9. Đào Tạo Môn Đệ

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - THÁNH NỮ FAUSTINA

  •  
    Kristie Phan
    Mon, Oct 5 at 12:06 PM
     
     
     
     
     
     
     
    THÁNH NỮ MARIA FAUSTINA KOWALSKA
     
       Thánh Nữ Maria Faustina Kowalska ngày nay được khắp thế giới biết đến với tước hiệu“Tông Đồ Lòng Thương Xót Chúa” là một vị thánh được các nhà thần học kể vào số những nhà thần bí trỗi vượt trong Giáo Hội.
        Chị là người thứ ba trong số mười người con của một gia đình nông dân nghèo khó nhưng đạo đức tại Glogow Iec, một làng quê nằm giữa đất nước Ba Lan.  Khi được rửa tội tại nhà thờ giáo xứ Swinice Warckie lân cận, chị đã được nhận tên “Helena.”  Ngày từ thời thơ ấu, Helena đã nổi bật với đời sống đạo hạnh, yêu thích cầu nguyện, chăm chỉ, vâng lời, và hết lòng thương cảm trước nỗi khổ đau của tha nhân.  Helena được đi học trong thời gian chưa đầy ba năm, và đến năm 14 tuổi, chị đã phải rời bỏ m��i ấm gia đình để mưu kế sinh nhai, giúp đỡ cha mẹ bằng công việc phụ giúp việc nhà tại thành phố Aleksandrow và Lodz kế cận.
        Khi mới lên bảy tuổi (hai năm trước khi rước lễ lần đầu), Helena đã cảm nhận trong tâm hồn lời mời gọi theo đuổi đời sống tu trì.  Sau đó, chị đã ngỏ ý muốn với cha mẹ, nhưng hai vị đều dứt khoát không đồng ý cho chị vào sống trong tu viện.  Trước hoàn cảnh như thế, Helena đã cố bóp nghẹt lời mời gọi trong tâm hồn.  Tuy nhiên, quá xao xuyến vì một thị kiến về Chúa Kitô tử nạn và những lời trách cứ của Người: “Cha còn phải chịu đựng con cho đến bao giờ, con còn phụ rẫy Cha cho đến bao giờ nữa đây?” (NK9 – Nhật Ký 9), Helena bắt đầu tìm cách để xin vào một tu viện.  Chị đã gõ cửa không ít tu viện, nhưng không được nơi nào đón nhận.  Cuối cùng, vào ngày 1 tháng 8 năm 1925, Helena đã được bước qua ngưỡng cửa của dòng Đức Mẹ Nhân Lành ở phố Zytnia tại Warsaw.  Trong Nhật ký, chị có viết: “Dường như tôi đã bước vào cuộc sống thiên đàng.  Một lời kinh đã trào dâng từ tâm hồn tôi, một lời kinh tạ ơn.” (NK17).
        Tuy nhiên, vài tuần lễ sau đó, chị bị cám dỗ mãnh liệt, muốn chuyển sang một dòng khác để có nhiều thời giờ hơn cho việc cầu nguyện.  Chính lúc ấy, Chúa Giêsu đã tỏ cho chị thấy các thương tích và thánh nhan tử nạn của Người và phán: “Chính con gây cho Cha nỗi đau đớn này nếu như con rời bỏ tu viện.  Đây là nơi Cha đã gọi con, chứ không phải một nơi nào khác; và Cha đã dọn sẵn nhiều ơn thánh cho con” (NK19).
        Khi vào dòng, Helena được nhận tên Maria Faustina.  Chị đã sống thời kỳ năm tập trại Cracow, và cũng tại đây, trước sự chứng kiến của đức giám mục Stanislaus Rospond, chị đã tuyên lời khấn tạm lần đầu, và năm năm sau, tuyên giữ trọn đời ba lời khấn thanh tịnh, khó nghèo và vâng phục.  Chị được cắt cử làm một số công tác tại các tu viện của dòng; hầu hết thời gian là ở Cracow, Plock, và Vilnius, với các công tác làm bếp, làm vườn, và coi cổng.
        Tất cả những cái vẻ bên ngoài ấy không làm hiện lộ một cuộc sống thần hiệp phong phú ngoại thường nơi chị dòng Faustina.  Chị sốt sắng chu toàn các phận sự, trung thành giữ trọn luật dòng, sống đời sống nội tâm và giữ thinh lặng, trong khi đó vẫn sống trong sự tự nhiên, vui tươi, đầy nhân ái và yêu thương người chung quanh một cách vô vị lợi.
        Chúa Giêsu đã uỷ thác cho chị nữ tu đơn sơ, kém học, nhưng can trường và tín thác vô h���n này một sứ mạng cao cả là rao truyền sứ điệp Lòng Thương Xót của Chúa cho thế giới, Người đã phán với chị, “Cha sai con đem tình thương của Cha đến cho toàn thế giới.  Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim lân tuất của Cha.” (NK 1588).  “Con là thư ký của Lòng Thương Xót Cha.  Cha đã tuyển dụng con làm nhiệm vụ ấy trên đời này và ở đời sau” (NK 1605) ... “Nhiệm vụ và công tác suốt đời con là tiếp tục làm cho các linh hồn được biết về Lòng Thương Xót lớn lao của Cha dành cho họ, và kêu gọi họ hãy tín thác vào Lòng Thương Xót vô tận của Cha.” (NK 1567).
     
