8. Đời Sống Tâm Linh

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - ĐỪNG SƠ HÃI

ĐỪNG SỢ HÃI

CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN NĂM B: MC 4,35-41

Khi ấy, lúc chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bên bờ bên kia đi!”. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.

Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đằng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?”. Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”. Các ông sợ hãi kinh hoàng và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

 

ĐỪNG SỢ HÃI

Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tàu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành khách trên tàu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm tới nỗi lắng của vợ con cùng các hành khách.

Ông im lặng ra khỏi phòng một lát rồi trở lại, nghiêm nét mặt rút kiếm ra dí vào cổ vợ. Bà vợ tái mặt, nhưng rồi phá lên cười. Viên sĩ quan hỏi: “Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không sợ sao?” – “Việc gì em phải sợ? Em biết anh vẫn thương em mà!” –  “Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi biết Thiên Chúa luôn yêu chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa!”.

Đó là bài học mà Đức Giê-su cũng muốn dạy cho các môn đệ và chúng ta trong phép lạ dẹp yên cơn bão hôm nay. Trong trình thuật Mc, sau loạt các dụ ngôn là một loạt bốn phép lạ mà “dẹp yên cơn bão” là phép lạ đầu. Bốn phép lạ này có nét đặc trưng là đã không được thực hiện trước mặt dân chúng, nhưng chỉ “trước mặt các môn đồ”: thành thử chúng là những “dụ ngôn bằng hành vi”, cần được giải thích vừa trên bình diện biểu tượng vừa trên bình diện thực tế. Vậy ta hãy nghe giáo huấn chất chứa trong sự kiện. Lối đọc thần học một biến cố không làm mất đi lịch sử tính của nó, mà còn mang lại cho nó tất cả chiều sâu.

  1. Dẫu Thiên Chúa đang ngủ

Trên bình diện thực tại lịch sử, ta hãy tưởng tượng một buổi chiều mùa hè đẹp, Đức Giê-su mượn chiếc thuyền của Si-môn Phê-rô và chầm chậm rời xa bờ hồ Ti-bê-ri-át. Sau cái nắng như thiêu ban ngày, là sự mát mẻ buổi chiều hôm. Sau cảnh hỗn độn mệt nhoài với đám đông, là giây phút thân tình với nhóm bạn hữu giữa biển. Chính Đức Giê-su đã có sáng kiến về những khoảnh khắc yên tĩnh này: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”. Gió thuận. Cánh buồm no gió nhẹ rung. Người ta chỉ nghe được tiếng ùng ục yếu ớt của nước đang chẻ mũi thuyền và vài tiếng kêu của chim mòng biển. Mệt mỏi vì cả ngày giảng dạy, Đức Giê-su ngủ say “như chết”, đầu kê trên chiếc gối đằng đuôi. Phê-rô cầm tay lái gần bên Người,

Nhưng thật đáng tiếc nếu dừng lại ở kiểu đọc thứ nhất này. Khi biết rằng mỗi từ mỗi câu trong các trình thuật Tin Mừng ấy đều đã được giải thích trong giáo lý thời nguyên thủy, thì ta cũng cần cố gắng đọc chúng theo lối biểu tượng, y như các Giáo phụ đầu tiên.

Cụm từ “Ngày hôm ấy” đâu phải là một kiểu nói vô thưởng vô phạt để bảo rằng “ngày (giảng dạy bằng) dụ ngôn” đã kết thúc. Ngoài ra, đối với Mc, việc sự kiện này tiếp nối sự kiện kia là một kết cấu thần học hơn là một phóng sự. “Ngày hôm ấy” sẽ chẳng phải là một ngày bình thường. Phê-rô sẽ nhớ nó mãi suốt đời ông. Vì đó là “Ngày Giavê” thời danh mà Cựu Ước thường nhắc tới, ngày quyền lực Thiên Chúa can thiệp mạnh mẽ, ngày được báo trước bằng những thảm họa thời cánh chung (Ge 2 và 3). “Lúc chiều đến”. Đây không chỉ là buổi chiều êm dịu đang xuống dần, nhưng cũng là “giờ tăm tối”, giờ của thử thách (x. Mc 14,17; Ga 9,4; 13,30). “Bờ bên kia” không những chỉ bờ hồ đối diện, nhưng cũng chỉ việc đi qua thế giới bên kia, vốn là số phận mỗi người lúc xế chiều cuộc sống, và là ngày trọng đại của mình, “ngày gặp gỡ Thiên Chúa” mà mọi ngày khác đều chỉ là chuẩn bị.

