh sáng ban ngày. Tôi có sẵn lòng để Chúa, người Thợ Gốm; và tôi, đất sét trong tay Ngài? Tôi có sẵn sàng để Chúa định hình đời tôi? Chúng ta tin Chúa, nhưng có tin cậy Chúa đủ, hầu cho phép Ngài uốn nắn và uốn nắn theo những hướng khác với ý muốn của bản thân? Hãy lùi lại khỏi ghế điều khiển và để Chúa cầm lái! Như thế, Mùa Vọng, còn là mùa mở lòng ra để được biến đổi bởi ân sủng.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin hãy ‘nhúng’ linh hồn con, trí tri con, toàn thân con trong nước ân sủng Chúa! Xin tha thứ cho con, để Mùa Vọng này còn là mùa con được đổi mới!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)   

CHÚA NHẬT 26/11/23 – TUẦN 34 TN  

  Mt 25,31-46

Chúa Ki-tô, Vua Vũ trụ

VUA HOÀ BÌNH

Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người.” (Mt 25,31)

Suy niệm: “Sự nổi loạn của các cá nhân và quốc gia chống lại quyền bính của Đức Ki-tô đã tạo ra những hậu quả đáng trách… những thù hận cay đắng và sự kình địch giữa các quốc gia, vẫn luôn gây nhiều cản trở đến sự nghiệp hòa bình” (Thông điệp Quas Primas, 24). Mừng lễ Chúa Ki-tô Vua hôm nay, trong bối cảnh đau thương của chiến tranh, thế lực sự dữ tung hoành khắp nơi, chúng ta được mời gọi giữ vững niềm trông cậy, vì chỉ duy có Chúa Giê-su là Vua vũ trụ. Ngài không thiết lập Vương quốc bằng vũ khí, bạo lực, nhưng bằng cái chết tự hiến trên thập giá; không cai trị bằng vũ lực, nhưng bằng tình yêu thương, phục vụ; cũng chẳng có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nơi trái tim con người. Chính Người mới có thể giúp cho con người tìm ra ý nghĩa, lẽ sống của đời mình, đem lại bình an, tự do, hạnh phúc, giúp ta hoàn tất hành trình dương thế đạt đến Vương quốc vĩnh cửu. Hãy để cho Đức Giê-su luôn có chỗ đứng quan trọng nhất trong đời mình.

Mời Bạn: Con người thời nay, nhất là giới trẻ, hay đi tìm một thần tượng nào đó để học đòi, bắt chước. Bạn đang chọn ai làm khuôn mẫu cho cuộc đời mình. Phải chăng đó chính là Thầy Giê-su? Được vậy thì hay biết mấy.

Sống Lời Chúa: Tâm niệm mọi chia rẽ, hận thù, ghen ghét… là những điều không thuộc về Nước Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa luôn muốn nhân loại được bình an. Xin cho chúng con yêu Chúa trên hết mọi sự, mến anh chị em như chính mình, để chúng con góp phần xây dựng Nước Chúa ngay giữa thế trần này. Amen.

 

CHÚA NHẬT 03/12/23 – TUẦN 1 MV – B

Mc 13,33-37

CANH THỨC

“Người giữ cửa phải canh thức.” (Mc 13,34)

Suy niệm: Truyện cổ Hy Lạp có kể chuyện người Hy Lạp, để chiếm thành Troa, dùng kế dâng cho vua thành ấy một con ngựa gỗ khổng lồ. Nào ngờ trong bụng con ngựa gỗ ấy chứa đầy quân lính. Nửa đêm toán lính chui ra, mở cửa thành cho đại quân tiến vào chiếm thành. Ngày nay người ta dùng điển tích ấy – gọi là “trojan” – để đặt tên một thứ vi-rút nguỵ trang có vẻ vô hại, nhưng một khi đột nhập vào hệ thống máy tính rồi, nó sẽ phá hoại dữ liệu, đánh cắp thông tin máy chủ, tác hại khôn lường. Chúa Giê-su dùng hình ảnh “người giữ cửa phải canh thức” có ý nhắc ta phải sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ lúc nào, và cũng để đề phòng kẻ trộm nhằm lúc bất ngờ nhất đào ngạch khoét vách, lẻn vào căn nhà tâm hồn tác hại từ bên trong.

Mời Bạn: Thực trạng xã hội cho thấy người ta đã mở ‘cổng sau; cho những “trojan” đột nhập và ngấm ngầm tác hại lên nếp sống của cá nhân, cộng đoàn. Các công ty dám xả nước thải ra sông ra biển mà không áy náy vì đã từ lâu, người ta vẫn ‘vô tư’ quét rác rưởi ra đường phố hay xuống cống rãnh. Báo chí dám đưa thông tin dối trá, nhà trường dám gian lận bài thi, giả bằng cấp, vì đã từ lâu người ta cầu an hưởng thụ, không dám chấp nhận thách đố để sống chân thật, công bằng. Lương tâm là người giữ cửa tâm hồn bạn phải canh thức, để không lẫn lộn coi điều xấu thành điều tốt. Để người giữ cửa tâm hồn của bạn tỉnh thức cần có một nếp sống tiết độ và chuyên cần cầu nguyện.

Sống Lời Chúa: Lấy “Trung thực và Công bằng” làm châm ngôn sống.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho Danh Chúa vinh hiển, cho Nước Chúa trị đến.

 

CHÚA NHẬT 19/11/23 – TUẦN 33 TN – A   

  Lc 9,23-26

Kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam

TƯỞNG MẤT ĐI NHƯNG LẠI ĐƯỢC

“Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9,24)

Suy niệm: Những lời Chúa trên đây vẫn vang vọng và hiện thực qua bao thế hệ cho đến hôm nay. Đã có bao nhiêu người sẵn sàng đánh đổi mạng sống để thực thi lời ấy? Ngày ấy ai đã dám bước lên pháp trường trong ánh mắt và linh hồn hướng về trời; ngày ấy ai đã dám ‘bất khẳng quá khoá’ (không chịu chối đạo bằng cách bước qua thập giá), để rồi phải chịu chết rũ tù, chịu phanh thây, trảm quyết, bá đao và biết bao khổ hình khủng khiếp khác? Đó là hàng trăm ngàn tín hữu đã chấp nhận vong thân để làm chứng cho niềm tin bất khuất, mà trong số đó, 118 vị được nêu danh và tuyên hiển thánh và chân phước. Lời Chúa trên đây đã thành hiện thực: “Ai dám liều mất mạng sống mình vì Chúa thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”

Mời Bạn: Chúng ta không chết vì đạo như các vị thuở xưa nhưng có thể chết vì đạo từng giây phút trong cuộc sống hằng ngày, khi chúng ta hy sinh, đón nhận những điều trái ý, những bất công, khinh miệt, thù ghét chỉ vì chúng ta dám trung thành sống theo Lời Chúa truyền dạy. Bạn đã có kinh nghiệm tử vì đạo trong những tình huống tương tự như vậy chưa?

Sống Lời Chúa: Bạn chọn một điều trong Tám Mối Phúc Thật để trung thành thực hiện trong cuộc sống.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, lời Chúa là sức mạnh để các thánh tử đạo trung kiên trong niềm tin vào Chúa. Xin cho chúng con cũng biết lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc sống để chúng con luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, dù gặp bất cứ khó khăn, thiệt thòi nào. Amen.

 

Subcategories