    Sứ Mạng Của Thánh Nữ Faustina
        Sứ mạng chính yếu của chị thánh là nhắc nhở cho chúng ta về những chân lý đức tin ngàn đời nhưng dường như đã bị lãng quên về tình yêu thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại, và truyền đạt cho chúng ta những hình thức mới mẻ của việc tôn sùng Lòng Thương Xót, ngõ hầu làm hồi sinh cuộc sống thiêng liêng trong tinh thần tin tưởng và nhân ái của Kitô giáo.
        Bức Hình Chúa Giêsu Thương Xót.  Kiểu dáng bức hình được tỏ ra trong cuộc thị kiến của chị Faustina, ngày 22 tháng 2 năm 1931, trong phòng tư của chị tại tu viện Plock.  Chị ghi lại lời Chúa truyền trong Nhật ký,“Hãy vẽ một bức hình theo như mẫu con nhìn thấy, với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa” (NK47).  “Cha muốn bức hình này, bức hình được con vẽ bằng một cây cọ, sẽ được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh; Chúa Nhật đó sẽ là ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Cha” (NK 49).
        Hai luồng sáng là nét nổi bật trong bức hình Chúa Kitô.  Chính Chúa Giêsu khi được hỏi về ý nghĩa bức ảnh đã giải thích: “Luồng sáng màu lam nhạt tượng trưng Nước làm cho linh hồn nên công chính.  Luồng sáng màu đỏ tượng trưng Máu là sức sống của các linh hồn… Phúc cho linh hồn nào cư ngụ trong nơi nương náu của họ” (NK 299).  Bí tích Thánh Tẩy và bí tích Hòa Giải thanh tẩy linh hồn, còn bí tích Thánh Thể làm cho linh hồn được nên giàu có sung túc.  Như vậy, hai luồng sáng tượng trưng cho các bí tích thánh thiện ấy và tất cả những ân sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng trong Thánh kinh được biểu thị bằng nước, cũng như giao ước mới giữa Thiên Chúa và nhân loại trong bửu huyết Chúa Kitô.  Theo ý Chúa Kitô, bức hình phải mang dòng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa.”  Người còn tuyên bố, “Đó sẽ là một vật nhắc nhở về các yêu sách của Lòng Thương Xót Cha, bởi vì dù mạnh mẽ đến mấy, đức tin cũng chẳng ích gì nếu thiếu việc làm kèm theo” (NK 742)
        Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa.  Lễ này được đặt cao nhất trong tất cả những yếu tố của việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa được mạc khải cho thánh nữ Faustina.  Chúa Giêsu đã yêu cầu thiết lập lễ này lần đầu tiên tại Plock vào năm 1931, khi Người tỏ ý muốn về việc vẽ bức hình: “Cha ước ao có một lễ kính thờ Lòng Thương Xót của Cha.  Cha muốn bức hình này, bức hình được con vẽ bằng một cây cọ, sẽ được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Phục Sinh, Chúa Nhật đó sẽ là ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Cha” (NK 49).
        Tầm mức cao quý của ngày lễ này được đo lường bằng mức độ những lời hứa trọng đại mà Chúa đã gắn liền với dịp lễ: Chúa Giêsu đã phán, “...bất kỳ ai đến với Nguồn Mạch Sự Sống sẽ hoàn toàn được xóa sạch tội lỗi và hình phạt” (NK 300), và “Trong ngày hôm ấy, lượng thương xót dịu hiền thẳm sâu của Cha sẽ được khai mở.  Cha trào đổ cả một đại dương ân sủng xuống cho các linh hồn tìm đến với nguồn mạch xót thương của Cha.  Người nào xưng tội và chịu lễ sẽ được lãnh nhận hồng ân thứ tha mọi tội lỗi và hình phạt.  Ngày hôm ấy, mọi chốt ngăn những nguồn thác ân sủng đều được tháo mở.  Đừng linh hồn nào sợ đến bên Cha, cho dù tội lỗi họ có đỏ thắm như điều” (NK 699).
         Chuỗi Kinh Lòng Thương Xót Chúa.  Chuỗi kinh này Chúa Giêsu đã dạy cho Thánh Faustina tại Vilnius vào các ngày 13 và 14 tháng 9 năm 1935, như một lời kinh đền tạ hầu làm nguôi cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa (NK 474-476). 