 “Bỗng nổi lên một trận cuồng phong…” Cơn bão có thật. Ngày nay cũng thế, hồ Ti-bê-ri-át vẫn nổi tiếng với những cơn gió bất ngờ và dữ dội, thổi xuống từng loạt từ cao nguyên Golan. Hơn bất cứ ai khác, do nghề nghiệp của mình, Phê-rô biết rõ chúng, các trận đổi gió đột ngột khiến buồm kêu đôm đốp và thuyền bè chao đảo.

Nhưng đâu cần ra biển mới chịu các “cơn bão”. Mọi ngôn ngữ trên thế giới đều sử dụng từ này để nói lên “thử thách bất ngờ ập xuống một con người”. Và trong Kinh Thánh, chủ đề cơn bão thường là biểu tượng của các tà lực. Cuộc sáng tạo được quan niệm như chiến thắng của Thiên Chúa trên “hỗn mang” của biển cuồng nộ (x. St 1,2). Theo thần thoại xưa của dân Sê-mít, biển là “đại vực thẳm”, nơi ngự trị của thuồng luồng, thủy quái, Lê-vi-a-than, biểu tượng của ma quỷ (x. Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12 và 13).

Nhưng cuồng phong thì mặc cuồng phong, “Đức Giê-su vẫn ngủ”, mắt nhắm nghiền, hơi thở đều đặn. Chi tiết này gợi hứng cho ta lời cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Ngài có ý gì thế? Ngài thật khó hiểu! Trong Thánh Kinh, từ “giấc ngủ” thường được dùng để nói đến “cái chết” (x. Tv 13,4; Đn 12,2; Ep 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Và cũng hình ảnh ấy được dùng để diễn tả sự “dửng dưng” của Thiên Chúa, sự “vắng mặt” của Người: “Lạy Chúa, xin chỗi dậy, sao Ngài ngủ mãi? Thức dậy đi nào!” (Tv 44,24; 35,23; 59,6; 78,65; Is 51,9-10). Vâng, trong các cơn bão nhân loại của chúng ta, đúng là Thiên Chúa xem ra ngủ kỹ. Đâu phải chỉ con người hiện đại mới phát minh chủ đề “Thiên Chúa đã chết”! Đây là cảm thức của thân phận con người, vốn thấy mình bất lực, bị đe dọa, trước một Thiên Chúa không can thiệp trên mức độ các “nguyên nhân tự nhiên” mà để cho các mãnh lực tử thần hành động, một Thiên Chúa xem ra ngủ khì.

  1. Người cũng đã chỗi dậy

 “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Lời cầu nguyện tiệt diệu, nên biến thành lời cầu nguyện của ta trước cơn bão cuộc đời. Qua câu chuyện có thật được Mc kể lại này (theo lời rao giảng của Phê-rô), chúng ta thành thử có thể coi đây là cơn bão lớn của cuộc Khổ nạn, vốn đã lay động con thuyền nhỏ của cộng đoàn Tông đồ lúc Đức Giê-su ngủ trong cái chết. Nhưng, bất chấp các quyền lực sự chết, tượng trưng bởi “biển cả”, Đức Giê-su đã phục sinh. Chúng ta gặp lại chủ đề Kinh thánh về “biển”, hình ảnh các mãnh lực chống lại con người, vì Mc sử dụng ở đây cùng những ngữ vựng như khi Đức Giê-su “ngăm đe” ma quỷ, bắt chúng “lặng im câm mồm” (Mc 1,25; 9,25).

Câu trả lời cứng cỏi: “Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?” áp dụng thật đúng vào thời điểm cuộc Khổ nạn, lúc tất cả môn đệ chạy trốn, chối bỏ, nghi ngờ. Ba lần, Mc sẽ lặp lại rằng các Tông đồ “không tin”: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người chỗi dậy” (Mc 16,11.13.14).

