9. Đào Tạo Môn Đệ

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - YÊU THƯƠNG KẺ THÙ

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Sun, Sep 20 at 2:54 AM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng



     
     
    THƯƠNG YÊU CỨU KẺ THÙ

    DĨ ĐỨC BÁO OÁN

    Trong trận chiến tranh cách mạng Hoa kỳ, tại Pensylvania, mục sư Peter Miller rất được cộng đồng ái mộ. Nhưng trong xóm gần khu nhà thờ có một người láng giềng rất oán ghét và nhiều lần nhục mạ mục sư. Anh ta lại là người phản quốc nên bị tòa án Philadelphia kết án tử hình. Nghe tin ấy mục sư Miller vội vàng đi bộ tìm đại tướng George Washington xin ân xá cho tên tử tội. Đại tướng trả lời:

    -Tôi tiếc không thể thỏa đáp thỉnh nguyện của mục sư mà tha bổng cho người bạn thân của mục sư.

    - Đại tướng bảo là bạn thân của tôi à? Phải nói anh ta là một kẻ thù đê hèn nhất của tôi trên đời nầy?

    - Mục sư nói sao? Mục sư phải lội bộ cả 60 dặm để xin ân xá cho một kẻ thù? Thế thì là một chuyện khác, tôi vì mục sư ân xá cho phạm nhân.

    Cầm tờ giấy ân xá của tướng Washington ký, mục sư Miller tức tốc cuốc bộ 15 dặm để đến pháp trường. Thoạt trông thấy mục sư, tên tử tội bảo:

    - Kìa, tên Peter Miller đã lội bộ từ Ephrata đến đây đặng trả thù ta bằng cách khoái chí chứng kiến cảnh ta bị xử treo!

    Anh ta vừa dứt lời, thì mục sư Miller cũng vừa vạch được đám đông tới nơi, trao tận tay anh ta tờ ân xá của đại tướng Washington.

    Mục sư Peter Miller thi hành đúng phương châm dĩ đức báo oán theo gương cao cả của Đức Chúa Giêsu. Nhưng Đấng Cứu Thế đã đi một bước xa hơn, chẳng những cầu xin sự ân xá cho kẻ thù, mà chính Ngài chịu chết để đền tội cho những kẻ  phản bội. Kinh thánh chép: "Vả, họa mới có kẻ chịu chết vì người nghĩa, dễ thường cũng có kẻ bằng lòng chết vì người lành. Nhưng Đức Chúa Trời tó lòng yêu thương của Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết" (Rô 5.7,8).

    Ngàl đã vì những kẻ vả trên má Ngài kẻ đâm gươm vào sườn Ngài cho cả kẻ đóng đinh Ngài mà chịu đóng đinh trên thập tự. Ngài chết cho nhóm môn đệ trung thành, mà cũng chết cho tên môn đệ phản trắc Giuđa íchcariốt. Chúa dạy đạo" dĩ đức báo oán như vài giáo chủ khác, nhưng Ngài giảng cách có thẩm quyền, vì chính Ngài đã thực hành đạo ấy.

    Vì thế nên Đức Chúa Giêsu đã bảo các môn đệ Ngài rằng" Các ngươi có nghe lời phán rằng. Hãy yêu kẻ lân cận và hãy ghét kẻ thù nghịch mình. Song ta nói cùng các ngươi rằng: Hãy yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi" (Ma 5.43,44). Kẻ tiểu nhân tìm sự khoái trá trong sự phục thù, nhưng người quân tử tìm sự vui thỏa trong sự tha thứ.

    Người Ba Tư có câu ngạn ngữ. "Trong sự tha thứ có niềm vui mà người ta không tìm lại được trong sự phục thù" Baccon cũng nhận định tác động đê tiện hóa của hận thù và tính chất thăng hoa củûa lòng khoan hồng, nên viết. "Phục thù một người mới là ngang hàng với kẻ thù, nhưng bỏ qua được mối hận mới là cao thượng hơn cừu địch". 

     
    yeunhuchuayeu
     

 

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG GIÁO HỘI

  •  
    Hong Nguyen
     
    Thu, Sep 17 at 7:25 PM
     

    Phẩm giá phụ nữ - Lm. Huệ Minh

    NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG GIÁO HỘI



    Thứ Sáu 18/09/2020
    Tuần XXIV Mùa Thường Niên

    Lc 8, 1-3

    Sứ mệnh và loan báo sứ điệp Tin mừng, không chỉ dành riêng cho nam giới, MÀ GIÀNH CHO CẢ PHỤ NỮ TỪ THỜI CHÚA GIÊ-SU.