       Những ai đọc chuỗi kinh này sẽ dâng lên Thiên Chúa Cha “Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính” của Chúa Giêsu Kitô để đền vì tội lỗi của mình, của người thân, và của toàn thế giới.  Bằng việc liên kết với hy tế của Chúa Giêsu, họ kêu nài tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Cha trên trời dành cho Con Một, và trong Người, dành cho toàn thể nhân loại. 
         Không chỉ những người đọc chuỗi kinh này, mà cả những người hấp hối cũng được lãnh nhận các ơn này, khi có người khác đ���c kinh nguyện này bên giường của họ.  Chúa đã hứa: “Khi chuỗi kinh này được đọc bên giường người hấp hối, cơn nghĩa nộ Thiên Chúa sẽ dịu xuống, lượng nhân từ vô biên sẽ bao phủ linh hồn ấy” (NK 811).  Lời hứa tổng quát là: “Cha vui lòng ban mọi điều họ nài xin Cha bằng việc lần chuỗi kinh ấy” (NK 1541). “...Nếu những điều con xin phù hợp với thánh ý Cha” (NK 1731).
        Trong một dịp khác, Chúa Giêsu đã phán: “...bằng việc đọc chuỗi kinh, con sẽ đem nhân loại đến gần Cha hơn” (NK 929) và: “Linh hồn nào đọc chuỗi kinh này sẽ được Lòng Thương Xót Cha ấp ủ trong suốt cuộc sống, và nhất là trong giờ chết’ (NK 754).
          Giờ Thương Xót Vô Biên.  Trong những hoàn cảnh không được ghi lại đầy đủ trong Nhật ký, vào tháng 10 năm 1937, tại Cracow, Chúa Giêsu đã mời chị thánh hãy tôn vinh giờ chết của Người: “...mỗi khi nghe đồng hồ điểm ba giờ, con hãy dìm mình hoàn toàn trong Lòng Thương Xót của Cha để thờ lạy và tôn vinh; con hãy kêu nài quyền toàn năng Lòng Thương Xót Cha cho toàn thế giới, nhất là cho các tội nhân đáng thương; vì vào giờ phút ấy, lượng tình thương được mở ra cho mọi linh hồn” (NK 1572).
         Chúa Giêsu cũng xác định những lời nguyện này rất phù hợp với hình thức tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa: “... con hãy cố gắng hết sức - miễn là bổn phận cho phép - để suy ngắm Đàng Thánh Giá trong giờ ấy; nếu không thể suy ngắm Đàng Thánh Giá, ít là con hãy vào nhà nguyện một lúc để thờ lạy Thánh Thể, Trái Tim đầu lân tuất của Cha; và giả như cũng không thể vào nhà nguyện, con hãy dìm mình vào sự cầu nguyện ở bất cứ nơi đâu trong một lúc ngắn ngủi” (NK 1572).
        Linh mục Giáo sư Rozycki đã liệt kê ba điều kiện để lời cầu nguyện được dâng lên trong giờ phút ấy được Chúa nhậm lời:
    1.Phải thưa lên với Chúa Giêsu
    2.Phải được đọc vào lúc 3 giờ chiều.
    3.Phải cậy nhờ đến giá trị và những công nghiệp cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.
    Chúa Giêsu đã hứa: “Trong giờ ấy, con xin được mọi sự cho chính con và những linh hồn được con cầu nguyện: đó là giờ ân sủng cho toàn thế giới - Lòng Thương Xót vinh thắng phép công thẳng” (NK 1572).
        Truyền bá việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa.  Khi bàn đến những yếu tố thiết yếu của việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa, cha Rozycki cũng coi việc truyền bá là một trong các yếu tố việc tôn sùng ấy, vì Chúa Kitô đã dành một số lời hứa cho việc này: “Linh hồn nào truyền bá việc sùng kính Lòng Thương Xót Cha, Cha sẽ bảo bọc họ suốt đời như mẹ hiền đối với con thơ, và đến giờ lâm tử của họ, Cha không phải là thẩm phán, nhưng là Đấng Cứu Chuộc đầy lân tuất với họ” (NK 1075).  Chúa Kitô muốn những ai thờ phượng Người hãy thực hiện mỗi ngày ít nhất một hành vi đức ái với người lân cận.
     
      Việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa hướng đến mục tiêu canh tân đời sống đạo đức trong Giáo hội trong tinh thần tín thác và nhân ái của Kitô Giáo.  Sứ mạng của thánh nữ Faustina có một nền tảng v��ng chắc trong Thánh Kinh và giáo huấn Giáo hội; nhất là phù hợp một cách tuyệt vời với tông huấn Dives in misericordia (Thiên Chúa Giàu Lòng Xót Thương) của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
     
    Cracow, tháng 12 năm 1991
    Nữ tu M. Elizabeth Siepak, ZMBM
     
    Divine Mercy 9.jpg
     


    --Certified Virus Free by 4SecureMail.com ICSA-Certified Scanner--
    •  
      THÁNH NỮ MARIA FAUSTINA KOWALSKA.docx
      94.9kB

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - TỪ TRẺ NGHÈO TRỞ LÀ THÁNH

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, Oct 2 at 12:48 AM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

    LÀM SAO MỘT ĐỨA TRẺ NGHÈO NÀN CÓ THỂ TRỞ THÀNH LINH MỤC, RỒI HỒNG Y, SAU ĐÓ LÀ THÁNH.

     

    Thánh Peter Damian mất cả cha lẫn mẹ từ lúc mới sanh. Một trong mấy người

    anh đã lãnh anh về nuôi nấng, nhưng đối xử với anh vô cùng tàn tệ, bắt anh làm việc rất

    cực khổ, ăn uống thì không ra gì, còn quần áo thì không đủ để mặc.

    Một ngày kia Peterlượm được một miếng bạc trắng, nó tiêu biểu cho vận may

    của Peter. Một người bạn nói với Peter rằng: “Anh có thể dùng nó, vì đâu biết ai là chủ

    của nó mà trả lại được.”

    Sự khó khăn của Peter là cái gì anh cũng cần thiết vì đối với anh cái gì cũng

    không có, nên anh rất cần nhiều thứ.

    Vấn đề trong đầu anh là muốn dùng đồng bạc đó làm việc có ý nghĩa hơn – anh

    muốn xin một lễ thánh cầu cho các linh hồn trong luyện tội, nhất là linh hồn cha mẹ yêu

    dấu của anh. Trong cái giá hy sinh cao quý nhất, anh đã lấy tiền đó để xin lễ mà quên đi

    bản thân mình.

    Kể từ ngày đó, vận mạng của anh thay đổi hoàn toàn một cách thấy rõ, do sự trả

    ơn rất lớn lao của các linh hồn vì sự hy sinh của anh.

    Người anh lớn nhất của anh gọi tới căn nhà anh đang ở và rất kinh hãi khi biết

    người em nhỏ bé của mình phải sống trong cảnh tàn tệ như thú vật. Ông liền đem Peter

    về nuôi nấng cho ăn học và lo lắng thương yêu như con ruột mình.Ơn đổ tràn trên ơn,

    tài nghệ con người Peter trở thành tiếng tăm, anh dấn thân trên con đường linh mục,

    không bao lâu, anh được thăng tiến lên hàng Giám Mục, rồi Hồng Y. Phép lạ chứng

    minh sự thánh thiện của anh, bởi vậy sau khi chết, Người được phong thánh và tiến sĩ

    của Hội Thánh. Biết bao ơn đổ xuống cho Người kể từ sau khi một lễ thánh cầu cho các

    linh hồn.

    Bản dịch từ sách của LM Paul O’Sullivan
     

 

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - HY SINH NHỎ MỖI NGÀY

  •  
    Kristie Phan
     
    Sat, Sep 26 at 9:59 AM
     
     
     
     
     
     
    LÀM THẾ NÀO ĐỂ THI HÀNH NHỮNG HY SINH NHỎ MỖI NGÀY
       Thành thật mà nói, hầu hết chúng ta không dám làm như Thánh Phanxicô Assisi, đó là sẵn sàng từ bỏ mọi thứ vì Chúa, ngay cả đến quần áo mặc trên mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể dâng cho Chúa điều gì đó giá trị. Thiên Chúa vui lòng với ngay cả những hy sinh nhỏ nhặt nhất nếu chúng được làm với lòng yêu mến.
      Thánh Têrêxa thành Lisieux, một đan nữ dòng Cát Minh thánh thiện của thế kỷ 19, là người mạnh mẽ đấu tranh cho ý tưởng dâng những hy sinh nhỏ bé cho Thiên Chúa. Việc này đã bắt đầu trong thời thơ ấu của Chị và nó vẫn luôn là một phần quan trọng trong đời sống thiêng liêng của Chị.
    Thánh Têrêxa tường thuật trong cuốn tự truyện Chuyện một tâm hồn về việc Chị tìm thấy một bức thư từ người mẹ đã qua đời của mình trong đó bà ghi lại lòng mong muốn hy sinh mãnh liệt trong su��t thời thơ ấu của Thánh nhân.
       “Đến con Têrêxa cũng đua làm việc lành!  Chị Marie cho riêng em một cỗ tràng hạt để đếm việc lành. Nhưng còn điều này lý thú hơn nữa: Têrêxa mỗi ngày thò tay vào túi đến trăm lần để lần hạt, tính việc lành đã làm. 
    Vì vậy, phong tục “chuỗi hạt hy sinh” để theo dõi những hy sinh mà ta làm mỗi ngày cũng bắt đầu từ đó. Mặc dù việc kiểm đếm như thế này có vẻ kỳ lạ, nhưng đó là một lời nhắc nhở mạnh mẽ trong suốt cả ngày và giúp chúng ta đánh giá đời sống thiêng liêng của mình. Trước khi đi ngủ, chúng ta có thể nhìn vào chuỗi hạt hy sinh và xem chúng ta đã sống như thế nào trong ngày và chúng ta cần làm gì để cải thiện chúng. Hy sinh từng chút một mỗi ngày là một cách tuyệt vời để lớn lên trong sự thánh thiện.
        Một cách khác để diễn đạt điều này đó là “những bước chân nhỏ”. Nếu chúng ta kiên trì bước những bước nhỏ của yêu thương mỗi ngày thì một ngày nào đó chúng ta sẽ đạt được một quãng đường yêu thương vĩ đại.
    Thánh Têrêxa viết, “Em phải khơi dậy trong tâm hồn mình những luồng tình yêu tươi mới và lấp đầy nó bằng những bông hoa. Vì vậy, mỗi ngày em đã thực hiện một số hy sinh nhỏ và những cử chỉ yêu thương, và biến chúng thành rất nhiều loài hoa: lúc thì hoa violet, lúc thì hoa hồng, rồi đến hoa ngô, hoa cúc, hoặc hoa lưu ly – nói tóm lại, tất cả các loại hoa của mẹ thiên nhiên được em kết thành nôi cho Chúa Hài Đồng trong lòng em.”
       Mỗi hy sinh nhỏ mà chúng ta thực hiện sẽ được tích lại và khiến tâm hồn chúng ta trở thành một nơi hoàn hảo để Chúa Giê-su gối đầu.
     
