9. Đào Tạo Môn Đệ

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - OSV CATHOLIC BOOKSTORE

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - CHA PIO NĂM DẤU

  •  
    Chi Tran

    CHA PIO NĂM DẤU VÔ CÙNG TÔN KÍNH YÊU MẾN THÁNH THỂ
     
    ��Cha Piô thường cầm Mình Thánh Chúa cách rất khó khăn trông thấy, người tự nghĩ mình chẳng đáng lấy tay, dù được in dấu, chạm đến Mình Thánh Chúa.
    Một hôm, con thiêng liêng của cha Piô Pietrelcina hỏi ngài:
    “Thưa cha, chúng con phải dự thánh lễ như thế nào?”
    Cha trả lời:
    �� “Như Đức Mẹ, thánh Gioan và những bà đạo đức trên đồi Canvê, yêu mến Chúa và cảm thương Chúa”.
    Trong sách lễ của một con thiêng liêng, cha Piô viết:
    ��“Khi dự thánh lễ, hãy tập trung ý hướng vào mầu nhiệm vĩ đại này đang diễn ra trước mắt con, đó là sự cứu rỗi và hòa giải của linh hồn con với Chúa”.
    Lần khác người ta hỏi ngài:
    “Thưa cha, khi dâng lễ tại sao cha khóc nhiều như thế?”
    Ngài trả lời:
    ��“Hỡi con, những nước mắt này có là gì sánh với điều đang xảy ra trên bàn thờ? Nơi đó đáng phải đổ ra cả nguồn nước mắt”.
    Lần khác, người ta lại hỏi:
    “Thưa cha, cha đau đớn thế nào khi vết thương đang chảy máu mà phải đứng suốt buổi lễ?”
    Cha Piô trả lời:
    ��“Khi dâng lễ, không phải cha đứng mà cha bị treo”.
    Mấy tiếng “bị treo” ngắn ngủi nói lên mạnh mẽ ý nghĩa “cùng bị đóng đinh với Chúa” mà thánh Phaolô đã nói (Gl 2,19), nhờ đó phân biệt dự lễ trọn vẹn chứ không phải giả dối, lý thuyết suông, hay dự với những lời đọc bên ngoài.
    Thánh nữ Benadetta Soubirous nói với một tân linh mục rất chí lý rằng:
    �� “Xin cha nhớ rằng linh mục tại bàn thờ cũng giống như Chúa Giêsu trên thánh giá”.
    ��Thánh Phêrô Alcantara mặc áo lễ như ngài sắp lên đồi Canvê, vì tất cả lễ phục của linh mục đều liên quan đến cuộc tử nạn của Chúa.
    Áo dài trắng gợi lại áo trắng Herode đã cho Chúa mặc để chế diễu Ngài như kẻ dại, giây thắt lưng nhắc lại Chúa bị đánh đòn, dây đeo cổ nhắc lại giây thừng chúng trói Chúa. Khăn vai nhắc lại mũ gai, áo lễ ngoài có hình thánh giá nhắc lại thánh giá đè trên vai Chúa.
    ��Những ai dự thánh lễ cha Piô cử hành nhắc nhớ tới nước mắt nóng hổi của ngài, nhớ tới một điều kiện bó buộc ngài là những ai dự lễ phải quì gối, nhớ lại những lúc thinh lặng cảm động khi nghi lễ diễn ra, nhớ lại những đau khổ thống thiết tỏ ra trên khuôn mặt cha Piô khi ngài trịnh trọng tuyên đọc lời truyền phép, nhớ lại những lúc tín hữu đầy nhà nguyện, cầu kinh trong linh lặng, khi cha Piô âm thầm cầu nguyện vì chuỗi Mân côi kéo dài hàng giờ.
    ��Những sự chia sẻ của cha Piô lúc dâng lễ cũng giống như của các thánh. Nước mắt của ngài giống như nước mắt của thánh Phanxicô Assisi (đã có lúc biến thành máu), giống như thánh Vinhsơn Ferrier, thánh Laurensô Brindisi (đã có lần ướt cả 7 chiếc khăn tay), như thánh Veronica Giuliani, thánh Gemma Galgani, thánh Anphongsô, thánh Gemma Galgani.
    ��Nhưng vượt trên những điều đó, làm sao người ta có thể thờ ơ trước cuộc tử nạn và sự chết của Chúa Kitô?
    Chắc ta giống như các tông đồ nằm ngủ tại vườn Gietsimani, hoặc ít ra như lính tráng đứng dưới chân thánh giá, chỉ nghĩ tới trò chơi rút thăm, không quan tâm đến Chúa đang hấp hối, (và tuy nhiên đây là cảm nghĩ buồn phiền khi ta dự lễ “nhạc rock” với tiết điệu tây ban cầm, chơi kiểu thế gian với những cử chỉ tầm thường, với các phụ nữ ăn mặc thiếu nết na kín đáo, và giới trẻ mang những y phục kỳ lạ… xin Chúa tha cho).
    Ta hãy ngắm nhìn Mẹ Maria Đồng Trinh và các thánh. Hãy noi gương các ngài. Chỉ có noi gương các ngài, ta mới đi đúng đường, đường làm vui lòng Chúa (1 Cr 1,21).
    Thánh Anrê Avellinô thường cảm động đến chảy nước mắt nói rằng:
    ��“Người ta không thể phân rẽ Thánh Thể ra khỏi cuộc tử nạn của Chúa”
     