    Theo như thánh sử Luca hôm nay cho biết, thì trong đoàn truyền giáo của Chúa Giêsu, ngoài những môn đệ mà Chúa đã tuyển chọn, còn có các phụ nữ nữa. Như vậy chứng tỏ Chúa Giêsu tôn trọng phẩm giá người phụ nữ và đánh giá cao phần đóng góp của họ trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.

    Chúa Giêsu đã đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài tái lập con người trong tước phẩm cao trọng của con cái Chúa. Chính tước phẩm ấy là nền tảng sự bình đẳng của con người: nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, tất cả đều có một phẩm giá cao trọng như nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy trong thư Galata: "Không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, bởi vì tất cả là một trong Chúa Giêsu Kitô".

    Chúa Giêsu đã khẳng định sự bình đẳng của nữ giới không bằng tuyên bố suông, Ngài đã chứng minh điều đó khi để cho các phụ nữ gia nhập vào nhóm mười hai Tông đồ của Ngài. Sự bình đẳng, hay đúng hơn, phẩm giá của con người được thể hiện trước tiên qua hành vi phục vụ: càng phục vụ, con người càng chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình. Thật ra, đây cũng chính là nghịch lý chạy xuyên suốt Tin Mừng: càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất bản thân; trái lại, càng quên mình phục vụ, con người càng tìm lại bản thân và chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình.

    Chúng ta đã biết đến não trạng trọng nam khinh nữ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu. Những người phụ nữ không có chỗ trong đền thờ cũng như ở hội đường. Vì thế chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy trong số những người trở nên thân thiết với Chúa và cùng nhập đoàn với Người, ngoài nhóm Mười Hai, còn có cả những người phụ nữ mà đoạn Tin Mừng trích đọc hôm nay nêu đích danh. Họ không đi theo Chúa như là đám đông, nhưng là nhập đoàn cùng nhóm với Chúa và các tông đồ. Họ là thành phần tích cực và chủ động trong nhóm vì đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa và các môn đệ.

    Dưới áp lực của một xã hội trọng nam khinh nữ, các người phụ nữ này đã nhận ra sứ điệp giải phóng trong Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo. Họ đã nhận ra sự vô lý và bất công của não trạng kia và họ đến với Chúa Giêsu, nhập đoàn với Người và cộng tác với Người trong sứ mạng loan báo Tin Mừng giải thoát. Cũng chính họ sẽ là những người đầu tiên đón nhận và loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

    Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến công việc nặng nhọc của các bà đã lấy của cải mình giúp đỡ các Ngài.Thánh Lu-ca chắc hẳn lưu tâm đến thời cựu ước và trong nhiều nền văn minh khác, phụ nữ bị coi là thứ cấm kỵ, đối tượng của sức mạnh bí ẩn, bị khuất phục dưới thảm trạng bi đát bên lề. Người phụ nữ Samaria kêu lên ngạc nhiên khi Đức Kitô dám nói chuyện với mình. Tận nền vấn đề, Đức Kitô là Người bảo vệ đầu tiên vĩ đại, là người khởi động đầu tiên thăng tiến giải phóng phụ nữ. Các thầy khác thời người đã loại bỏ phụ nữ khỏi ảnh hưởng các đồ đệ của họ và tổ chức Do-thái giáo lúc đó không chấp nhận phụ nữ tham dự cộng đồng. Chỗ đứng của phụ nữ ở giữa dân ngoại và dân Is-ra-el!

    Tuy không được chọn làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ. Vai trò của họ lại càng quan trọng và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.

    Mãi đến thế kỷ 14, người ta vẫn còn xem người phụ nữ như một hạng người nguy hiểm, một cám dỗ triền miên, một tạo vật thấp hèn, hay cùng lắm chỉ là phương tiện để bảo tồn nòi giống. Một quan niệm và cung cách đối xử như thế đối với người phụ nữ vẫn còn rơi rớt trong thời đại chúng ta: trong biết bao xã hội hiện đại hôm nay, người phụ nữ vẫn còn bị phân biệt đối xử so với nam giới. Thời Chúa Giêsu, dĩ nhiên thân phận nữ giới còn bị xử tệ hơn. Sở dĩ người ta đã có những ý nghĩ xấu về những phụ nữ này, vì họ đã nhìn người phụ nữ như là hậu duệ của Eva, kẻ đã quyến rũ Adong ăn trái cấm, để rồi kéo cả nhân loại vào vòng tội lỗi.

    Thế nhưng, tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy cách cư xử của Chúa đối với nữ giới. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến, có người đã từng bị quỉ ám, bị người đời khinh khi, xua đuổi, bị dân chúng coi là những người tội lỗi, có mặt trong đoàn truyền giáo của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng trong Giáo hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ mà còn muốn đề cao sự bình đẳng của người phụ nữ, muốn giải phóng người phụ nữ khỏi suy nghĩ hạn hẹp của những người đương thời.