Đấy là cơn bão của các Tông đồ. Còn đâu là cơn bão của riêng tôi? Thiên Chúa sẽ dẹp yên chúng chứ? Đọc Tin Mừng cách ngây ngô, ta có thể tưởng như vậy. Cảnh yên tĩnh trở lại của hồ Ti-bê-ri-át khiến ta mơ ước một cuộc sống bình an, có Thiên Chúa thường xuyên can thiệp ở mức độ các nguyên nhân tự nhiên để tránh cho ta thử thách, cái chết. Nhưng một lối đọc Tin Mừng cách chân chính sẽ khiến ta thấy Đức Giê-su kêu mời ta “thanh luyện đức tin”. Chính khi trải qua “giấc ngủ sự chết” mà Đức Ki-tô giải thoát ta khỏi các quyền lực hỏa ngục lẫn tử thần. Không phải bất cứ niềm tin nào cũng trấn áp được các cơn bão, nhưng chỉ niềm tin vào “Đức Giê-su Ki-tô tử nạn phục sinh”. Ơn cứu rỗi ta tin vào đâu có giúp ta thoát khỏi, kiểu phép lạ, cách ưu đãi, các khổ đau gắn chặt với bản tính con người! Niềm tin xác tín về quyền lực của mình vẫn không ngăn cản Đức Giê-su trải qua “giấc ngủ của nấm mộ”. Chính khi đích thân trải qua thử thách mà chúng ta mới có thể “sang bờ bên kia”. Nhưng Đức Giê-su có đó, với ta, trong các thử thách ta chịu. Thật là một trang biểu tượng tuyện vời!

 

  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

Chia sẻ Bài này:
 

FacebookTwitterLinkedInPinterestViber

00:00
 
04:47
 
 
 

Bài Giảng Lễ Chúa Nhật XI Thường Niên B

Video Player
 
00:00
 
27:02
 
 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 
 
 

Chuyên Mục

 
 
 
 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - BỀN CHÍ CẦU NGUYỆN

  •  
    Chi Tran

     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     

    Xin sẽ được – Bền chí cầu nguyện


    Năm 1961 chị Maria La, trưởng Praesidium Đức Mẹ Yên Ủi kẻ âu lo ở giáo xứ Bủng đã tường thuật câu chuyện sau đây:

    Trong một buổi họp, nghe hội viên phúc trình về trường hợp bà Nguyễn Thị Chòi, một người đạo dòng có chồng bên lương; chồng chết, bà bỏ nhà vào tu chùa và đã quy y được sáu năm.  Sau bị bãi rồi không giúp việc công quả trong chùa được nữa thì về ở với con cháu.  Chị em Legio hay tin, mỗi tuần thay phiên nhau đến viếng thăm an ủi bà.  Nhưng lần nào bà cũng quay mặt vào vách không tiếp.  Praesidium vẫn cử người đến với bà suốt gần một năm, nhưng vẫn bị đối sử lạnh nhạt, rồi bị từ chối: “Đừng đến đây nữa, tôi không có đạo.”  Khu vực bà Chòi ở lúc bấy giờ là ấp Thanh Qui, xã An Thanh (Bủng) hoàn toàn mất an ninh.

    Các chiến sĩ của Mẹ vẫn không nản, lướt thắng mọi trở ngại, bền đỗ kêu xin Đức Mẹ và Chúa Thánh Linh ban cho bà ơn trở lại.

    Một hôm chị trưởng Praesidium lại đến thăm, bà Chòi vẫn không tiếp; các chị an ủi và hỏi thăm sức khoẻ, lần lần thấy bà vui vẻ, một chị bạo dạn hỏi:

    Bà có nhớ người đỡ đầu khi bà chịu phép rửa tội là ai không?

    -Là bà Sáu Sang.

    Còn người đỡ đầu bà trong phép Thêm Sức?

    -Là bà Năm Sọ.

    Chị trưởng hy vọng ơn Chúa đã đến với bà, chị an ủi khuyên bà trở về với Chúa, Chúa còn chờ đợi bà đến nay.  Bà cảm động bằng lòng trở lại.  Các chị giúp bà xét mình rồi xưng tội cách sốt sắng.  Từ đó, các chị vẫn tiếp tục đến săn sóc.  Một năm sau bà chết bằng an sau khi lãnh các phép bí tích sau hết bởi cha linh giám Praesidium là cha Tôma Sum.  Bà đã bỏ Chúa 30 năm.

    (Legio Mariae, số 169, tr. 547)

    Lm. Đoàn Quang góp nhặt

     

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - KHÔNG GIAN CHO THÁNH THẦN

KHÔNG GIAN CHO THÁNH THẦN

 “Đấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi!”.