    Chuyển ngữ: Lm. JB. Nguyễn Từ Chương, OCD
     


    --Certified Virus Free by 4SecureMail.com ICSA-Certified Scanner--
     

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - THÁNH GIÊ-RÔ-NI-MÔ

 

  •  
    Tinh Cao
     

    Thứ Tư CN26TN-A

    KÌNH THÁNH GIÊ-RO-NI-MÔ:

    KHÔNG BIẾT KINH THÁNH LÀ KHÔNG BIẾT CHÚA KITO

     

    BỮA TIỆC Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: (Năm II) G 9, 1-12. 14-16

    "Con người so sánh với Thiên Chúa đâu đáng được kể là người công chính".

    Trích sách ông Gióp.

    Ông Gióp trả lời cùng các bạn hữu rằng: "Tôi biết thật như vậy, và biết thật con người so sánh với Thiên Chúa đâu đáng được kể là người công chính. Nếu con người muốn cãi lẽ với Chúa, thì một nghìn điều, nó không thể đáp lại một. Chúa thượng trí và quyền năng, ai đối địch với Chúa mà được bằng yên? Chúa xê dịch các núi đồi, và trong cơn thịnh nộ Người đánh đổ những kẻ không biết điều. Chúa khiến địa cầu chuyển động khỏi chỗ của nó, và các cột đất đều phải lung lay. Chúa truyền khiến mặt trời, thì nó không mọc lên, và Người cũng phong niêm các ngôi sao tinh tú. Chỉ một mình Chúa trải các tầng trời và bước đi trên sóng biển. Chúa tạo dựng sao bắc đẩu, sao sâm, sao mão và cung kín phương nam. Chúa tác tạo những điều trọng đại, mầu nhiệm và kỳ diệu không kể xiết.

    Nếu Chúa đến cùng tôi, thì tôi không trông thấy Người, và nếu Người ra đi, tôi cũng chẳng hay biết. Nếu Chúa bất chợt hỏi han, thì ai trả lời Người cho được? Hoặc ai có thể hỏi rằng: "Tại sao Chúa làm như thế?" Vậy tôi là gì mà dám trả lời với Chúa và dùng lời mà nói với Người? Dù tôi có lẽ công chính, tôi cũng không dám trả lời, một van nài cùng Ðấng phán xét tôi. Khi Chúa nhậm lời tôi kêu cầu, tôi cũng không chắc Người nghe lời tôi".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 87, 10bc-11. 12-13. 14-15

    Ðáp: Lạy Chúa, nguyện cho lời con cầu thấu đến tai Chúa (c. 3a).

    Xướng: 1) Lạy Chúa, con kêu lên Chúa mọi ngày, và con giang tay hướng về phía Chúa. Phải chăng Chúa còn làm những điều kỳ diệu cho người đã thác, hoặc giả những người chết sẽ sống lại và ngợi khen Ngài? - Ðáp.

    2) Phải chăng người ta còn kể lại lòng nhân hậu Chúa trong mồ, và lòng trung thành Ngài trong nơi âm phủ? Những việc kỳ diệu của Chúa còn thấy được trong chỗ tối tăm, và ân sủng của Ngài trong nơi quên lãng? - Ðáp.

    3) Phần con, lạy Chúa, con kêu lên Chúa, và tự bình minh lời nguyện của con sẽ tới tai Ngài. Lạy Chúa, nhân sao Chúa ghét bỏ linh hồn con, nhân sao Chúa ẩn mặt xa khuất khỏi con? - Ðáp.

     

    Alleluia: Tv 118, 8ab

    Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, những giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chính. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 9, 57-62

    "Dù Thầy đi đâu, tôi cũng theo Thầy".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, đang lúc Chúa Giêsu và các môn đệ đi đường, thì có kẻ thưa người rằng: "Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy". Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu". Người bảo một kẻ khác rằng: "Hãy theo Ta". Người ấy thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa". Một người khác thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã". Nhưng Chúa Giêsu đáp: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".

    Ðó là lời Chúa.