ĐÀO TẠO MON ĐỆ - OSV CATHOLIC BOOKSTORE

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - ĂN UỐNG

ĂN & UỐNG

Thưa quý vị và các bạn Men-ki-se-đê tượng trưng cho chức tư tế, tượng trưng cho chức linh mục. Hàng tư tế của Cựu  Ứơc được gọi là Lê-vi, Lê – vi là hàng Giáo sĩ. Từ đó, Men-ki-sê-đê là vua Sa-lem, nhưng tượng trưng cho hàng giáo sĩ Tân Ứơc, đó là Chức linh Mục.

Khởi đi từ Bài đọc I hôm nay (St 14, 18- 20) cho chúng ta biết Chức Linh mục có từ Sáng Thế, theo nhân vật có tên là Men-ki-sê-đê. Men-ki-sê-đê là tư tế của Thiên Chúa chí tôn. Như vậy, khi tổ phụ Ápraham chiến thắng quân địch khải hoàn trở về đất Sô-đôm, thì cả vua Sô-đôm và vua Sa-lem là Men-ki-sê-đê cũng đem bánh và rượu để tiến dâng tổ phụ Ápraham. Nhưng, ngược lại Ápraham trích một phần mười chiến lợi phẩm mà dâng cho vua Sa-lem là Men-ki-sê-đê.

Như vậy, Men-ki-sê-đê là nhân vật mang chức tư tế là người tế lễ cho Thiên Chúa từ thời Sáng Thế, khi Thiên Chúa lập Giao Ứơc với tổ phụ Ápraham.

Từ đó, cho thấy chức tư tế đã được lập từ xa xưa, như vậy, khi đến Thời Tân Ứơc, chính Đức Ki-tô, là Đấng được xức dầu tấn phong là TƯ TẾ, đồng thời là HY LỄ, và là CHỦ TẾ, khi Người dâng MÌNH trên Thánh Giá.

Như vậy, “BÁNH và RƯỢU”để làm gì? Há chẳng phải để “ĂN và UỐNG “sao?

Và trong Đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giê-su nói: ” Chính anh em hãy cho họ ăn…” (Lc 9,13)

Theo đó, Lời truyền dạy của Chúa Giê-su cách cụ thể là “CHO HỌ ĂN”. Như vậy, sự sống của thân xác không loại trừ cái ăn, từ Sáng Thế, rồi Xuất AI Cập. Thiên Chúa vẫn dựng nên cái ăn cho sự sống của thân xác. Từ khởi nguyên, Thiên Chúa dựng nên vườn Địa Đàng là trần thế nầy. Mọi sự tốt đẹp, cái ăn tự nhiên như hơi thở, không cầm làm lụng vất vả, cây trái tự nhiên vẫn có của dùng để ăn. Nhưng, từ khi con người phản nghịch, Thiên Chúa chúc dữ , thế là án phạt xảy ra.

Và sự đau khổ xuất hiện con người phải cực khổ mưu sinh cho đến tận thế. Khi bị Ai Cập đô hộ bắt làm nô lệ, rồi Thiên Chúa giải thoát, dẫn đi trong samạc 40 năm trường, Thiên Chúa cũng nuôi ăn bằng chim cút và manna, tức sương trời.