    Đối với Đức Giêsu, mọi người bất luận là ai, cũng đều được mời gọi để loan báo Tin Mừng qua cách sống cũng như qua giới tính của mình. Mỗi phần tử trong Giáo Hội đều có một chỗ đứng, một vai trò riêng. Tất cả đều bổ túc cho nhau, để cùng nhau phục vụ hầu mở mang Nước Chúa. Trong chiều hướng tư tưởng này, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội ý thức và dấn thân cho công việc truyền giáo, không phân biệt giới tính, địa vị, giai cấp, khả năng...tất cả là vì tin mừng Chúa Kitô.

    Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta có một quan niệm đúng đắn hơn về người nữ để biết tôn trọng, yêu thương họ. Đồng thời chúng ta cũng cầu xin cho chính những người phụ nữ biết ý thức được phẩm giá cao quý của họ, hầu sống xứng đáng và góp phần tích cực vào những công việc tông đồ trong Giáo hội.

    Lm. Huệ Minh
    Kính chuyển:
    Hồng
     

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ- CHÀNG RỂ GIÊ-SU

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, Sep 4 at 9:31 AM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    5 PHÚT LỜI CHÚA
    04.09.20  THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 22 TN

    Lc 5,33-39

    CHÀNG RỂ GIÊ-SU

     

    Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ?” (Lc 5,34)

    Suy niệm/SỐNG: Nhiều lần Chúa Giê-su dùng hình ảnh tiệc cưới, đặc biệt qua các dụ ngôn, để nói về Nước Trời, mà trong đó Ngài là chàng rể, nhân vật chính của tiệc vui ấy; cũng tại bữa tiệc đó, mọi dân tộc, không riêng gì dân Do Thái, đều là khách quý.

    Gio-an Tẩy giả, vị Tiền hô của Đấng Cứu thế, cũng “vui mừng hớn hở” được là “bạn của chàng rể Giê-su.” Bản thân mình “lu mờ đi”, nhưng Gio-an vui vì mình được “nghe tiếng nói của chàng rể;” và “vui trọn vẹn” vì “Ngài được nổi bật lên” (x. Ga 3,28-30).

    Niềm vui cứu độ ấy phải toả lan cho mọi người: Niềm vui được hồi phục nhân phẩm, niềm vui được làm bạn với Đức Ki-tô, và trên tất cả, được làm con cái Thiên Chúa.

    Trong phép lạ “đầu tay” tại tiệc cưới Cana, tuy Chúa Giê-su không tuyên bố nhưng Ngài đã ngầm báo trước sứ vụ cứu thế của Ngài là đem lại niềm vui, “niềm vui trọn vẹn” cho muôn người, niềm vui vì được cứu độ.

    Mời Bạn CHIA SẺ: Ki-tô giáo là đạo của Tin Mừng, của niềm vui. Khi ví mình là chàng rể, Chúa Giê-su muốn nói Hội Thánh tại thế chính là Tiệc Cưới Nước Trời đã khởi đầu, nơi đó những khách mời được tràn đầy hoan lạc, niềm hoan lạc phải được chia sẻ cho nhau để được hưởng trọn vẹn trên Thiên quốc.

    *Bạn đã ý thức và hành động để làm chứng cho “niềm vui của Tin Mừng” chưa?

    *ĐGH Phan-xi-cô: “Có những Ki-tô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục Sinh” (số 6)?

    Sống Lời Chúa: Hôm nay, tôi quyết làm việc phục vụ để đem niềm vui cho gia đình, cho cộng đoàn tôi đang sống.

    Cầu nguyện: Đọc kinh Kính Mến VỚI CẢ TRÁI TIM.

     gpmytho
     

 

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - KITO HỮU TRUYỀN LỬA YÊU THƯƠNG

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, Sep 4 at 9:33 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    KITÔ HỮU - NGƯỜI TRUYỀN LỬA YÊU THƯƠNG

    CỦA CHÚA CHO THẾ GIỚI

     

          Mỗi Kitô hữu chúng ta là một phần tử của Hội thánh Chúa nên đều được ơn gọi chia sẻ sứ mệnh truyền giáo của Hội thánh vì bản chất của Hội thánh Chúa Kitô là truyền giáo (Vat II, AG 2).

     

     

          Đức Giám mục GB. Bùi Tuần (Gp. Long Xuyên), trong bài viết có tựa đề “Trăn trở về cách giới thiệu Tin Mừng” đã chia sẻ như sau:

     

         “Thực vậy, theo dõi thời sự những dấu chỉ về Nước Trời trong nhân loại nói chung và tại Việt Nam nói riêng, tôi nhận ra nhiều người tốt việc tốt trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Chân thiện mỹ không bị nhốt trong ranh giới một dân tộc, một tôn giáo, một nền văn hóa. Khắp nơi vẫn lấp lánh những gương sáng về những giá trị thiêng liêng cao cả, như khiêm nhường, bao dung, tinh thần trách nhiệm, chân thành, trung thực, bác ái, công bình, chiêm niệm, dũng cảm.