     

    image.png

     

     

    Suy Nghiệm SỐNG Lời Chúa

     

    Đồng Hành lên Giêrusalem với Chúa Kitô không phải là chuyện dễ và hào hứng như một chuyến hành hương!

     

    Bài Phúc Âm cho Thứ Tư Tuần XXVI hôm nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, bài Phúc Âm về cuộc hành trình của Chúa Giêsu bắt đầu tiến về Giêrusalem là đích điểm cho cuộc hành trình tỏ mình ra của Người với vai trò là Đấng Thiên Sai Cứu Thế. 
     
    Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại 3 trường hợp liên quan đến việc theo Người, Đấng đang tiến về Giêrusalem. Trong 3 trường hợp liên quan đến việc theo Người trong bài Phúc Âm hôm nay, trường hợp 1 và 3 là do con người tình nguyện, còn trường hợp 2 do chính Người kêu gọi. 
     
    Trường hợp tình nguyện xin theo theo Người thứ 1: "Khi ấy, đang lúc Chúa Giêsu và các môn đệ đi đường, thì có kẻ thưa người rằng: 'Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy'. Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: 'Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu'". 
     
    Trường hợp được Người kêu gọi đi theo Người: "Người bảo một kẻ khác rằng: 'Hãy theo Ta'. Người ấy thưa: 'Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã'. Nhưng Người đáp: 'Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa'".
     
    Trường hợp tình nguyện xin theo Người thứ 2: "Một người khác thưa Người rằng: 'Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã'. Nhưng Chúa Giêsu đáp: 'Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa'".
     
    Trường hợp tình nguyện xin theo theo Người thứ 1 gián tiếp liên quan đến chính cuộc hành trình về Giêrusalem của Chúa - "Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy". Trường hợp sau đó được Người kêu gọi đi theo Người cũng dính dáng đến Hành Trình Giêrusalem của Người, vì chính trong cuộc hành trình này mà Người đã kêu gọi một người nào đó rằng: "Hãy theo Ta". Trường hợp tình nguyện viên xin theo Người thứ 2 cũng có thể liên quan đến Hành Trình Giêrusalem của Người, vì tình nguyện viên này có thể biết được điểm đến của Người là Giêrusalem nên đã hứa "tôi sẽ theo Thầy".
     
    Không biết trường hợp của 2 tình nguyện viên muốn theo Người có biết Hành Trình Giêrusalem của Người như thế nào hay chăng, một cuộc Hành Trình Vượt Qua chung kết của Người, rất kinh hoàng khủng khiếp đến độ chính các môn đệ tông đồ của Người đã từng theo Người cũng bị tan tác như chiên không người chăn? Hay là họ tưởng rằng với tiếng tăm lừng lẫy của Người, như họ đã từng được nghe về Người, Người sẽ được dân chúng nghênh đón một cách long trọng vinh quang như là một vị anh hùng của dân tộc, nhờ đó thành phần theo Người như họ cũng được nở mày nở mặt và được hưởng ké vinh quang của Người.
     
    Có thể vì thế, biết được ước nguyện ngấm ngầm của họ như vậy mà Chúa Giêsu đã cảnh báo cho họ biết trước những gian nan khốn khó họ phải chịu trong việc theo Người, những gì Người chẳng bao giờ đề cập tới khi kêu gọi các tông đồ của Người trước đó. Chúng ta không biết 2 tình nguyện viên này, bao gồm cả kẻ được Người kêu gọi, phản ứng ra sao sau khi nghe thấy những gì Người nói với họ về trường hợp của mỗi người trong họ.
     
    Thế nhưng, căn cứ vào 3 câu nói này của Chúa Kitô liên quan đến việc theo Người, chúng ta thấy rõ ràng là có 3 điều kiện bất khả thiếu để có thể theo Chúa Kitô nhất là trong cuộc Hành Trình Giêrusalem trọng đại của Người, đó là: 1- tin tưởng dù không biết đi đâu - ở trường hợp của tình nguyện viên thứ nhất: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu"; 2- dấn thân theo đuổi lý tưởng - ở trường hợp của người được Người kêu gọi theo Người: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa"; 3- trung thành không luyến tiếc trần gian - ở trường hợp của tình nguyện viên thứ hai: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".

    Trong Bài Phúc Âm hôm nay, 3 con người nào đó ngỏ ý muốn theo Chúa Giêsu, đang khi Người hành trình lên Giêrusalem, bề ngoài, có vẻ là một cuộc dấn thân, một chọn lựa khôn ngoan, cho dù là khôn ngoan một cách ngấm ngầm theo khuynh hướng trần gian hưởng lợi cho bản thân họ. Tuy nhiên, khi họ nghe thấy những điều kiện bất thường, không theo bản tính tự nhiên, lại còn ngược lại, hay nói đúng hơn, vượt lên trên tất cả những gì là tầm thường và lòng mong ước tự nhiên, được Chúa Giêsu bảo cho từng người trong họ, tùy từng trường hợp mỗi người, biết thì phản ứng của họ ra sao, không thấy được Phúc Âm thuật lại. Có thể là họ đều rút lui, hay ngược lại, có thể là một hay tất cả họ vẫn cứ giữ vững lập trường.