Như vậy, ý nghĩa tiên trưng cho Bí Tích Thánh Thể sau nầy. Bí Tích Thánh Thể cũng để “ĂN”, vì Chúa Giê-su nói :” Các con hãy cầm lấy mà ăn”. Vâng, cũng chỉ để mà ăn, có nghĩa là Thiên Chúa vẫn nuôi nhân thế bằng cái ăn. Con người thiếu cái ăn thì lăng xăng tìm kiếm. Cũng chính vì cái ăn, miếng ăn, con người sát phạt nhau, sinh ra tội ác.

Hằng ngày xảy ra biết bao nhiêu tội ác cũng chỉ vì miếng ăn, vì thế, cổ nhân Việt Nam có câu: “ Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”. Vâng, đau khổ cũng vì miếng ăn. Con người ĂN tất cả trừ sắt đá, kim loại đất cát mà thôi. nhưng, người ta cũng ăn tất cả từ rừng núi, biển cả, ao hồ, sông suối, sản vật có thể ăn liền, hoặc chế biến. Nhưng, thật ra người ta ăn tất cả mọi thứ, vì cái gì không nhai được bằng mồm , thì họ bán lấy tiền, kể cả “lương tâm” con người.

LƯƠNG TÂM là sự tốt lành thánh thiện từ bên trong, mà họ cũng bán, bán hết, bán tất tần tật.

Theo đó, Chúa Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể để làm chi? Há chẳng phải là để nuôi sống con người sao? Nhưng, là nuôi sống “NHÂN TÂM” tức tâm hồn nhân thế.

BÍ TÍCH THÁNH THỂ là LƯƠNG THỰC SIÊU NHIÊN, là Thần Lương, có nghĩa là Lương Thực bởi Trời được biến đổi, không phải là lương thực thân xác. Mà là “SỰ SỐNG THẦN LINH “từ Thiên Chúa.

Vì vậy, BÍ TÍCH THÁNH THỂ là để “ĂN “, ăn chính THỊT và MáU THẦN LINH là SỰ SỐNG VĨNH HẰNG.

Vâng, ”THỊT và MÁU “ đó là SỰ SỐNG, mà là SỰ SỐNG của THIÊN CHÚA là SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI.

BÍ TÍCH THÁNH THỂ không phải phù phiếm,sự mê hoặc hay dị đoan , mê tín, mà là một ÂN SỦNG CAO SIÊU từ Thiên Chúa. Sự sống hữu hình mà chúng ta thấy được, chúng ta cho là thật, nhưng hữu hình là hữu hạn. Tại sao chúng ta tin vào cái hữu hạn, nhưng không tin vào sự vô biên của Thiên Chúa.

Thánh Phaolo cho chúng ta biết “ Nước Trời không phải là chuyện ăn, chuyện uống mà là sự bình an và an lạc trong Thánh Thần…” (Rm 14,17 -19)

Vâng , chuyện ăn uống mà thánh Phaolo muốn nói ở đây là ăn uống của thân xác, tiệc tùng, đình đám, ăn nhậu say sưa, chè chén, chứ không phải là của ăn siêu nhiên.

“MÌNH và MÁU” của Đấng Cứu Thế là một thứ LƯƠNG THỰC không hư nát. Nuôi sống linh hồn nhân thế và kẻ TIN. Chúa Giê-su để lại BÍ TÍCH THÁNH THỂ cho kẻ tin, chính là để nuôi sự sống vĩnh cửu là linh hồn nhân thế. Chúng ta thấy , satan không làm được điều đó, satan không cho chúng ta sự sống đời đời, vì nơi satan không có sự sống từ Thiên Chúa.

Rõ ràng với bản tính làm Người tức Nhân Tính, Chúa Giê-su chịu cám dỗ, Người vẫn cảm thấy đói, nhưng LỜI KINH THÁNH cho Người “ĂN”, vì vậy, Người dùng Lời Kinh thánh đáp trả satan là:” Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn nhờ bởi LỜI của Thiên Chúa phán ra”. Như vậy, LỜI của Thiên Chúa là sự sống, Lời Chân lý là ”LỜI HẰNG SỐNG” vậy.