Một cậu bé về quê nghỉ hè ở nhà bà ngoại. Tình cờ, một bà phước ghé thăm. Sau khi chào hỏi, cậu bé chăm chỉ với tập truyện tranh Thánh Kinh ở một góc phòng. Bà phước nghĩ, nên có một điều gì đó để đùa với cậu; bà lên tiếng, “Này con, con có thể nói cho bà một điều gì đó ‘Chúa có thể làm’, bà sẽ cho con một quả táo thật to và bóng loáng”. Suy nghĩ một lúc, cậu bé trả lời, “Thưa bà, nếu bà có thể cho con biết một điều gì đó mà ‘Chúa không thể làm’, con sẽ biếu bà cả một thùng táo!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Vậy mà có ‘hơn một điều’ con người tưởng ‘Chúa không thể làm’ thì Ngài đã làm; đó cũng là những gì đã xảy ra với hai người phụ nữ trong ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng Bà Élisabeth hôm nay.

Thật bất ngờ, hôm nay, phụng vụ Lời Chúa dùng một thánh ca Isaia thay cho Thánh Vịnh đáp ca, “Đấng Thánh cao cả của Israel ở giữa ngươi!”. Đó là một lời sấm đầy khích lệ, nói về ngày Thiên Chúa viếng thăm và cứu dân Ngài; lời sấm ấy đã hoá thực trong ngày Đức Mẹ, dạ cưu mang Con Chúa, mở ra một ‘không gian cho Thánh Thần’, khi Mẹ đến thăm gia đình ông bà Zacaria.

Hình ảnh hai người mẹ hân hoan ngày ấy hiện thực hoá lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ Xôphônia với bài đọc hôm nay, “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi, và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi!”.

Cuộc viếng thăm người chị họ của Mẹ được xem như một sự đùn đẩy của Thánh Thần. Thánh sử Luca đã ghi lại nhiều chi tiết về cuộc đời Mẹ, nhưng hẳn vẫn chưa kể hết, như Gioan tông đồ nói, “còn rất nhiều điều không được viết ra”; tuy nhiên, nếu chúng ta biết tất cả những gì Thiên Chúa đã làm nơi Mẹ thì thiên đàng sẽ là một lỗ hổng và không còn là thiên đàng chút nào! Cuộc viếng thăm này có một ý nghĩa sâu sắc, vì đây là lần đầu tiên Đức Maria công khai thực hiện ‘vai trò trung gian của Con Thiên Chúa’; Mẹ quảng đại chấp nhận làm trung gian cho việc Nhập Thể, đặt thân xác mình vào vị trí của Thiên Chúa. Mẹ, Hòm Giao Ước, cất giữ một kho báu còn quý hơn cả những bia đá cũ của Môisen; Mẹ, Sao Mai, toả sáng giữa đêm đen trước khi ‘Mặt Trời Huy Hoàng Giêsu’ mọc lên ở cuối trời đông, rạng rỡ ‘một ngày mới’; và Mẹ, Mẹ Chúa Kitô, Mẹ Hội Thánh, cưu mang “Đấng là Đầu của Hội Thánh’ trước khi cưu mang ‘Thân Thể Mầu Nhiệm’ của Ngài trong lòng.

Sự hiện diện của Chúa Kitô nơi cung lòng Mẹ toả ra như sức chiếu của những tia X quang, dội lại trong lời nói và cử chỉ đầy niềm tin của ​​Élizabeth và Gioan, vốn đang nhảy mừng trong dạ mẹ. Élizabeth đã thốt lên những lời duyên dáng, mà ‘vô số cung giọng’ sẽ tiếp tục cất lên bằng ‘vô số ngôn ngữ’ ‘vô tỷ’ lần trong ‘vô số các thời đại’, “Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu, Con lòng Bà gồm phước lạ!”. Cuộc viếng thăm này là một trong những nguồn gốc của Kinh Kính Mừng. Élizabeth là một tiên tri! Để một tiên tri là tiên tri, lời họ phải thành sự thật. Lời Élizabeth đã đúng và là sự thật! Quả thế, Maria được chúc phúc giữa muôn muôn phụ nữ, và ‘Quả Phúc’ lòng Mẹ đã tạo nên một sự khác biệt cho thế giới! Mẹ không cho mình là tài đức nhưng làm lệch hướng mọi sự để quy về Thiên Chúa hơn là quy cho lòng quảng đại của chính Mẹ, “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa”. Mẹ tiên phong mở ra một ‘không gian cho Thánh Thần’, dọn dẹp con đường rối rắm, um tùm kể từ tội lỗi của Evà. Với nhân loại sát cánh phía sau, Mẹ dẫn chúng ta trở lại một không gian mới để tái khám phá cội nguồn của tất cả Chân, Thiện, Mỹ.