     

          Và điều làm tôi ngỡ ngàng hơn cả, đó là con người thời nay không còn dễ được thuyết phục bởi những lý thuyết hứa hẹn, những hội nghị long trọng, những cuộc lễ lớn, những nghi thức và biểu tượng đẹp. Trái lại, yếu tố chinh phục họ nhất chính là những con người sống quyết liệt với những giá trị cao. Họ đi tìm những người như thế. Cái phao đời họ là những người như vậy.

     

          Theo tôi, những người có giá trị cao hơn hết đang được đa số khâm phục chính là những ai luôn phấn đấu tự đào tạo nên người có bản lãnh, biết phân định thực hư, dám từ bỏ mình vì ích chung, đầy lửa thương cảm đối với con người, nhất là đối với kẻ nghèo khổ. Đôi khi tôi có cảm tưởng thứ tình yêu được tô luyện bằng hy sinh có một vận tốc thiêng liêng tựa như ánh sáng, và có thể tạo ra một thứ năng lượng tâm lý khổng lồ.

     

         Chính những người mang lửa đó sẽ góp phần lớn trong việc đổi mới đất nước và Hội Thánh.”[1]

     

         Mỗi Kitô hữu chúng ta là một phần tử của Hội thánh Chúa nên đều được ơn gọi chia sẻ sứ mệnh truyền giáo của Hội thánh vì bản chất của Hội thánh Chúa Kitô là truyền giáo (Vat II, AG 2).

     

         Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh, truyền giáo là loan truyền tình thương của Thiên Chúa đến với con người.

     

         Ngài nói: “Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội cốt yếu là loan truyền tình yêu, lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được mạc khải cho nhân loại qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó chính là việc loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa yêu chúng ta và muốn mọi dân tộc hiệp nhất trong lòng thương xót yêu thương của Người[2]

     

         Trong dịp khác, Đức thánh Giáo hoàng cũng nói rằng truyền giáo là chia sẻ quà tặng “Đức Giêsu Kitô” mà Giáo Hội nhận được.

     

         Ngài nhấn mạnh, “Điều phân biệt Giáo Hội với những cộng đồng tôn giáo khác, đó là Giáo Hội tin vào Chúa Giêsu Kitô, và Giáo Hội không thể giấu ánh sáng quí báu đức tin dưới cái thùng (Mt 5,15), bởi Giáo Hội có sứ mạng chia sẻ ánh sáng đó với mọi người. Giáo Hội muốn dâng tặng đời sống mới Giáo Hội đã gặp được trong Chúa Giêsu Kitô, cho tất cả các dân tộc tại Á Châu, khi họ tìm kiếm sự viên mãn của sự sống, để họ có thể hiệp thông với Chúa Cha và Con Người là Chúa Giêsu Kitô trong quyền năng Chúa Thánh Thần”.[3]

     

         Vậy có thể nói rằng, Kitô hữu chúng ta là người có sứ mệnh đem lửa đến trong thế giới mà mình đang sống. Đây là lửa yêu thương, lửa đồng cảm, lửa huynh đệ, lửa tha thứ, lửa chia sẻ, lửa ủi an, lửa hòa bình, lửa tin tưởng, lửa hi vọng, lửa hiệp thông…

     

         Trong thế giới đầy bất an vì hận thù, chia rẽ và tội ác, người Kitô cần mạnh dạn sống và làm chứng Tin Mừng bằng cách biết nói không với vô cảm, biết đem đạo vào đời và hết lòng thực thi bác ái, vì bác ái là một thứ ngôn ngữ đặc thù của việc loan báo Tin Mừng.

     

         1- KITÔ HỮU – NGƯỜI BIẾT NÓI KHÔNG VỚI VÔ CẢM

     

         Ngày nay, khái niệm “Vô cảm” đã trở nên quá quen thuộc đối với mỗi người trong chúng ta. Thông tin báo chí, mạng xã hội đăng tải thường xuyên những câu chuyện về thái độ vô tâm và vô cảm của con người. Vô cảm đã trở thành căn bệnh nghiêm trọng, có sức lây lan mạnh mẽ trong gia đình, trong khu xóm và trong cộng đồng xã hội.

     

        Một bài báo có tựa đề “Căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay”, tác giả đã viết như sau: “Bệnh vô cảm là căn bệnh tâm hồn của những người có trái tim lạnh giá, không xúc động, sống ích kỷ, lạnh lùng. Họ thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi bất hạnh, không may của những người sống xung quanh mình.