Như vậy, Lời Chúa là Sự Sống thì Bí Tích Thánh Thể, tức là BÁNH và RƯỢU qua Lời Chúa sẽ trở nên MÌNH và MÁU Đức KI-TÔ –GIÊ-SU, nhờ lời của thừa tác viên. Vì vậy, khi  hìn thấy bằng nhãn quan trần thế là “bánh mỳ và rượu nho”, thì người ta cho BÍ TÍCH THÁNH THỂ là “BÁNH MỲ và RƯỢU NHO” mà thôi. Nhưng, người ta không thể hiểu LỜI CHÚA có sức biến đổi. Vì, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá trở nên con cháu Ápraham mà.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã để lại cho chúng con Bí Tích Thánh Thể, để đời đời tưởng nhớ Chúa đã chịu chết và Phục Sinh. Xin cho chúng con biết sốt sắng sùng kình Mầu Nhiệm Mình Máu Thánh Chúa, để chúng con luôn luôn được hưởng nhờ hiệu quả của Ơn Cứu Chuộc. Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha hợp nhất với Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen

19/06/2022

P.TRẦN ĐÌNH PHAN TIẾN

Chia sẻ Bài này:
 

FacebookTwitterLinkedInPinterestViber

n

 
00:00
 
04:47
 
 
 

Bài Giảng Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi C

Video Player
 
00:00
 
20:07
 
 
 

 

 
 
 

Chuyên Mục

 
 
 
 

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

  •  
    Chi Tran
     
     
     
     
     


    GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG LỄ

    MÌNH MÁU THÁNH CHÚA NĂM C 

     

    1/ PHÉP LẠ THÁNH THỂ 1

    Giáo hội ghi nhận một phép lạ xảy ra vào năm 1263. Một linh mục người Đức tên là Peter thành Prague, khi đi hành hương đến Rôma đã dừng chân tại Bolsena. Ngài được mô tả là một linh mục rất đạo đức, nhưng lại là một người cảm thấy rất khó tin vào mầu nhiệm biến đổi Bản Thể (Transubstantiatio) trong Bí tích Thánh Thể. Trong khi cử hành thánh lễ tại mộ thánh Christina, ở Bolsena, Ý, ngài chưa kịp đọc  lời Truyền phép (Consecratio) thì máu bắt đầu chảy ra từ Mình Thánh, rồi chảy ra trong tay ngài, trên bàn thờ và khăn thánh. Vị linh mục hết sức hoảng hốt. Lúc đầu, ngài cố gắng giấu các vết máu, nhưng sau đó ngài đã dừng cử hành Thánh lễ và yêu cầu được đưa đến thành phố lân cận Orvieto, nơi Đức Giáo hoàng Urbanô IV khi đó đang cư trú. Đức Giáo hoàng đã lắng nghe lời vị linh mục kể và ban ơn xá giải cho ngài vì tội thiếu đức tin khi cử hành Thánh lễ. Sau đó, Đức Giáo hoàng cử các sứ giả đến để điều tra ngay sự kiện đặc biệt này. Khi tất cả sự thật đã được xác định chắc chắn, ngài truyền lệnh cho Đức Giám mục giáo phận mang đến Orvieto Mình Thánh và tấm vải lanh có vết máu. Trước sự hiện diện của các tổng giám mục, các hồng y và các chức sắc khác của Giáo hội, Đức Giáo hoàng đã cử hành một đoàn rước đông đảo, với tất cả lòng sùng kính suy tôn, ngài long trọng đặt các thánh tích trong nhà thờ chính tòa Orvieto. Tấm khăn bằng vải lanh mang những vết máu vẫn còn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà thờ Orvieto, Ý. Qua phép lạ này, Đức Giáo hoàng Urbanô IV đã truyền cho thánh Tôma Aquinô soạn các kinh nguyện phụng vụ để tôn sùng Bí tích Thánh Thể. Một năm sau phép lạ, vào tháng 8 năm 1264, Đức Giáo hoàng Urbanô IV đã giới thiệu các sáng tác của vị thánh, đồng thời bằng một tông sắc đã thiết lập lễ kính Mình Thánh Chúa Kitô (Corpus Christi). (Theo tài liệu của cha Eugene Lobo S.J., Rôma)

     