Anh Chị em,

Corona đại dịch có lẽ đã giúp chúng ta đánh giá đầy đủ hơn những gì trước đó được coi là đương nhiên, thăm viếng và được viếng thăm. Chúng ta không được tạo ra để sống cô lập, nhưng để hiệp thông yêu thương; chúng ta được mời gọi đến thăm nhau theo những cách thức mở ra ‘không gian cho Thánh Thần’, để Ngài hoạt động và sáng tạo trong cuộc sống mình và trong cuộc sống những người chúng ta gặp gỡ. Mẹ Maria không chỉ trao cho Élizabeth mà còn nhận từ bà; bản thân Mẹ đã được Élizabeth chúc phúc. Đó là cách chúng ta không chỉ chúc phúc cho người chúng ta đến thăm, nhưng chúng ta còn được họ chúc phúc; quả là, khi cho đi, chúng ta nhận được nhiều hơn. Khi hai người cùng niềm tin gặp nhau, luôn luôn có một người thứ ba hiện diện, và đó là Chúa. Chúng ta có thể học từ Mẹ Maria và Élizabeth để chú ý đến ‘chiều kích tiềm ẩn’ của sự gặp gỡ này, đó là sự hiện diện của Chúa; đó là những ‘không gian cho Thánh Thần’, những không gian tuyệt vời của ân sủng!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ơn gọi của con là nên sứ giả của Chúa cho người khác, xin dạy con biết mở ra những ‘không gian cho Thánh Thần’ qua từng người con gặp gỡ. Chớ gì cuộc gặp gỡ của hai người mẹ này trở nên khuôn mẫu cho tất cả những cuộc gặp gỡ của con với những người khác!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

------------------------------------------------

Related posts

 
00:00
 
04:47
 
 
 

Bài Giảng Lễ Chúa Ba Ngôi B

Video Player
 
00:00
 
15:16
 
 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 
 
 

Chuyên Mục

 
 
 
 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - SỰ KỲ DIỆU CỦA THÁNH LỄ

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, Jun 4 at 9:18 PM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

    SỰ THẦN BÍ KỲ DIỆU PHI THƯỜNG CỦA THÁNH LỄ

     
    Mỗi thánh lễ là một sự thần bí kỳ diệu phi thường, vì tất cả những công nghiệp vô cùng của Con Chiên Thiên Chúa trên thập giá lại được diễn lại như lần đầu Chúa Giêsu tử nạn trên đồi Canvê. 
    Thánh Augustine nói: “Thật tuyệt vời cho những linh mục vì họ được ôm ấp Chúa Kitô trong đôi tay mỗi lần họ dâng thánh lễ.” Và trong thánh lễ, Máu Thánh Chúa tuôn ra để canh tân cho những linh hồn tội lỗi.” Bởi vậy thánh lễ được coi ngang hàng với những sự hy sinh của Chúa trên đồi Canvê. Trong thánh lễ Chúa cũng chết giống như lần đầu khi Chúa chết trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Do đó thánh lễ có giá trị vô biên như cái chết trên đồi Canvê của Chúa, và đổ xuống cho loài người những ơn ích vô biên của thánh lễ. Thánh lễ và đồi Canvê là một, có khác chăng là một bên là hình ảnh đồi Canvê, còn bên kia là hình ảnh bàn thờ. Trong mỗi thánh lễ, Máu Thánh Chúa lại đổ ra cho chúng ta lần nữa.
     