     

         Hầu như căn bệnh này ngày càng phát triển nhanh chóng hơn, bởi cuộc sống quá hiện đại, đồng tiền được đưa lên hàng dẫn đầu, lợi ích cá nhân chứ không còn lợi ích của tập thể nữa. Họ thờ ơ với cảm xúc của họ, với những cái đẹp-xấu, thiện-ác, với các hoàn cảnh khó khăn cần được giúp đỡ. Không đâu xa, thậm chí ngay cả trong gia đình họ hàng còn vô cảm với chính những người thân ruột thịt của họ. Thử hỏi những việc nhỏ nhặt như thế họ còn không để tâm đến thì lấy đâu mà bỏ thời gian công sức của bản thân đi lo lắng những việc tưởng chừng như cao cả nhưng lại rất đỗi giản đơn.”[4]

     

         Người Kitô hữu chúng ta, nếu không khôn ngoan và tỉnh thức, thì cũng dễ rơi vào tình trạng nhiễm bệnh vô cảm một cách mãn tính, tức là khó chữa, khó sửa, khó nhận ra. Ở trong gia đình, con cái vô tâm với cha mẹ, vợ chồng lạnh nhạt với nhau, ông bà cha mẹ không quan tâm tới con cháu. Trong cộng đoàn, chúng ta coi nhau như người dưng nước lã, trong khi Lời Chúa và Hội thánh thì nhắc nhở chúng ta là chi thể trong cùng một Thân Thể thuộc về đầu là Đức Kitô. Trong xã hội, chúng ta dửng dưng trước mọi biến cố, mọi tai họa, mọi đổi thay, mọi đe dọa, mọi bất công, mọi bất hạnh… làm như thể chúng ta là “người ngoài hành tinh” rơi xuống vậy!

     

         Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 14-7-2019, dựa trên đoạn Tin Mừng về người Samari nhân hậu, Đức thánh cha Phanxicô đã đề cao tấm gương của lòng thương xót của người Samari này và mời gọi các tín hữu hãy trở nên môn đệ của Chúa qua việc yêu thương anh em, vì yêu tha nhân là yêu Chúa.

     

         Đức thánh cha cũng đã nhắc các tín hữu đừng để mình bị sự vô cảm ích kỷ lôi kéo. Ngài nói: “Nếu bạn đứng trước một người hoạn nạn mà bạn không có lòng thương xót, nếu trái tim bạn không rung động, thì có nghĩa là có điều gì đó không ổn. Bạn hãy chú ý, chúng ta phải để ý. Đừng để chúng ta bị sự vô cảm ích kỷ lôi kéo. Khả năng thương xót trở thành hòn đá thử vàng của Kitô hữu, đó là giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là lòng trắc ẩn của Chúa Cha đối với chúng ta. Nếu bạn đi xuống phố và thấy một người đàn ông vô gia cư đang nằm đó, và bạn đi qua mà không hề nhìn anh ta, hoặc có lẽ bạn nghĩ: “Chà, tác dụng của rượu. Một người say rượu”. Đừng tự hỏi xem người đàn ông đó có say không; hãy tự hỏi xem trái tim bạn có bị chai cứng không, trái tim bạn có trở thành băng giá không.”[5]

     

         Linh mục Giuse Nguyễn Trọng Viễn OP, trong bài viết có tựa “Vô cảm!”, đã chia sẻ như sau:

     

         “Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người ngày càng ít yêu thương nhau, ít quan tâm đến nhau và sâu xa hơn đó là hiện tượng đui mù và câm điếc trước nỗi đau của đồng loại.

     

         Ngày nay, vô cảm dường như đã trở thành một căn bệnh âm ỉ và nhức nhối của xã hội, đồng thời có sức lây nhiễm cao vì nó đang len lỏi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, căn bệnh này không chỉ đơn thuần tồn tại trong một tầng lớp nào nhưng đã trở thành căn bệnh của quần chúng hay có thể nói đó là mặt trái của lối sống hiện đại.

     

         Có rất nhiều lý do để giải thích cho thái độ dửng dưng vô cảm, một trong những lý do của căn bệnh này xuất phát từ tâm lý “sợ”. Sợ cái ác, sợ kẻ gian, sợ trách nhiệm, sợ liên lụy đến bản thân, sợ bị lừa đảo vv... Vô cảm còn là hậu quả của lối sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa vật chất và lợi ích cá nhân theo kiểu “không phải chuyện của tôi” ngày càng bám rễ sâu vào hệ tư tưởng của con người ngày nay.

     

         Nhưng thật ra, mầm mống sâu xa của căn bệnh vô cảm chính là cách giáo dục từ trong gia đình. Không ít bậc cha mẹ dạy con theo kiểu triết lý “makeno” (mặc kệ nó) để tránh dính dáng đến người khác, tránh liên lụy bản thân. Triết lý sống này cũng được người lớn áp dụng trong cách cư xử với nhau để được an toàn, thậm chí còn tồn tại thứ “vô cảm thấp hèn” lợi dụng tai họa của người khác để trục lợi cho bản thân. Gần đây, tình trạng “hôi của” trong nhiều vụ tai nạn đã xảy ra cách công khai. Một số người chẳng những không giúp đỡ mà còn lợi dụng cảnh hỗn loạn sau tai nạn để xông vào nhặt ví tiền, tư trang, túi xách... của nạn nhân.

     

         Ngoài ra, bệnh vô cảm còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân tương tác lẫn nhau trong xã hội. Trong xã hội hiện đại con người sống quá lý trí, tương quan giữa người với người ngày càng được chuẩn hoá, mọi vấn đề phải được giải quyết rõ ràng, nhưng đôi khi cái lý có thể lấn át cả cái tình. Mặt khác, nếu con người sống trong một xã hội không có một trật tự đúng đắn, họ nhận thấy sự hiện diện cũng như công việc của mình có thể bị đe doạ, thì mỗi cá nhân sẽ hình thành bản lĩnh đối phó và bộc lộ khuynh hướng ích kỷ tiềm tàng. Từ đó tạo điều kiện dung dưỡng căn bệnh vô cảm.

     

         Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong thông điệp “Thiên Chúa Giàu Lòng Từ Bi Thương Xót” đã nói rằng : “Có một danh hiệu thứ hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu (từ bi thương xót). Vì lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình yêu; nó như là danh hiệu thứ hai của tình yêu”.”[6]

     

         Đạo của Chúa là đạo yêu, do đó bất cứ trong hoàn cảnh nào, người Kitô hữu cũng phải biết nói “Không” với thái độ và lối sống vô cảm. Đại thi hào Voltaire đã nói: “Thiên đàng được tạo ra cho những trái tim nhân hậu, địa ngục được tạo ra cho những trái tim vô cảm”.

     

         2- KITÔ HỮU - CHỨNG NHÂN TIÊU BIỂU CỦA LÒNG MẾN KITÔ GIÁO

     

         Cách đây ít lâu, trên trang Tuổi Trẻ Online (TTO) có đăng bài “Ca đoàn vi vu khắp nơi để lan tỏa yêu thương”. Bài báo cho biết TP.HCM có một ca đoàn rất thú vị: bỏ tiền túi, cùng nhau tổ chức hàng trăm chuyến đi tới những nơi hẻo lánh, khó khăn nhất, không chỉ mang quà tặng mà còn mang tiếng hát xoa dịu nỗi vất vả, nhọc nhằn của những mảnh đời bất hạnh.

     

         Đó là ca đoàn có cái tên khá đặc biệt: “Thông Vi Vu”- là nghệ danh của Đức cố Giám mục Phan Thiết Giuse Vũ Duy Thống. Ca đoàn do anh NLL, chồng của ca sĩ MT - thành viên nhóm tam ca Áo Trắng - làm đoàn trưởng.

     

         Một đại diện của ca đoàn nói rằng, họ muốn mang đến không khí vui vẻ cho người nghèo khó, muốn xoa dịu sự vất vả, nhọc nhằn của họ, muốn trao tận tay món quà để yên tâm nên mới chịu cực đến tận nơi. Làm thiện nguyện không phải đơn giản cứ móc tiền ra là được. Phải gửi tới được những người thực sự cần thì đồng tiền mình giúp mới ý nghĩa.

     

         Được biết, cho đến nay, ca đoàn đã thực hiện hơn trăm chuyến đi đến những nơi thiệt thòi nhất.

     

         Ca đoàn hiện có hơn trăm ca viên. Đặc biệt, trong số các thành viên có những người của tôn giáo bạn: Phật giáo, Cao Đài... Ca đoàn quy tụ nhiều thành phần gồm doanh nhân, công nhân, công chức, giáo viên, bác sĩ và những bạn sinh viên... Và hiện có hơn 20 thành viên đang sinh sống ở nước ngoài, không còn sinh hoạt nhưng vẫn theo dõi các hoạt động của ca đoàn, thường xuyên ủng hộ vật chất mỗi khi ca đoàn có chuyến đi thiện nguyện vùng sâu vùng xa.

     

         Mỗi tháng, các thành viên tự nguyện đóng vào quỹ sinh hoạt bác ái hai trăm nghìn đồng. Nhờ nguồn tiền ấy, đã có hơn trăm chuyến đi trong suốt nhiều năm qua tới những vùng hẻo lánh, khó khăn nhất của đất nước không chỉ để hát thánh ca mà còn kết hợp làm việc bác ái xã hội.