    2/ PHÉP LẠ THÁNH THỂ 2

    Phép lạ Thánh Thể nổi tiếng xảy ra ở Lanciano, cũng ở Ý, vào khoảng năm 700. Một tu sĩ sợ mình mất ơn gọi đã cử hành Thánh lễ; và trong lúc truyền phép, bánh đã trở thành thịt và rượu biến thành máu. Mặc dù thật sự là phép lạ này đã xảy ra hơn 1300 năm trước, ngày nay người ta vẫn có thể nhìn thấy thịt được đặt trong mặt nhật và máu trong chén thánh thủy tinh, được trưng bày công khai. (Chén thánh thủy tinh nằm bên dưới mặt nhật). Tôi đã có vinh dự được chiêm ngắm thánh tích phép lạ Thánh Thể này trong thời gian tôi ở Ý. Máu đã đông lại và bây giờ đóng thành năm cục trong chén thủy tinh. Vào năm 1971 và 1981, một phòng thí nghiệm của bệnh viện đã xét nghiệm máu thịt và khám phá ra rằng thịt đó là từ cơ tim, một mô của cơ tim, vì vậy chúng ta có thể nói đó là trái tim của Chúa Giêsu, Thánh Tâm; và máu thuộc nhóm máu AB. Vào năm 1978, các nhà khoa học của cơ quan NASA đã thử nghiệm máu trên tấm khăn liệm Turin và thật là thú vị, họ cũng phát hiện ra rằng máu đó thuộc nhóm AB. (Tấm khăn che đầu Chúa Kitô trong Gioan 20,6 (Sudarium) cũng thuộc nhóm máu AB.) Mặc dù sự thật khoa học là thịt và máu của con người không thể được lưu giữ trong thời gian 1300 năm, các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm của bệnh viện đều không tìm thấy dấu vết của bất kỳ chất bảo quản nào. Một điểm thú vị cuối cùng về năm cục máu đông trong chén thánh là khi người ta cân một trong năm cục, nó có cùng trọng lượng như năm cục máu với nhau, cân hai trong số chúng cũng bằng cả năm cục máu. Vẫn kỳ lạ là, bất kể người ta cân các cục máu đông riêng lẻ hay cân chung theo cách nào đó, chúng luôn có trọng lượng như nhau. Điều này gợi cho người ta thấy Chúa Giêsu trọn vẹn hiện diện trong Thánh Thể dù nhỏ bé đến đâu. Đây là hai phép lạ Thánh Thể mà tôi đã thấy và đã được Giáo hội chứng thực sau khi điều tra cẩn thận. (Theo lời kể của cha Tommy Lane).

     

    3/ THIÊN ĐÀNG TRÊN MẶT ĐẤT

    Tiến sĩ Scott Hahn là một mục sư Tin lành, người đã có hai mươi năm nghiên cứu sách Khải Huyền. Ông thừa nhận rằng, khi nỗ lực nghiên cứu sách Khải Huyền, ông cảm thấy mình giống như một người đang đứng trước một cánh cửa bị khóa, và phải tìm đúng chiếc chìa khóa trên chuỗi móc khóa. Không có chiếc chìa khóa nào phù hợp, cho đến khi ông liên kết sách Khải Huyền với Thánh Lễ. Và theo ý kiến của ông, đó là chìa khóa phù hợp nhất. Kinh nghiệm của ông sau đó đã truyền cảm hứng cho nhiều người đến nỗi một năm sau, chính ông xin được hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo. Tóm lại, đây là luận điểm của ông: Chìa khóa để hiểu sách Khải Huyền là Thánh Lễ. Nói cách khác, Thánh Lễ là cách duy nhất một Kitô hữu có thể thực sự hiểu sách Khải Huyền. Ngày nay, Tiến sĩ Scott Hahn, một người đàn ông đã kết hôn sống rất hạnh phúc và là cha của sáu đứa con, là Giáo sư Thần học và Kinh Thánh tại một trường Đại học và là Giám đốc Viện Nghiên cứu Kinh Thánh Ứng dụng. (NB. Riêng người dọn bài này biết rằng, vào ngày 21 tháng năm 2021 ông mới có một người con, tên là Jeremiah Hahn được chịu chức linh mục; và một người con nữa là chủng sinh cũng đang chuẩn bị chịu chức linh mục. Người bạn đời của ông, bà Kimberly Hahn cũng là một giáo sư thần học và tác giả nhiều cuốn sách). Giáo sư Scott Hahn thẳng thắn và thực tế khi nhận xét rằng, đối với hầu hết người Công giáo, Thánh Lễ Chúa nhật hoàn toàn không phải là Thiên đàng. Thật vậy, ông thẳng thắn nói thêm: đó thường là một giờ không thoải mái, bị ngắt quãng bởi những đứa trẻ la hét, những bài thánh ca thì nhạt nhẽo được chọn hát không chính xác, những bài giảng lạc đề và những người ăn mặc như thể họ đang đi dự tiệc, dã ngoại hoặc chơi bóng đá. Tuy nhiên, đây là niềm xác tín của ông: “Khi chúng ta tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa nhật sốt sắng, chúng ta chắc chắn sẽ được phúc Thiên đàng. Và điều này đúng với mọi thánh lễ mà chúng ta tham dự, bất kể chất lượng của thánh nhạc hay sự nhiệt thành của người thuyết giảng. Thánh Lễ – và tôi muốn nói mỗi Thánh Lễ – là Thiên đàng ngay trên mặt đất!”