    Thánh John Damascene nói: “Nếu ai mong mỏi được biết làm cách nào bánh thánh trở thành Thánh Thể của Chúa Kitô, tôi sẽ nói cho người đó biết là: “Chúa Thánh Thần bao trùm lấy vị linh mục và tác động trên người như đã tác động trên Đức Mẹ Đồng trinh xưa kia khi Thiên Thần tới truyền tin cho Đức Mẹ.” Vì thế, có thể nói một cách rất bóng bẩy như thánh Bonaventure: “Thiên Chúa khi ngự xuống trên bàn thờ không khác gì lần đầu Người xuống thai trong lòng Trinh Nữ Maria.”
     
    Trên trái đất và ngay cả trên Thiên Đàng không có gì làm vinh danh Chúa hơn là dự thánh lễ, đồng thời chúng ta cũng lãnh nhận biết bao ơn sủng của Chúa. Với thánh lễ chúng ta dâng lên Chúa sự chúc tụng lớn lao nhất, vinh danh nhất, Chúa mong muốn cho chúng ta dâng lên Chúa sự cám ơn hoàn hảo nhất, vì tất cả những ân huệ Chúa ban cho chúng ta cũng là cách cho chúng ta ăn năn sửa đổi những lỗi lầm. Không có cách nào tốt hơn bằng cách dâng thánh lễ để cầu nguyện cho kẻ có tội ăn năn trở lại. Nếu các bà mẹ muốn dâng lễ cầu cho những đứa con lầm lạc; hoặc các bà vợ cần cầu cho những ông chồng bê bối hay khô khan nguội lạnh thì thánh lễ Misa sẽ là cách tốt nhất để cầu nguyện cho họ.
     
    Không có sự cầu nguyện nào đắc lực hơn là dâng thánh lễ cầu cho các linh hồn trong Lửa Luyện Tội, vì dưới đó có thể là cha mẹ, là anh em, thân bằng quyến thuộc của mình, chúng ta có thể giúp họ giải thoát những đớn đau một cách dễ dàng bằng cách dự thánh lễ để cầu cho họ.R
     
    FR. O’SULLIVAN

     

     
     

 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - PHỤC VỤ THIÊN CHÚA

 

  •  
    nguyenthi leyen chuyển
     
    Wed, Jun 2 at 3:17 AM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     
    PHỤC VỤ THIÊN CHÚA
     
    Dân Do thái là dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn. Để phục vụ Thiên Chúa. Để làm chứng về Thiên Chúa. Khi Dân Chúa không phục vụ Thiên Chúa. Họ bị biến chất. Và sẽ bị thay đổi.
     
    Cây vả là một minh hoạ. Trong Kinh Thánh, cây vả và cây nho thường được dùng để chỉ Dân Chúa. Cây vả này không phục vụ Thiên Chúa. Không có quả khi Chúa đến tìm. Nên nó bị thay thế. Nó phải chết.
    Đền thờ là một minh hoạ càng rõ nét hơn. Đền Thờ để phục vụ Thiên Chúa. Nhưng đã biến thành nơi phục vụ lợi nhuận của con người. Đó là hang trộm cướp. Vì con người cướp quyền Thiên Chúa. Vì thế nó phải được thanh tẩy. Đền thờ cũ bị thay thế. Đền thờ mới sẽ là thân thể Chúa Giê-su. Thân thể con người. Của lễ không còn phải là chiên, bò, bồ câu. Nhưng là chính Chúa Giê-su.
     
    Con người để phục vụ Thiên Chúa. Những ai không phục vụ Thiên Chúa sẽ mau chóng tàn lụi. Những con người đánh mất căn tính. Như cây vả và đền thờ. Sẽ mau chóng tàn lụi. “Có những người không còn ai nhớ nữa. Họ qua đi như chẳng bao giờ có”. Còn những người kiên trì phục vụ Thiên Chúa. Chuyên chăm giữ vững giao ước, thực thi Lề Luật. Thì dòng dõi tồn tại. Và vinh quang chói sáng: “Các vị sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại. Vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ” (năm lẻ).
     
    Có biến chất là vì những ích kỷ quy về bản thân luôn là một cơn cám dỗ lớn. Vì thế thư Phê-rô khuyên nhủ ta kiên trì phục vụ Thiên Chúa. Bằng tuân giữ điều răn Chúa truyền: Hãy yêu thương. Phục vụ. Đừng phí phạm ơn Chúa. “Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa. Ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban.
    Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa”. Để được như thế phải kiên trì vượt qua mọi cám dỗ thử thách. Như thế, “khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỷ” (năm chẵn).
     
    TGM Giuse Ngô Quang Kiệt