     

         Có những nơi, từ nhà thờ lên các buôn làng, mọi người phải đi bộ tiếp hàng tiếng đồng hồ. Đường đồi núi lại sình lầy, trơn trượt. Mọi người phải chuyền tay nhau từng thùng quà suốt đoạn đường dài mấy kilomet. Ngoài ra, ca đoàn còn tổ chức các buổi phát thuốc, khám chữa bệnh miễn phí và hớt tóc cho các bé trong buôn làng.

     

         Anh đoàn trưởng ca đoàn đã tâm sự: “Tôi xuất thân từ một đứa trẻ đường phố, thấu hiểu được nỗi xót xa đau khổ của sự thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, đã từng ước mơ và khao khát có ai đó quan tâm đến mình dù chỉ là một lời an ủi hay một mẩu bánh thừa, may mắn là bây giờ tôi đã tìm được những người anh em đồng cảm với mình để cùng tạo niềm vui cho nhau qua những việc làm sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh hơn mình”.[7]

     

         Quả thực, các thành viên trong ca đoàn kể trên đã là những chứng nhân tiêu biểu của lòng mến Kitô giáo. Hát thánh ca cũng là phục vụ, nhưng làm việc thiện nguyện càng làm nỗi vượt sứ mệnh của người Kitô hữu, đó là làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nhiệm vụ truyền giáo của mỗi người chúng ta.

     

         Chúng ta biết rằng một trong những cách thức hiệu quả nhất của việc truyền giáo bằng đời sống chứng tá, đó chính là nêu gương đời sống bác ái.

     

         Truyền giáo bằng những việc làm cụ thể, bằng chính đời sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta đến thăm viếng những người già, người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi trong xã hội. Chúng ta giúp đỡ họ, an ủi họ. Qua những việc làm cụ thể, họ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì, lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Những hành vi bác ái cụ thể là những bài giảng hùng hồn nhất về Thiên Chúa. Đây là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất.

     

         Ngạn ngữ La-tinh có câu “Amor vincit omnia”, nghĩa là lòng yêu mến/ tình yêu chiến thắng tất cả. Thánh sử Gio-an đã nhấn mạnh về mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương nhân loại: “Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1).

     

         Yêu đến hơi thở cuối cùng, yêu đến nỗi chấp nhận hủy mình ra không, yêu mà không còn giữ lại cái gì cho mình kể cả mạng sống, yêu tuyệt đối và tận cùng…không có tình yêu nào lớn hơn!

     

         Khi dịch Covid-19 xảy ra (khoảng tháng 12-2019), rất nhiều người trong chúng ta hoảng sợ, chạy trốn vì nó quá kinh khủng, nó lây lan rất nhanh, từ người qua người và tỷ lệ tử vong cao. Tuy nhiên không phải ai cũng lo sợ và chạy trốn nó.

     

         Theo tin cho biết, tính đến ngày 15-4-2020, ước tính có 109 linh mục ở Ý đã chết vì Covid-19, nhiều vị trong số đó đã bị nhiễm virus từ những bệnh nhân mà các ngài phục vụ.

     

         Trong Thánh Lễ Tiệc Ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh năm 2020, Đức thánh cha Phanxicô đã tôn vinh các linh mục này như “những vị thánh” bên cạnh chúng ta.

     

         Theo tờ New York Times, các linh mục và tu sĩ, “đặc biệt là các vị ở những khu vực bị nhiễm virus corona nặng như Bergamo, đã mạo hiểm cuộc sống của họ, để đáp ứng nhu cầu tâm linh cho các tín hữu sùng đạo và lớn tuổi, vốn bị virus corona tấn công mạnh nhất”.

     

         Chỉ riêng Giáo phận Bergamo đã mất 24 linh mục trong vòng 20 ngày. Khoảng một nửa trong số đó là các linh mục đã nghỉ hưu, nửa còn lại là các linh mục đang hoạt động. Số linh mục còn sống vẫn tiếp tục mục vụ chăm sóc cho các bệnh nhân. Theo tờ Times, các linh mục này “buồn lòng vì không thể đến gần các bệnh nhân, buồn vì thấy cảm giác cuối cùng mà người tín hữu cảm nhận được là một cái chạm với đôi găng tay, và buồn vì gương mặt cuối cùng mà các bệnh nhân nhìn được là gương mặt trong điện thoại”. Cũng theo báo Times, “Virus corona đã tách biệt vợ chồng, con cái trong một gia đình, rồi giết chết họ. Vì thế, các linh mục này rất đau đớn khi phải xa cách đàn chiên trong lúc các con chiên đang rất cần các ngài”.

     

         Đức Giám mục của Bergamo, Francesco Beschi, cho biết: “Rất nhiều linh mục đã chấp nhận nguy hiểm để gần gũi với đàn chiên của mình. Con số lớn các linh mục bị nhiễm virus là một dấu chứng rõ ràng của sự gần gũi, của sự chia sẻ trong đau khổ với đàn chiên”.

     

         Avvenire, tờ báo chính thức của các giám mục Ý, đã xác định một số đặc điểm chung của các linh mục đã chết như sau:

     

         “Hầu hết các linh mục đã chết do nhiễm virus corona là vì các ngài vẫn ở giữa mọi người thay vì tự cứu chính mình. Các ngài cố gắng ở lại lâu dài với đàn chiên để phục vụ như những người gìn giữ các ký ức được chia sẻ, đó là một sự tham dự vào dòng chảy của chứng tá và các giá trị qua các thế hệ”.

     

         Sự hiện diện của các mục tử “thật quý giá và không thể thiếu, các tín hữu khám phá ra điều đó đặc biệt trong hoàn cảnh bị cách ly, và khi cái chết đã cướp đi khỏi họ những vị mục tử luôn chân tình, gần gũi và sẵn sàng hiến thân vì họ”.[8]

     

         Những gương sáng về sự hy sinh quên mình phục vụ bất chấp sự nguy hiểm tột cùng của virus corona thì rất nhiều không sao kể hết. Bên cạnh những người mà chúng ta biết được, còn có rất nhiều tấm gương khác, đó là những người sống âm thầm, phục vụ âm thầm và chết âm thầm.  

     

         Quả thực, lòng mến đã không bị “cách ly” bởi dịch bệnh, như lời thánh Phaolô đã quả quyết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35) ./.

    Aug. Trần Cao Khải

     

     
     

 

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - THỨ NĂM CN22TN-A

  •  
    Hong Nguyen
     
    Wed, Sep 2 at 3:04 PM
     
     


    Suy Niệm Thứ Năm Tuần XXII Thường Niên A - GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

    Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Luca (Lc 5: 1-11)

                              ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ
     

    1Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. 4Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. 5Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. 6Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. 8Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” 9Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. 11Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người. 

    Suy niệm/SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA

    Sứ điệp trang Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một điều thật kỳ lạ: Thánh Phêrô - một người ngư phủ rất bình thường, bình thường như bao nhiêu người ngư phủ thời bấy giờ, không địa vị, không quyền hành, càng không phải là một nhân vật thế giá trong xã hội Do Thái - vậy mà được chính Chúa Giêsu tín nhiệm và bổ nhiệm vào một chức vụ phi thường.

    Chức vụ này lẽ ra phải được trao cho một nhân vật nào đó xứng tầm, với một bụng đầy chữ nghĩa, một kho lẫm đầy châu báu, chứ sao lại trao cho Phêrô, một người quanh năm chỉ biết chiếc thuyền, cái lưới, mình đen nhẽm có khi tay chân xù xì, đầy phèn chua, teo tóp. 

    Thiên Chúa luôn có những sáng kiến dị thường cùng với những quyết định lạ thường là thế đó. Ngài luôn biến những cái từ cái tầm thường rồi làm nên những cái phi thường, khiến chúng ta không sao hiểu nỗi.

    Phêrô tuy tầm thường, nhưng trong bàn tay Chúa ông trở nên vĩ đại. Chúa trao cho ông chính quyền năng của Người. Phêrô đã cảm phục Chúa, khi chứng kiến bao nhiêu sự kỳ diệu và quyền năng mà Chúa đã thực hiện. 

    Chúa Giêsu đã dẫn Phêrô đi từ hết ngỡ ngàng này sang ngỡ ngàng khác, một sự kỳ diệu đến nỗi kinh hoàng trước mẽ cá, khiến cho Phêrô cảm thấy mình quá nhỏ bé bất xứng trước một Thiên Chúa quá vĩ đại phi thường, khiến ông phải thốt lên: “Lạy Thầy, xin hãy xa tôi vì tôi là người tội lỗi”. Chính khi Phêrô cảm nhận mình là người tội lỗi, thì cũng là lúc ông được gần Chúa hơn cả; càng thấy mình tội lỗi Phêrô lại càng thấy mình cần ơn Chúa hơn bao giờ hết. Và khi Chúa Giêsu nói với Phêrô: “đừng sợ”, thì Người đã tỏ bày sự tin tưởng, ký thác trọng trách cho Phêrô: “con sẽ đi lưới người như lưới cá”. 

    Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi, tuyển chọn để làm ngôn sứ của Chúa, không phải vì chúng ta tài ba xuất chúng, nhưng vì sự nhỏ bé và tín thác vào Chúa nơi thân phận yếu đuối của mình, hãy học lấy bài học quý giá từ thánh Phêrô để chúng ta cũng xứng đáng trở thành người được Chúa tín nhiệm và sai đi làm chứng cho Ngài.

    Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con luôn biết hạ mình, khiêm nhường và tin tưởng vào Chúa như thánh tông đồ Phêrô năm xưa. Amen.
     

    GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
    Kính chuyển:
    Hồng