     

    4/ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT VĨ ĐẠI NHẤT

    Một trong những chủng sinh dẫn khách du lịch tham quan đại Giáo đường thánh Phêrô đã kể cho tôi nghe một câu chuyện thú vị. Anh ấy dẫn đầu một nhóm du khách Nhật Bản, những người hoàn toàn không biết gì về đức tin của chúng ta. Với sự cẩn trọng đặc biệt, anh đã giải thích những kiệt tác tuyệt vời về nghệ thuật, về điêu khắc và kiến trúc cho đoàn khách. Cuối cùng họ kết thúc tại Nhà nguyện Thánh Thể, anh cố gắng hết sức để giải thích ngắn gọn đó là gì. Khi cả nhóm giải tán, một người đàn ông lớn tuổi, người đã luôn chú ý đến các lời thuyết minh, ở lại và hỏi: “Thứ lỗi cho tôi, cậu có thể giải thích thêm câu ‘Mình Thánh Chúa’ được không?” Người chủng sinh đã làm theo yêu cầu, sau đó người đàn ông thốt lên: “À, nếu đúng như vậy thì những gì trong nhà nguyện này là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị hơn bất cứ thứ gì khác trong vương cung thánh đường này!”

    * Lễ Mình Máu Thánh Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta năng tôn sùng Bí tích Cực Trọng và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể.

     

    5/ RƯỚC LỄ TRÊN MẶT TRĂNG

    Qua Bí tích Thánh Thể Chúa muốn chúng ta tưởng nhớ đến Người bất kỳ nơi nào, khi nào. Phi thuyền Apollo 11 đã hạ cánh xuống mặt trăng vào Chúa nhật, ngày 20 tháng 7 năm 1969. Có lẽ nhiều người đều nhớ những lời đầu tiên của phi hành gia Neil Armstrong khi ông bước chân lên bề mặt mặt trăng: “Đây là một bước nhỏ của một người, nhưng là một bước tiến khổng lồ của nhân loại”. Nhưng ít ai biết về bữa ăn đầu tiên được ăn trên mặt trăng. Phóng viên Dennis Fisher cho biết rằng Buzz Aldrin, phi hành gia NASA đã đưa lên tàu vũ trụ một hộp nhỏ đựng Mình Thánh Chúa do một linh mục của ông cung cấp. Khi tàu vũ trụ vừa chạm mặt trăng, Aldrin gửi một chương trình phát thanh về Trái đất mời gọi khán thính giả chiêm ngắm sự kiện trọng đại này và cùng nhau tạ ơn. Tiếp đó, để giữ sự riêng tư ông xóa nhòa chương trình phát sóng ấy và đọc to một câu Lời Chúa: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”. Tiếp theo, trong thinh lặng ông tạ ơn Chúa vì chuyến du hành lên mặt trăng đã thành công; rồi ông rước Mình Thánh Chúa, và dâng mặt trăng cho Chúa Giêsu. Cuối cùng, ông bước xuống mặt trăng và đi bộ trên đó cùng Neil Armstrong.

    * Buzz Aldrin muốn trải nghiệm được hiệp thông với Chúa trên mặt trăng. Cách xa trái đất hằng nghìn dặm ông muốn kết hiệp với Đấng đã tạo dựng, đã cứu chuộc, và thiết lập tình bằng hữu với con người qua Thánh Thể.