    Dầu sao, những gì Chúa Kitô nêu lên hay đòi hỏi 3 con người tự động ngỏ ý muốn theo Người trong Bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy những gì khác biệt giữa hai lãnh vực tự nhiên nơi con người ta và lãnh vực siêu nhiên từ Chúa Giêsu. Và đó là lý do chúng ta thấy được những cảm nhận chí lý của nhân vật Gióp, đã nỗ lực sống công chính trước nhan Thiên Chúa, những cảm nhận được nhân vật này bày tỏ trong Bài Đọc 1 hôm nay, về mức độ chênh lệch giữa tâm tưởng và tình trạng của loài người với của Thiên Chúa, như sau:

    "Ông Gióp trả lời cùng các bạn hữu rằng: 'Tôi biết thật như vậy, và biết thật con người so sánh với Thiên Chúa đâu đáng được kể là người công chính. Nếu con người muốn cãi lẽ với Chúa, thì một nghìn điều, nó không thể đáp lại một. Chúa thượng trí và quyền năng, ai đối địch với Chúa mà được bằng yên? ... Nếu Chúa đến cùng tôi, thì tôi không trông thấy Người, và nếu Người ra đi, tôi cũng chẳng hay biết. Nếu Chúa bất chợt hỏi han, thì ai trả lời Người cho được? Hoặc ai có thể hỏi rằng: 'Tại sao Chúa làm như thế?' Vậy tôi là gì mà dám trả lời với Chúa và dùng lời mà nói với Người? Dù tôi có lẽ công chính, tôi cũng không dám trả lời, một van nài cùng Ðấng phán xét tôi. Khi Chúa nhậm lời tôi kêu cầu, tôi cũng không chắc Người nghe lời tôi".


    Chính vì thế mà con người mới luôn cần phải kêu cầu cùng Thiên Chúa với tất cả lòng tin tưởng vào Ngài, cho dù thân phận của mình có thế nào chăng nữa, cho dù mình có không hiểu được hết tất cả những gì Thiên Chúa quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan thực hiện nơi mình hay để xẩy ra cho mình, thậm chí như hất hủi bỏ rơi mình, như tâm tưởng của một số câu trong Thánh Vịnh 87 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

     

    1) Lạy Chúa, con kêu lên Chúa mọi ngày, và con giang tay hướng về phía Chúa. Phải chăng Chúa còn làm những điều kỳ diệu cho người đã thác, hoặc giả những người chết sẽ sống lại và ngợi khen Ngài?

    2) Phải chăng người ta còn kể lại lòng nhân hậu Chúa trong mồ, và lòng trung thành Ngài trong nơi âm phủ? Những việc kỳ diệu của Chúa còn thấy được trong chỗ tối tăm, và ân sủng của Ngài trong nơi quên lãng?

    3) Phần con, lạy Chúa, con kêu lên Chúa, và tự bình minh lời nguyện của con sẽ tới tai Ngài. Lạy Chúa, nhân sao Chúa ghét bỏ linh hồn con, nhân sao Chúa ẩn mặt xa khuất khỏi con?

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    TN.XXVIL-4.mp3  

     

     

     

    Dưới đây là những trích dẫn từ chính Phụng Vụ Giờ Kinh ngày 30/9 của Giáo Hội về Thánh Giêrônimô 

     

    Ngày 30 tháng 9

    Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

    lễ nhớ bắt buộc

    Tiểu sử 
    Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơ-tri-đôn, Đan-ma-xi-a. Người đến Rô-ma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông Phương và làm linh mục. Trở lại Rô-ma, người làm thư ký cho đức giáo hoàng Đa-ma-xô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La-tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống ba mươi lăm năm cuối đời ở Bê-lem, gần cái hang nơi Đức Giê-su ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Người qua đời ở Bê-lem năm 420.

     

    image.png

     

    Bài đọc 2

    Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô

     

    Trích lời tựa sách chú giải ngôn sứ I-sai-a của thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục.

     

    Vâng lệnh Đức Ki-tô truyền : Hãy nghiên cứu Kinh Thánh và cứ tìm thì sẽ thấy, giờ đây tôi trả món nợ tôi mắc, kẻo phải cùng với người Do-thái nghe lời sau đây : Các ông lầm vì không biết Kinh Thánh cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả vậy, nếu Đức Ki-tô là quyền năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa như thánh Phao-lô tông đồ nói, thì ai không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô.

    Bởi thế, tôi sẽ bắt chước chủ nhà kia lấy ra từ kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ và bắt chước vị hôn thê nói trong sách Diễm ca : Từ đầu mùa cho đến cuối mùa, em dành hết cho anh, hỡi người em yêu dấu. Vậy tôi trình bày sách I-sai-a để cho thấy tác giả không chỉ là ngôn sứ nhưng còn là người loan báo tin mừng và là tông đồ nữa. Quả thật, chính ông đã nói về mình và về các sứ giả khác cũng loan báo tin mừng : Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an. Thiên Chúa cũng nói với ông như nói với một vị tông đồ : Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi đến với dân này ? Và ông thưa : Dạ, con đây, xin sai con đi.

    Xin đừng ai nghĩ rằng tôi muốn tóm gọn nội dung cuốn sách này trong một bài giảng ngắn, vì cuốn Sách Thánh này chứa toàn bộ những điều bí nhiệm về Chúa. Sách tiên báo Đấng Em-ma-nu-en sinh bởi Đức Trinh Nữ, Đấng làm những việc lẫy lừng và những dấu lạ, Đấng đã chết, được mai táng và đã từ âm phủ trỗi dậy : Người là Đấng cứu độ muôn dân. Tôi nói gì được về môn vật lý, luân lý và luận lý ? Tất cả những gì thuộc Sách Thánh, những gì miệng con người có thể nói ra, giác quan có thể cảm nhận, đều được chứa trong sách ấy. Về những mầu nhiệm trong sách đó, thì chính tác giả làm chứng như sau : Đối với các ngươi, thị kiến toàn là những lời ghi trong sách niêm phong. Người ta trao sách cho kẻ biết đọc và bảo : “Đọc đi !” Nhưng hắn nói : “Đọc sao được, sách đã niêm phong rồi !” Lại đưa sách cho kẻ không biết đọc và nói : “Đọc đi !” Hắn liền bảo : “Tôi nào đâu biết chữ !”

    Nếu ai thấy điều nói trên là chưa đủ thì hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. Nếu có ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. Vì lý do gì họ có thể im được, bởi lẽ nói hay im là việc của Thánh Thần nói qua các ngôn sứ ? Vậy, nếu họ hiểu được những điều họ nói, thì tất cả những điều đó đều là khôn ngoan và hợp lý ; không phải là tiếng nói chuyển qua không khí đập vào tai họ, nhưng là tiếng Thiên Chúa nói trong tâm hồn các ngôn sứ, theo lời một ngôn sứ khác như sau : Thần sứ đang nói với tôi và Chúng ta được kêu lên trong lòng “Áp-ba, Cha ơi”, lại nữa Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán.

     

    Lời nguyện 

    Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh linh mục Giê-rô-ni-mô trí thông hiểu và lòng mến yêu Kinh Thánh, xin cho chúng con hằng thiết tha tìm đến lời Chúa là nguồn mạch ban sức sống dồi dào. Chúng con cầu xin

     

     

    --
     

 

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - HÀNH TRANG NGƯỜI TÍN HỮU

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Wed, Sep 23 at 1:56 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     
    5 PHÚT LÒI CHÚA

    23.09.20  THỨ TƯ TUẦN 15 TN

    Thánh Pi-ô Pi-et-ren-xi-na linh mục

    Lc 9,1-6

    HÀNH TRANG ĐI RAO GIÀNG/TÍN HỮU HÔM NAY

     

    Người nói: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo.” (Lc 9,3)

    Suy niệm/SỐNG: Chúa Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi rao giảng Nước Thiên Chúa, với  chỉ thị không mang cái này, đừng mang cái kia, ngay cả những hành trang thật cần thiết để sống hay đề phòng bất trắc trên đường như lương thực, tiền bạc, áo quần,v.v…

    Theo cái nhìn tự nhiên, Chúa có thử thách các môn đệ quá mức không khi Chúa giao cho họ sứ mạng mà không lo liệu những điều kiện thiết yếu để bảo đảm cuộc sống và giúp họ chu toàn sứ mạng? Chúa thử thách chăng? Tất nhiên là có. Nhưng Chúa vẫn luôn quan phòng vì trước đó Ngài đã ban cho các ông quyền năng để “trừ quỷ và chữa lành bệnh tật”.

    Còn nhớ sau này Ngài đã trả lời cho Phê-rô: Ai bỏ mọi sự mà theo Ngài “sẽ được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Lc 18,30).

    Mời Bạn CHIA SẺ: “Tự bản tính, Giáo hội là người được sai đi” (Vaticanô II, Sắc lệnh Truyền giáo, 2). Chúa cũng sai bạn ra đi, mời bạn mạnh dạn loan báo Tin Mừng.

    Chắc chắn bạn cũng gặp nhiều thử thách không kém các tông đồ ngày xưa. Nhưng bạn nhớ rằng Chúa vẫn luôn đồng hành, và chăm sóc. *Những phương tiện tự nhiên, của trần thế là cần thiết, nhưng hành trang mà Chúa trao cho bạn là sức mạnh và quyền năng từ Thiên Chúa và Tin Mừng cứu độ của Ngài.

    Sống Lời Chúa: Chu toàn việc bổn phận và chia sẻ phục vụ người nghèo với ý chỉ cầu nguyện cho việc truyền giáo.

    Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa mời gọi con loan báo Tin Mừng. Con tin sẽ không gặp thử thách quá sức, vì Chúa đã hứa: “Ơn Ta đủ cho con.” Amen.

    gpmytho