     

    6/ CẦN NHÀ TẠM

    Nguyên tổng giám mục Giáo phận San Francisco, Đức cha John Quinn, rất thích kể câu chuyện về Mẹ Têrêsa và dòng Thừa sai Bác ái của bà đến mở cộng đoàn của họ trong giáo phận. Đức Tổng Quinn cứ băn khoăn bảo đảm với Mẹ Têrêsa rằng tu viện của họ, tuy không được rộng rãi sang trọng lắm nhưng lại khá thoải mái. Ngài nhớ lại khi Mẹ Têrêsa đến, ngay lập tức bà ra lệnh dỡ bỏ hết các tấm thảm dưới đất, chỉ cho treo một cái điện thoại nhỏ trên tường, bỏ hết các tấm nệm trên giường,.. và cứ tiếp tục bỏ nhiều hạng mục khác. Mẹ Têrêsa giải thích cho vị tổng giám mục còn đang bối rối: “Tất cả những gì chúng con thực sự cần trong tu viện là Nhà Tạm lưu giữ Mình Thánh Chúa!”

     

    7/ LÒNG TÔN SÙNG THÁNH THỂ CỦA THÁNH ELIZABETH ANN SETON

    Hai trăm năm trước, một phụ nữ phái Tin lành Trưởng lão xinh đẹp, trẻ trung đi cùng chồng, một thương gia, đến nước Ý du lịch nghỉ dưỡng. Họ để lại bốn trong số năm đứa con ở nhà cùng với các thành viên khác trong gia đình. Họ lên đường đến Ý, với hy vọng rằng sự thay đổi khí hậu có thể giúp ích cho chồng của bà, người mà công việc kinh doanh thất bại đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của ông. Chuyện  bi thảm lại xảy đến, khi ở Ý ông ta đã bất ngờ chết tại Liverno. Góa phụ trẻ đau buồn đã được một gia đình Ý, những người làm ăn thân quen của người chồng qua đời tiếp đón bà khá nồng nhiệt. Bà ở lại với họ trong ba tháng trước khi có thể thu xếp để trở về Mỹ. Góa phụ trẻ rất ấn tượng về đức tin Công giáo của gia đình chủ nhà, đặc biệt là lòng sùng kính Chúa Giêsu Thánh Thể: việc họ thường xuyên tham dự Thánh lễ, cử chỉ tôn kính khi rước Mình Thánh Chúa, lòng kính sợ đối với Mình Thánh Chúa trong những ngày lễ trọng khi giáo xứ tổ chức rước kiệu Thánh Thể. Trái tim đau buồn tan vỡ của bà dần dần được chữa lành vì bà cũng khao khát được kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể. Và khi trở về nhà, bà đã xin được hướng dẫn về Đức tin Công giáo. Ngay sau khi được đón nhận vào Giáo hội, bà mô tả lần đầu tiên được rước Chúa trong Bí tích Thánh Thể là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong đời bà. Chính tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 14 tháng 9 năm 1975, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã phong thánh cho người phụ nữ này, Elizabeth Ann Seton, là vị thánh bản xứ đầu tiên của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Bí tích Thánh Thể đã thôi thúc và nâng đỡ bà kết hợp với Thiên Chúa và Giáo hội.

     

    8/ THÁNH BỔN MẠNG CỦA TRẺ EM RƯỚC LỄ LẦN ĐẦU

    Chân phước Imelda Lambertini đã có một trải nghiệm đầy sốt mến về Thánh Thể. Cô bé sống ở Bologna, Ý, vào những năm 1300. Cô ước muốn trở thành một nữ tu ngay từ khi còn là một cô gái nhỏ, và cô đã gia nhập dòng Đa Minh năm chín tuổi, với ý muốn chuẩn bị tốt hơn cho ngày cô sẽ đón nhận tu phục. Mong muốn lớn nhất của cô là được rước lễ, nhưng vào thời đó, trẻ em phải ít nhất mười hai tuổi mới được chấp nhận. Imelda xin phép được một đặc ân ngoại lệ, nhưng cha tuyên úy từ chối. Cô liên tục cầu nguyện để được sự cho phép đặc biệt. Lời cầu nguyện của cô đã được đáp lại một cách kỳ diệu vào dịp lễ Thăng Thiên năm 1333. Sau Thánh Lễ, cô ở lại chỗ của mình trong nhà nguyện, nơi một nữ tu đang cất các bình thánh vào trong tủ. Đột nhiên, nữ tu nghe thấy một tiếng động và quay về phía Imelda. Bà thấy lơ lửng giữa không trung trước mặt Imelda đang quỳ cầu nguyện là Mình Thánh Chúa, tỏa sáng trong ánh sáng rực rỡ và mạnh mẽ. Nữ tu hoảng sợ chạy đi tìm cha tuyên úy. Khi cha tuyên úy đến, thì các nữ tu khác và nhiều giáo dân cũng đã chen chúc đi vào nhà nguyện, tất cả đều kinh ngạc. Khi cha tuyên úy nhìn thấy Mình Thánh Chúa sáng chói bay lơ lửng, ngài mặc lễ phục và vội đi đến chỗ Imelda, ngài nhận lấy bánh thánh trên tay và cho cô bé rước lễ. Một ít phút sau, sau khi đám đông đã giải tán, mẹ bề trên tu viện đến chỗ Imelda để gọi cô đi ăn sáng. Bà thấy cô gái vẫn đang quỳ với nụ cười trên môi. Nhưng Imelda đã chết. Cô đã chết vì tình yêu, trong sự ngây ngất sau khi rước Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Chúa còn mong muốn được ở bên cô hơn cả những gì cô khao khát được ở bên Người! Thi thể của chân phước Imelda không bị phân hủy, và ngày nay người ta vẫn có thể nhìn thấy trong Nhà thờ ở Bologna nơi cô được an táng. Cô là thánh Bổn Mạng của các trẻ em rước lễ lần đầu.

     

    9/ ĐÂY LÀ TRÒ ĐÙA GÌ VẬY

    Một cha xứ cho biết nếu ngài thấy một người dự lễ về sớm, ngài cho ngăn lại và nhắc họ rằng chỉ có một người rời Bữa Tiệc Ly sớm! Đó là Giuđa. Nhưng một cha xứ khác nghe vậy nói, tôi sẽ không làm thế, tôi muốn làm những gì thánh Philipphê Nêri đã làm. Khi thấy một người nào đó rời khỏi nhà thờ ngay sau khi rước lễ, vị thánh này đã cử người phục vụ với nến và chuông đi cùng người đó. Anh chàng này bực tức xông vào nhà thờ và chạm trán với vị linh mục. Anh ta bức xúc: “Trò đùa gì thế này?” Thánh Philipphê Nêri điềm đạm nói: “Đó không phải là trò đùa đâu. Các quy tắc phụng vụ nói rằng Mình Thánh Chúa phải được hết sức tôn kính. Bạn rời khỏi nhà thờ ngay sau rước lễ mà không cầu nguyện tạ ơn. Bạn đang mang Mình Thánh Chúa trong mình. Vì vậy tôi đã yêu cầu các thừa tác viên đi cùng bạn để tôn vinh Ngài!”

    * Sau khi Rước lễ, bạn và tôi chính là nhà tạm. Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện trong tâm hồn chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta có thánh ca Hiệp lễ, thời gian thinh lặng thánh, lời nguyện Hiệp lễ. Chúng ta cần đặc biệt hiệp thông với Chúa trong những giờ phút này.

     

    10/ Lời cầu nguyện tạ ơn sau Thánh Lễ của thánh Padre Pio (Piô Năm Dấu)

    “Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì con cần Chúa hiện diện để con không quên Ngài. Chúa biết con dễ dàng lìa bỏ Chúa như thế nào.

    Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì con yếu đuối và con cần sức mạnh của Ngài, để con không thường xuyên sa ngã.

    Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì Ngài là sự sống của con, và nếu không có Ngài, con sẽ không có lòng nhiệt thành.

    Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì Ngài là ánh sáng của con, và nếu không có Ngài, con sẽ chìm trong bóng tối.

    Lạy Chúa, xin ở lại với con để cho con thấy ý muốn của Ngài.

    Lạy Chúa, xin ở lại với con để con nghe tiếng Ngài và bước theo Ngài.

    Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì con tha thiết yêu mến Ngài, và muốn luôn ở bên Ngài.

    Lạy Chúa, xin ở lại với con nếu Ngài muốn con trung thành với Ngài.

    Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì tâm hồn con nghèo hèn, con muốn đó là nơi an ủi của Ngài, và là tổ ấm của tình yêu.

    Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, vì trời đã muộn và ngày sắp tàn; cuộc đời con đang trôi qua mau; cái chết, sự phán xét, vĩnh cửu đang đến gần. Con cần Chúa tái tạo sức mạnh cho con.

    Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm