14. Cảm Nghiệm Tình Chúa Yêu Tôi

CẢM NGHIỆM TÌNH CHÚA YÊU TÔI - THỨ BA 31-12-2019

  •  
    Tinh Cao - Dec 30 at 6:31 PM
     
     

    31/12

     

    LẮNG NGHE Lời Chúa

    CẢM NGHIỆM TÌNH CHÚA YÊU TÔI

     

    Bài Ðọc I: 1 Ga 2, 18-21

    "Các con được Ðấng Thánh xức dầu, và các con biết mọi sự".

    Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

    Hỡi các con, đây là giờ sau hết. Các con đã nghe biết là sẽ có Phản-Kitô đến, thì nay đã có nhiều Phản-Kitô xuất hiện, do đó chúng ta biết rằng đây là giờ sau hết. Họ ở giữa chúng ta mà ra, nhưng không thuộc về chúng ta, vì nếu họ thuộc về chúng ta, thì họ vẫn còn ở với chúng ta. Như vậy để chứng tỏ rằng không phải tất cả mọi người đều thuộc về chúng ta.

    Còn các con, các con được Ðấng Thánh xức dầu, và các con biết mọi sự. Ta viết cho các con, không phải vì các con không biết sự thật, nhưng vì các con biết sự thật, và phàm là dối trá thì không (thể) do sự thật mà có.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 95, 1-2. 11-12. 13

    Ðáp: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).

    Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người, ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. - Ðáp.

    2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui, các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.

    3) Trước nhan Thiên Chúa, vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh, và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

     

    Alleluia: Dt 1, 2

    Alleluia, alleluia! - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Ga 1, 1-18

    "Ngôi Lời đã làm người".

    Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

    Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

    Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

    Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác.

    Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Image result for John 1, 1-18

     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ

    NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI

     

      Emmanuel nguyên thủy   

     

    Hôm nay là ngày 31/12, ngày cuối cùng trong một năm về dân sự, cũng là ngày thứ 7 trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Trong khi Bài Đọc 1 tiếp theo những gì của Bài Đọc 1 hôm qua thì Bài Phúc Âm hoàn toàn khác hắn, bài Phúc Âm trích lại tất cả đoạn nhập đề Phúc Âm của Thánh ký Gioan về "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14).

     

    Vấn đề đầu tiên được đặt ra ở đây là tại sao vào chính ngày cuối năm dân sự mà Giáo Hội lại chọn đọc một bài Phúc Âm có câu mở đầu hoàn toàn có ý nghĩa ngược lại, đó là câu: "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa"? Một đàng thì cuối năm theo dân sự nhưng lại "từ nguyên thủy" theo phụng vụ vào ngày 31/12 nghĩa là gì? 

     

    Ý nghĩa của vấn đề này có thể hiểu như sau: 1- thời gian một khi đi đến tận cùng thì trở về nguồn cội, về lại với nguyên thủy; 2- một ngày đối với Thiên Chúa được bắt đầu từ "một buổi tối và một buổi sáng" (Khởi Nguyên 1:5,8,13,19,23), chứ không phải từ sáng đến tối theo thể lý - phải chăng đó là lý do Lễ Chúa Nhật hằng tuần được bắt đầu từ chiều tối hôm trước, và Đại Lễ Giáng Sinh và Đại Lễ Phục Sinh được bắt đầu từ na đêm, hay Lễ Mẹ Thiên Chúa là ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh lại là ngày đầu năm dương lịch; 3- dù thời gian có qua đi những Thiên Chúa vẫn muôn đời tồn tại vô cùng vô tận. 

     

    Đúng thế, bài Phúc Âm cho ngày cuối cùng của một năm dân sự này về Ngôi Lời, một Ngôi Lời hằng hữu, một Ngôi Lời nhập thể và một Ngôi Lời thông ban.

     

    Một Ngôi Lời hằng hữu: "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không át được sự sáng".

     

    Đoạn đầu tiên trong 3 đoạn mở đầu của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: trước hết là bản tính thần linh của Lời - ở chỗ Lời có trước thời gian (chứ không phải Lời được tạo dựng trong thời gian), Lời hiện hữu nơi Thiên Chúa (vì Lời là chính ý nghĩ về mình của Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa) và Lời là chính Thiên Chúa (Đấng tự hữu, hiện hữu và hằng hữu); sau nữa, chính vì bản tính thần linh của mình như thế mà Lời chính là nguyên lý tạo dựng nên mọi sự và là nguyên lý cho sự hiện hữu của tất cả mọi sự không phải là Thiên Chúa hay ngoại tại với Thiên Chúa; và sau hết cũng chính vì bản tính thần linh của mình mà Lời có sự sống thần linh để có thể tỏ mình ra và thông ban.

     

    Một Ngôi Lời tỏ mình"Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra".

     

    Vì Lời, đối ngoại, là "sự sáng chiếu soi trong u tối" mà "Người vẫn ở trong thế gian", qua các nguyên tắc bất biến về luân lý hay qua các mầm mống thần linh nơi các đạo giáo, và cho dù "thế gian đã do Người tác tạo", nhưng "thế gian đã không nhận biết Người". Đối với dân riêng Do Thái của mình, "Người đã đến nhà các gia nhân Người", ở chỗ Người đã tỏ mình ra cho họ trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, nhưng tiếc thay "các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người", thậm chí còn sát hại Người nữa. Trái lại, "kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa", nghĩa là được tái sinh bởi trời: "do Thiên Chúa mà sinh ra".

     

    Một Ngôi Lời thông ban: "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.... Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta"

     

    "Khi đến thời gian viên trọn" (Galata 4:4) thì "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể" là Đức Giêsu Kitô, "và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi" như một Hài Nhi Giêsu ở Belem, một Thiếu Nhi ở Giêrusalem, một Thanh Niên ở Nazarét, một Đấng Thiên Sai đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ, không phải để luận tội mà là để cứu độ, nhờ đó "chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý", Đấng "tỏ Cha ra" bằng việc tuân phục ý Cha là Đấng đã sai Người, "để khi hoàn tất Người đã trở nên căn nguyên cứu độ cho những ai tín phục Người" (Do Thái 5:9). 

     

    Bài Đọc 1 hôm nay, 31/12, khác hẳn với Bài Phúc Âm cùng ngày hôm nay, ngày cuối cùng của năm dương lịch, ở chỗ, ngay câu mở đầu của Bài Đọc 1 hôm nay, trích từ Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan, là thế này: "Hỡi các con, đây là giờ sau hết", mà ngày 31/12, ngày cuối cùng của một năm là tiêu biểu.

     

    Thế nhưng, làm sao biết được "đây là giờ sau hết", nếu không phải, như Bài Đọc 1 hôm nay tiết lộ và khẳng định, có thể căn cứ vào hiện tượng "đã có nhiều Phản-Kitô xuất hiện, do đó chúng ta biết rằng đây là giờ sau hết". Thành phần "phản kitô" này là ai, nếu không phải là những người "xuất phát từ hàng ngũ của chúng ta nhưng không thuộc về chúng ta", bởi họ "chối bỏ Chúa Kitô đến trong xác thịt" (2Gioan 7), tức chối bỏ "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14). 

     

    Hiện tượng xuất hiện "kitô giả" hay "phản kitôlà thành phần chối bỏ Chúa Kitô, chối bỏ sự thật, là hiện tượng chẳng những cho thấy ngày cùng tháng tận mà còn cho thấy càng tiến đến ngày cùng tháng tận con người càng sống trong tăm tối, và vì thế họ càng phải được soi sáng bởi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9) là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), Đấng "đã có từ nguyên thủy", Đấng bất biến cho dù thế gian có qua đi, và là Đấng sẽ canh tân tất cả mọi sự thành một trời mới đất mới là nơi Thiên Chúa muôn đời ngự trị (xem Khải Huyền 21:1-5), nơi không còn đêm và cửa không bao giờ đóng (xem Khải Huyền 21:25).

     

    Vì Thiên Chúa là Đấng hiện hữu, không bao giờ qua đi, luôn mới mẻ, nhất là cho những ai cởi mở đón nhận Ngài và đáp ứng tác động thần linh của Ngài, mà Ngài phải được vũ trụ và địa cầu cùng nhau ngợi khen chúc tụng, như trong Bài Đáp Ca hôm nay:

     

    1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người, ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. 

     

    2) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui, các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. 

     

    3) Trước nhan Thiên Chúa, vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh, và chư dân cách chân thành.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     GS.Ngay31-12.mp3

     

     

    31/12 Thánh Silvestrê I, Giáo Hoàng (270-335)

     

    Thánh Silvestrê sinh vào khoảng năm 270 tại La Mã.

    Năm 314, sau khi vua Constantinô trở lại, Giáo Hội được tự do và chấm dứt cơn bách hại kéo dài suốt hai thế kỷ trong toàn đế quốc La Mã, linh mục Silvestrê được bầu lên ngôi Giáo Hoàng (314).

    Đặc trách cai quản Hội Thánh giữa thời thuận tiện, ngài đã nỗ lực hoạt động để tổ chức lại Giáo Hội cho có quy củ. Ngài sửa đổi luật lệ, đặt nền móng cho lâu đài phụng vụ Kitô Giáo bằng cách ban nhiều sắc lệnh và cách thức cử hành các nghi lễ. Ngoài ra, ngài còn khuyến khích việc xây cất nhiều thánh đường, trong đó có đại thánh đường Phêrô tại Rôma và thánh đường Chúa Cứu Thế tại Latran. Nhưng việc vĩ đại nhất dưới triều đại của ngài là đã triệu tập công đồng chung lần đầu tiên cho toàn thể Giáo Hội ở Nicée vào năm 326 để kết án bè rối Ariô và bệnh vực thiên tính của Chúa Giêsu.

    Sau 22 năm chèo lái con thuyền Hội Thánh, ngài ngã bệnh và qua đời ngày 21/12/335.

     

CẢM NGHIỆM TÌNH CHÚA YÊU TÔI -

Khám phá của Emmanuel

Chủ đề: Giáng sinh chính là việc Thiên Chúa ngỏ lời với con người: “Ta yêu các con tới độ đã ban cho các con chính Con độc nhất của Ta. Các con cũng hãy yêu thương nhau như chính Ta đã yêu thương các con”

Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?” Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Thú thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng nhưng họ cũng chẳng biết. Thế là chú ta càng lúc càng tò mò thắc mắc hơn, chú dạo quanh khắp vùng dọ hỏi các bậc thức giả ở những làng khác: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết điều ấy. Vì thế chú lên đường đến những quốc gia và cả những đại lục khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, Emmanuel đến được một ngôi làng nọ, tên là Belem. Chú cố tìm chỗ nghỉ đêm trong các quán trọ, nhưng tất cả các quán đều đã đầy người.

Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài thành để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra chiếc hang đá có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con”. Chú bé quá sửng sốt làm sao bà này biết tên chú? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đã tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây hành trình của con kể như đã đến đích, đêm nay chính mắt con sẽ thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi ban cho thế gian Con Một của Ngài” (Ga 3: 16).

Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quì gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ bật khóc. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất kỳ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được.

Và thế là Emmanuel ở đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người “Tin Mừng” về thứ ngôn ngữ Chúa dùng, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu. Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được” và kể từ ngày đó trở đi, Emmanuel bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Thiên Chúa tức là ngôn ngữ của tình yêu.

Điều Emmanuel khám phá ra quả thật thú vị khi anh chị em nói với mọi người bằng thứ tiếng của tình yêu, thì họ cũng sẽ nói lại với anh chị em bằng thứ tiếng của tình yêu. Thế rồi, họ bỗng nhiên khám phá ra rằng nói bằng thứ tiếng ấy hơn biết bao nhiêu: và một khi họ đã khám phá ra điều ấy, họ sẽ không bao giờ trở lại nói thứ tiếng xưa kia của họ nữa. Vậy thì khi Emmanuel lên đường trở về nhà, chúng ta có thể noi theo bước chú, bởi vì chú đã để lại đàng sau chú một chuỗi phố phường làng mạc, nơi đó người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Về sau, khi có người kể lại cho Emmanuel những điều đã xảy đến trong các phố xá làng mạc nơi chú đã đi qua, thì chú lại khám phá ra một điều kỳ diệu thứ hai đó là khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu.

Ngài biết rằng một khi người ta bắt đầu nói ngôn ngữ ấy, họ sẽ không còn trở lại nói thứ ngôn ngữ xưa kia của họ nữa. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi. Mọi quốc gia sẽ chia sẻ mọi nguồn lợi, và tài năng cho nhau, mọi chủng tộc sẽ đối xử với nhau bằng lòng tôn kính, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ bắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. Lúc đó, lời hứa của Ngài qua miệng ngôn sứ Isaia sẽ thực sự được thể hiện:

“Gốc Jesse nẩy sinh một chồi và từ rễ ấy một nụ bông hé nở. Thần Trí Chúa sẽ ngự xuống trên Ngài: Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu. Bấy giờ sói sẽ là khách của chiên, báo sẽ nằm chung với trẻ nít, bò cái và gấu sẽ là láng giềng với nhau, lũ con của chúng sẽ nghỉ ngơi bên nhau; sư tử sẽ ăn cỏ giống như bò đực và trẻ nít sẽ vui đùa bên hang rắn độc…. sẽ không còn tai hoạ hay hoang tàn trên núi thánh của Ta, bởi vì mặt đất sẽ ngập tràn sự hiểu biết về Chúa khác nào nước phủ khắp đại dương” (Is 11: 1-2, 6-9)

:*CẦU NGUYỆN VÀ SỐNG CẦU NGUYỆN Lạy Chúa, xin giúp tất cả chúng con đang hiện diện nơi đây khám phá ra điều mà chú bé Emmanuel đã tìm thấy. Xin giúp chúng con khám phá ra ngôn ngữ của tình yêu và biết dạy cho tha nhân thứ ngôn ngữ này. NHỜ ƠN CHÚA cho chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà mọi dân tộc đều biết chia xẻ cho nhau, mọi chủng tộc đều biết tương trợ lẫn nhau, mọi gia đình biết yêu mến nhau và mọi người đều biết thắt chặt tay nhau trong tình thân hữu.

Xin giúp chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà “hoà bình thực sự ngự trị trên trái đất” và “thiện chí” toả lần đến mọi người.

Cha Mark Link, S.J.

Người Tín Hữu

Chia sẻ Bài này:
 

Related posts

 
 

CẢM NGHIỆM TÌNH CHÚA - ĐỪNG BỎ RƠI CON

  •  
    Chi Tran
     
    Dec 3 at 4:03 AM
     
     
     
     

    Xin đừng sa thải và bỏ rơi con

    Từ xa xưa, thánh vương Đavít đã để lại trong Kinh Thánh rất nhiều lời cầu nguyện. Lời cầu nào của Ngài cũng đều tha thiết. Đọc lên, đôi khi tôi nghe như tiếng nức nở hòa trong nước mắt.

    Riêng thời gian này, tôi thích đọc đi đọc lại những lời Ngài nói với Chúa, khi Ngài thấy mình tuổi già sức yếu. Thí dụ những lời sau đây :

    “Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng.

    Chớ bỏ rơi con khi sức lực suy tàn” (Tv 71,9).

     

    Đây là những lời xem ra nói lên đúng hoàn cảnh của tôi. Thiết tưởng hoàn cảnh của tôi cũng là hoàn cảnh của nhiều người.

    Tâm tư buồn trong hoàn cảnh buồn.

    Xưa chính trong tình huống ấy, thánh vương Đavit đã gởi nơi Chúa một tâm sự chân thành. Nay, tôi mượn lại lời đó, để cầu nguyện và để suy tư.

    Cầu nguyện, rồi lắng nghe. Suy tư, rồi tìm hiểu. Cầu nguyện và suy tư là những việc tôi đã, đang và sẽ còn thực hiện, khi đọc những lời trên của thánh vịnh 71.

     

    Ngay lúc này, tôi đang thấy câu trả lời : Chúa không sa thải và bỏ rơi những ai tuổi già sức yếu. Trái lại Chúa còn ban cho nhiều người trong họ cảm được hạnh phúc khác thường. Như những ơn sau đây :

    1. Hạnh phúc vì được yêu mến

    Thánh Phaolô viết : “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).

    Kinh nghiệm cho thấy : Tuổi già sức yếu, và bao điều đi theo tuổi già sức yếu đều là những xuống cấp gây nên do luật tự nhiên một cách thông thường. Những sa sút đó không phải là dấu Chúa sa thải, bỏ rơi. Trái lại, những ai khiêm tốn vâng phục ý Chúa, chấp nhận chuyển biến tự nhiên đó, sẽ cảm thấy thanh thản. Hơn nữa, nếu họ đón nhận với lòng mến Chúa, với ý thức mình được Chúa yêu thương, thì họ sẽ được hạnh phúc. Hạnh phúc này Chúa dành riêng cho những ai chịu thử thách mà vẫn trung thành.

    Thánh Phaolô viết : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?...

    “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta” (Rm 8,35-37).

    Tuổi già sức yếu và những đau đớn đủ loại theo sát có thể gọi là những thử thách cho nhiều người. Nhưng những thử thách đó rất có giá trị về nhiều mặt, nhất là về mặt đạo đức.

    Ngoài ra thánh vương Đavít đã nhắc đến một hạnh phúc khác, mà tuổi già sức yếu của Ngài đã cảm được, đó là hạnh phúc khi Ngài được kể lại những ơn Chúa đã làm cho Ngài.

    2. Hạnh phúc vì được kể lại những ơn Chúa đã thương ban

    Thánh vương nói :

    “Cả lúc con già nua, da mồi tóc bạc, lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con để con tường thuật quyền năng của Chúa cho thế hệ này được rõ, và dũng lực của Ngài cho thế hệ mai sau” (Tv 71,8).

    Có rất nhiều ơn thánh vương kể lại, nhưng Ngài nhấn mạnh hơn đến ơn cứu độ :

    “Ngài đã bắt con nếm mùi tân khổ, chính Ngài đã cho con được hoàn sinh và kéo con ra khỏi vực sâu lòng đất. Phần vinh hoa, Ngài sẽ ban nhiều và trở lại vỗ về an ủi” (Tv 71,20).

    Mỗi người tín hữu, khi về già, đều có vô số chuyện để kể, làm chứng về sự Chúa đã cứu độ mình. Niềm vui của họ là cảm được sự hiện diện của Đấng đã cứu họ. Nay Ngài nay đang sống động trong họ. Như thánh Phaolô kể : “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi” (Gl 2,20).

    Nếu được kể lại một số ơn đặc biệt Chúa đã ban cho tôi, chắc tôi cũng không ngần ngại tập trung vào loại ơn cứu độ.

    Về loại ơn cứu độ, có những ơn chung và có những ơn riêng. Trong các ơn riêng, sẽ hiện ra những ơn dễ tả, và cũng sẽ thoáng nhìn thấy những ơn nên chỉ để suy gẫm trong lòng.

    Sau cùng, trong thời gian gần đây, khi cầu nguyện với Chúa : “Xin đừng bỏ rơi con”, tôi cảm nhận được mờ mờ trong tận cõi lòng sâu thẳm một trả lời êm dịu từ lòng thương xót Chúa.

    3. Hạnh phúc vì được chứng kiến những sự lạ lùng của lòng thương xót Chúa.

    Tuổi càng trên đà xế bóng, sức lực lúc càng vơi cạn, tôi càng như khám phá ra một bầu trời mới : Bầu trời của lòng thương xót Chúa.

    Trong bầu trời này, tình xót thương Chúa như cơn mưa đổ xuống những mảnh đất khô cằn nhất. Vô số những người tội lỗi được ơn tha thứ. Vô số những người dưới hố sâu trụy lạc được dắt lên. Chỉ cần họ thành thực nhìn nhận sự thực về mình và thống hối ăn năn.

    Danh dự của họ là không dối mình, bản thân mình xấu xa thế nào thì mình nhìn nhận như vậy. Thiện chí của họ là không tìm sự sống trong cái giả dối, nhưng cố phấn đấu tìm sự sống trong mọi sự thực, cho dù sự thực là sự yếu đuối hèn hạ của mình.

    Những người trọng danh dự và có thiện chí như trên đang trở thành một cánh đồng đợi chờ lòng thương xót Chúa.

    Tôi thấy cánh đồng ấy đang nẩy nở vô vàn hạnh phúc, dưới nhiều hình thức. Với những người không xấu hổ vì danh dự và thiện chí như trên, cục diện thế giới sẽ đổi, Hội Thánh cũng sẽ có những đổi mới thực sự theo ơn Chúa Thánh Thần.

    Với chút kinh nghiệm trên đây, tôi muốn gởi chia sẻ tới những ai đang cảm thấy tuổi đà xế bóng và đang đau mệt với sức lực suy tàn.

    Chuyện người già chúng tôi cũng là chuyện người trẻ cần biết. Thực ra, đó cũng là chuyện của mọi người con của Thiên Chúa tình yêu.

    Riêng tôi, khi tuổi già xế bóng quá, và khi sức lực suy tàn quá, chắc tôi sẽ không còn làm được những việc như trước và nay đang làm. Tình hình đó sẽ đến. Lúc đó tôi hy vọng sẽ đón nhận được hạnh phúc dưới hình thức khác, mà Chúa sẽ ban cho, do tình yêu thương xót của Người.

    Để kết, thiết tưởng cũng nên nghĩ tới trường hợp lời cầu “Xin chớ bỏ rơi con” của vua Đavit, sẽ thay thế bằng lời than “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” của Chúa Giêsu trên thánh giá (x. Mt 15,34).

    Trường hợp như thế sẽ là một thử thách đớn đau kinh hoàng. Mọi sự khốn khó đều có thể xảy ra cho ta. Hạnh phúc lúc đó sẽ là hoàn toàn phó thác nơi Chúa giàu tình yêu thương xót. Người là Cha, còn chúng ta là những người con bé nhỏ.
    ĐGM GB Bùi Tuần

    : “Theo Báo Công giáo và Dân tộc, website: cgvdt.vn”.

     
     

CẢM NGHIỆM TÌNH CHÚA YÊU TÔI THỨ SÁU CN3MV-A

 

  •  
    Tinh Cao - Dec 19 at 6:00 PM
     
     

    20/12 Thứ Sáu CN3MV-A

     

    Bài Ðọc I: Is 7, 10-14

    "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai".

    Bài trích sách Tiên tri Isaia.

    Ngày ấy, Chúa phán bảo cùng vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao". Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa".

    Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Ðavít: Làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6

    Ðáp: Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh (x. c. 7c và 10b).

    Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.

    2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.

    3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm kiếm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.

     

    Alleluia:

    Alleluia, alleluia! - Lạy Chìa khoá Ðavít, Ngài mở cửa thiên quốc, xin hãy đến cứu thoát người bị xiềng xích đang ngồi trong bóng tối tăm khỏi cảnh ngục tù! - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 1, 26-38

    "Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".

    Nhưng Maria thưa với Thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được".

    Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên thần cáo biệt Bà.

    Ðó là lời Chúa.

     

    image.png

     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ LC

     

    Trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh, từ 17 đến 24/12 hằng năm, Giáo Hội chọn đọc các bài đọc nói chung, nhất là Bài Phúc Âm liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến biến cố nhập thể và giáng sinh của Con Thiên Chúa làm người: đầu tiên là 2 bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu, và tiếp theo 6 ngày liền sau đó toàn là Phúc Âm theo Thánh ký Luca, bao gồm tất cả đoạn 1 của Phúc Âm này trừ 5 câu khai mở dẫn nhập.

     

    Hôm  nay, ngày 20/12, tức là ngày thứ bốn trong tuần bát nhật hướng đến Đại Lễ Giáng Sinh, sau bài Phúc Âm về sự kiện truyền tin Tiền Hô Gioan được thụ thai cách lạ, và trước bài Phúc Âm về biến cố thai nhi Tiền Hô Gioan được Lời Nhập Thể đến viếng thăm, là Bài Phúc Âm về sự kiện Truyền Tin Con Thiên Chúa xuống thế làm người, thụ thai bởi quyền phép Thánh Linh nơi cung dạ trinh nguyên của một thôn nữ vô danh tiểu tốt ở Nazarét, như được Thánh ký Luca thuật lại: "Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria".

     

    Ngay trong câu đầu tiên này, người ta đã thấy 2 điểm then chốt, đó là đối tượng được truyền tin và thời điểm được Trời Cao cố ý chọn để truyền tin Lời Nhập Thể. Trước hết về đối tượng được truyền tin không phải là một người đàn bà đã có chồng, mà là "một trinh nữ", hoàn toàn ứng nghiệm những gì đã được Trời Cao loan báo qua miệng tiên tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

     

    Sau nữa, thời điểm của biến cố truyền tin không thể nào xẩy ra và không bao giờ xẩy ra trước khi "trinh nữ" này lập gia đình, mà là sau đó: "trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse", nghĩa là đã lấy chồng, nhưng chưa về nhà chồng, vì mới đính hôn, và chỉ xẩy ra vào khoảng giữa thời gian đính hôn và về chung sống với chồng thôi. Như thế mới chứng tỏ "trinh nữ" này quả thực, về thể lý và sinh lý, hoàn toàn trinh nguyên khi thụ thai "Con Đấng Tối Cao", nhờ bởi, như vị Thiên Thần khẳng định: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa".

     

    Đúng thế, nếu "trinh nữ" Maria đã về sống với chồng là Giuse rồi, sau đó mới được truyền tin thụ thai Lời Nhập Thể thì mọi sự đã hoàn toàn không còn gì là thần linh nữa, và người con được hạ sinh bởi hai vợ chồng này chỉ là một con người thuần túy, chứ không thể nào là "Con Thiên Chúa", có tác nhân là chính Thiên Chúa, là Thánh Thần. Thậm chí việc cô nàng Maria thụ thai sau khi đã về chung sống với chàng Giuse cũng không thể nào gọi là "được thụ thai cách lạ", như trường hợp của bà chị Isave của nàng, bởi nàng đang thanh xuân dễ dàng có thai, chứ đâu có già nua son sẻ. Tuy nhiên, việc thụ thai cách lạ của bà chị Isave của nàng, vẫn biết là việc Chúa làm, dầu sao cũng không hoàn toàn bởi nguyên Thánh Linh, vẫn có vấn đề giao hợp với chồng, và Chúa đã làm cho việc giao hợp tự nhiên ấy sinh hoa kết trái một cách ngoại lệ.

     

    Nếu "trinh nữ... tên là Maria" thực sự thụ thai "Con Đấng Tối Cao", "Con Thiên Chúa" thì Vị Trinh Nữ "đầy ơn phúc" và "được ơn nghĩa với Chúa" như lời thiên sứ chào kính và trấn an này, không phải chỉ ở chỗ thân xác của nàng Trinh Nữ đây chưa hề đụng chạm gì với đàn ông, dù đã đính hôn và đã được ăn nằm với chồng theo tục lệ Do Thái, bằng không thì trong dân Israel bấy giờ có biết bao thiếu nữ còn trinh và chưa chồng khác sao lại không được "Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét" như Trinh Nữ Nazarét này. Nghĩa là người Trinh Nữ diễm phúc này phải có một cái gì đó nổi bật và đặc biệt nữa mới xứng đáng làm Mẹ Con Thiên Chúa?

     

    Thật vậy, người Trinh Nữ Nazarét này trổi vượt "hơn mọi người nữ", ở 3 nhân đức trọn lành là trinh khiết, khiêm hạ và tuân phục. Trinh Nữ Maria trinh khiết ở chính trong cõi lòng của mình, một cõi lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự, không yêu thương hay yêu quí gì hơn Ngài, đúng như Trinh Nữ đã thân thưa với sứ thần: "Tôi không hề biết đến nam nhân". Tuy nhiên, vì việc giữ mình trinh khiết không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện để nhờ đó tâm hồn dễ dàng hơn trong việc tiến đến chỗ được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa vô cùng thánh hảo tinh tuyền, mà nếu Trinh Nữ Maria trinh khiết vẹn toàn cả trong tâm hồn lẫn thân xác chỉ cố chấp theo ý riêng của mình hơn là tuân theo ý muốn tối thượng của Thiên Chúa thì nàng Trinh Nữ này cũng chẳng xứng đáng thụ thai và hạ sinh "Con Đấng Tối Cao", "Con Thiên Chúa".

     

    Thực tế cho thấy, như Thánh ký Luca thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, Vị Trinh Nữ được Thiên Chúa vô cùng toàn thiện và khôn ngoan thượng trí tuyển chọn làm Mẹ sinh ra Người Con Duy Nhất của Ngài trên thế gian này cho loài người đã hoàn toàn mau mắn thuận phục ý muốn tối hậu của Thiên Chúa nơi bản thân của mình và cuộc đời của mình, với tất cả lòng khiêm nhượng của mình chỉ là một kẻ làm tôi tớ phục vụ vị chủ tối cao của mình: "Này tôi là tôi tớ của Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền". Trinh Nữ Maria đã xin vâng với tất cả đức tin của mình, cho dù có được vị sứ thần trấn an và dẫn giải một phần nào về những gì sẽ xẩy ra nơi bản thân mình và riêng thân xác của mình, hoàn toàn trái với tự nhiên: trinh nữ mà lại sinh con, đúng hơn hoàn toàn vượt trên tự nhiên: "không có việc gì mà Chúa không làm được".

     

    Tiếng thưa xin vâng của Trinh Nữ Maria trong biến cố truyền tin Lời Nhập Thể không phải chỉ ở chỗ Vị Trinh Nữ diễm phúc này tỏ ra tuyệt đối tin vào quyền năng của Thiên Chúa có thể làm cho "một trinh nữ... không hề biết đến nam nhân" thụ thai và sinh con, không biết bằng cách nào, mà còn ở chỗ phó mình cho việc quan phòng thần linh vô cùng huyền nhiệm của Ngài nữa. Bởi vì, nếu Trinh Nữ Maria vốn có thói quen "lưu giữ những sự ấy mà suy niệm trong lòng" (Luca 2:19,51) thì người Trinh Nữ này chắc chắn đã nghĩ đến chuyện cô có thể bị phu quân đã đính hôn của mình là Giuse đặt vấn đề khi thấy cô tự nhiên mang một cái bầu lạ lùng từ đâu tới! Nhưng chính "sự cố" Giuse, như ở Bài Phúc Âm ngày 18/12 của Thánh ký Mathêu trình thuật, lại càng cho thấy ngay cả sau khi được truyền tin thụ thai Con Thiên Chúa, Trinh Nữ Maria vẫn không hề có một liên hệ nào về sinh lý với người đã đính hôn với mình, cho dù được phép!

     

    Tất cả mọi diễn biết trước và sau biến cố truyền tin, như được nhận định và phân tích trên đây, cho thấy toàn diện sự thật là: Con Thiên Chúa xuống thế làm người hoàn toàn do quyền phép Thánh Linh là nguyên lý đệ nhất, và qua phương tiện một Trinh Nữ Maria là nguyên nhân đệ nhị, một con người chẳng những hoàn toàn không biết đến nam nhân mà còn tuyệt đối tin tưởng vào Đấng Tối Cao để Ngài có thể tỏ mình ta cho dân Ngài và mang phần rỗi đến cho toàn thể nhân loại là "giòng dõi người nữ" (Khởi Nguyên 3:15), giòng dõi một Người Nữ Trinh! Nội dung của Bài Đáp Ca hôm nay, nhất là câu 2 và 3, hoàn toàn xứng hợp với con người của Vị Trinh Nữ diễm phúc Maria của Bài Phúc Âm hôm nay:

     

    2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa.

    3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm kiếm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     

    MV.Ngay20-12.mp3  

     

     

 

CẢM NGHIỆM TÌNH CHÚA YÊU TÔI - THỨ TƯ CN34TN-C

 

  •  
    Tinh CaoNov 26 at 9:47 PM
     
     

    Thứ Tư CN34TN-C

     

    LẮNG NGHE Lời Chúa

     

     

    Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 5, 1-6, 13-14, 16-17, 23-28

    "Có những ngón tay hiện ra như bàn tay một người".

    Trích sách Tiên tri Ðaniel.

    Trong những ngày ấy, vua Baltassar dọn tiệc linh đình đãi một ngàn triều thần: ai nấy cứ theo tuổi mình mà uống rượu. Khi vua đã say rượu, liền truyền đem các bình, chén, bát bằng vàng bạc mà Nabukôđônôsor, phụ vương ông, đã lấy trong đền thờ Giêrusalem đem về, để cho vua, các triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng uống rượu. Bấy giờ, người ta mang ra các bình, chén, bát bằng vàng bạc đã lấy trong đền thờ Giêrusalem đem về. Vua, các triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng đồ đó mà uống rượu. Họ vừa uống rượu vừa ca tụng các thần minh bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, đá của họ.

    Chính lúc ấy, có những ngón tay hiện ra như bàn tay một người viết chữ trên vách tường cung điện, đối diện ánh bạch lạp; vua nhìn thấy ngón tay viết chữ. Bấy giờ mặt vua đổi sắc, tư tưởng rối loạn, xương sống yếu sức, đầu gối va chạm lẫn nhau.

    Lúc đó người ta dẫn Ðaniel đến trước mặt vua. Vua hỏi người rằng: "Nhà ngươi có phải là Ðaniel, con cái Giuđa, phải lưu đày mà phụ vương trẫm đã điệu từ Giuđa về đây chăng? Trẫm đã nghe rằng nhà ngươi được thần linh các vị thần phù giúp: ngươi được thông minh, trí tuệ và khôn ngoan phi thường. Trẫm đã nghe rằng nhà ngươi có thể cắt nghĩa những huyền bí và giải thích được những chuyện khúc mắc. Vậy nếu nhà ngươi đọc được hàng chữ này và cắt nghĩa cho trẫm, thì nhà ngươi sẽ được mặc áo đỏ, cổ đeo vòng vàng và trở nên vị tướng thứ ba trong vương quốc trẫm".

    Ðaniel tâu lại trước mặt vua rằng: "Lễ vật của vua xin để lại cho vua, và ân huệ nhà vua, xin vua ban cho kẻ khác. Thần xin đọc hàng chữ này và cắt nghĩa cho đức vua. Ðức vua đã tự phụ chống đối Ðấng cai trị trên trời: đã đem bày trước mặt vua các bình, chén, bát lấy trong đền Chúa, rồi vua, triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng những đồ ấy mà uống rượu; vua còn ca tụng các thần vàng bạc, đồng, sắt, gỗ, đá, toàn là những thứ không thấy, không nghe và không cảm giác: vua không tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng cầm trong tay vận mệnh và đường lối của đức vua. Bởi đó, Chúa khiến ngón tay hiện ra viết hàng chữ đó.

    "Ðây những chữ đã viết như sau: Manê, Thêqel, Phares. Xin giải nghĩa những chữ đó như sau: Manê: là Thiên Chúa đã đếm đủ số triều đại nhà vua rồi. Thêqel: là đã cân vua trên cán cân, và thấy vua hụt cân. Phares: là vương quốc của vua đã bị phân chia và trao cho dân Mêđia và Batư".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Ðn 3, 62. 63. 64. 65. 66. 67

    Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).

    Xướng: 1) Chúc tụng Chúa đi, mặt trời cùng với mặt trăng. - Ðáp.

    2) Chúc tụng Chúa đi, trên trời cao, muôn tinh tú. - Ðáp.

    3) Chúc tụng Chúa đi, mưa móc với sương sa. - Ðáp.

    4) Chúc tụng Chúa đi, muôn ngàn ngọn gió. - Ðáp.

    5) Chúc tụng Chúa đi, lửa đỏ với than hồng. - Ðáp.

    6) Chúc tụng Chúa đi, rét mướt và lạnh lẽo. - Ðáp.

     

    Alleluia: Mt 24, 41a và 44

    Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 21, 12-19

    "Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy, nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.

    "Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con".

    Ðó là lời Chúa.

     



    SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

     

    Thành Phần Chứng Nhân Cuối Thời

     

     

    Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXXIV Thường Niên tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua về số phận tận số của Thành Thánh Giêrusalem, nhưng Bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến số phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối thời.

    Thật vậy, ngoài hai dấu hiệu cho thấy ngày cùng tháng tận đó là hiện tượng giả dối lừa đảo hoành hành cùng với hiện tượng nhân tai kèm theo thiên tai xẩy ra cho nhân loại, còn một dấu hiệu nữa đó là sự kiện bách hại thành phần chứng nhân cuối thời: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng". 

    Đúng thế, chính hiện tượng "sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12) mới xẩy ra tình trạng bách hại thành phần chứng nhân cuối thời. Không biết có đúng hay chăng khi mà vào chính thời điểm lịch sử hiện nay, thời đểm con người càng văn minh về vật chất lại càng băng hoại về luân lý và đạo lý, thì chính ở thế giới Tây phương Kitô giáo, (chứ không phải chỉ ở thế giới Hồi giáo cực đoan chỉ được theo Hồi giáo), lại là nơi đang bắch hại thành phần chứng nhân Kitô giáo, bằng những luật lệ cấm đoán công khai bày tỏ đức tin ở những nơi công cộng, dù là bằng ngôn từ hay hình ảnh, hoặc phải làm theo những điều khoản phản lại lương tâm Kitô giáo của mình, hay bằng việc trắng trợn và cương quyết dứt khoát chối bỏ căn tính Kitô giáo của mình trong Bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu, một châu lục hoàn toàn mang gốc gác Kitô giáo và là nơi xuất phát các vị thừa sai khắp thế giới.

    Phải chăng lời Chúa Giêsu cảnh báo trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy", cũng bao gồm cả và ám chỉ đến tình hình chính thế giới Tây phương Kitô giáo bách hại Kitô giáo của chính mình? 

    Thế nhưng, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ của Người là hãy lợi dụng tình trạng bị bách hại ấy mà làm chứng cho Người: "các con sẽ có dịp làm chứng". Đó là lý do, vào ngày cuối thời, chính vào lúc "sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12) mới đồng thời xẩy ra một chiến dịch hay phong trào chứng nhân truyền giáo: "Tin mừng về Nước Trời này sẽ được loan truyền khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau đó mới tới tận cùng" (Mathêu 24:14).

    Phải chăng ngay vào thời điểm thế giới Kitô giáo Tây phương đang băng hoại, đang trở thành trung tâm "văn hóa sự chết" (ĐTC Gioan Phaolô II), thành lò "văn hóa tận số" (ĐTC Phanxicô) mới càng cần đến một Hội Đồng Tòa Thánh về Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa được ĐTC Biển Đức XVI thiết lập, và là Hội Đồng đặc trách tổ chức Năm Thánh tình Thương 2016 do ĐTC Phanxicô khởi xướng; nhất là mới càng có những chuyến tông du của các Đức Giáo Hoàng từ ngay trong Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), với chuyến tông du đầu tiên của ĐTC Phaolô VI vào đầu năm 1964 ở Thánh Địa (4-6/1), với 104 chuyến tông du của ĐTC Gioan Phaolô II trong vòng 26 năm rưỡi của ngài (16/10/1978 - 2/4/2005), trung bình mỗi năm 4 chuyến, với 24 chuyến tông du của ĐTC Biển Đức XVI trong 8 năm phục vụ Giáo Họi của ngài (19/4/2005 - 28/2/2013), trung bình 3 năm 1 chuyến, và với 21 chuyến tông du của ĐTC Phanxicô trong vòng 2 năm 8 tháng của ngài (13/3/2013 - 30/11/2015), trung bình 5 chuyến 1 năm (bao gồm cả chuyến tông du Phi Châu lần đầu tiên của ngài 6 ngày từ Thứ Tư giữa Tuần XXXIV Thường Niên này cho đến Thứ Hai cuối tháng 11). 

    Thế nhưng, công cuộc và sứ vụ chứng nhân không phải là việc làm và hành động của cá nhân Kitô hữu, cho bằng của chính Giáo Hội và nhất là của Chúa Kitô, Đấng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), Đấng luôn sống động trong Giáo Hội và tỏ mình ra nơi từng chi thể của Giáo Hội là thành phần chứng nhân của Người và cho Người như cành nho dính liền với Người là thân nho (xem Gioan 15:5). 

    Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã trấn an thành phần chứng nhân tiên khởi của Người là các môn đệ đang theo Người và nghe Người bấy giờ, cũng như khẳng định cùng thành phần chứng nhân ở mọi thời và nhất là cuối thời của Người rằng: "Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con". 

    Và sở dĩ "mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các conđược, như một phó tế Staphanô vị tử đạo tiên khởi của Kitô giáo (xem Tông Vụ toàn đoạn 7), là vì chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:1) bất diệt tỏ mình ra qua họ như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5), nhất là khi Người tái xuất hiện trong vinh quang "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", cho dù hiện tại dường như sự dữ đang thắng thế, đang làm chủ tình hình và đang hoành hành kinh hoàng khủng khiếp như thể cả thế gian này đã biến thành hỏa ngục trần gian vậy

    Quả thực, trong một giai đoạn sự dữ gia tăng tới tột độ quyền lực của nó vô cùng kinh hoàng khủng khiếp đến độ "nếu giai đoạn ấy không được rút ngắn lại thì không một con ngưòi trần gian nào được cứu độ" (Mathêu 24:22), thì kể cả kẻ lành cũng vẫn có thể gặp nguy hiểm và vẫn có thể bị đánh lừa (xem Mathêu 24:24), như trường hợp cả 5 cô trinh nữ khôn ngoan cũng thiếp ngủ (xem Mathêu 25:5); nhưng 5 trinh nữ khôn ngoan này hoàn toàn khác với 5 trinh nữ khờ dại, ở chỗ, các cô mang dầu đức cậy theo với đèn đức tin để có thể thắp sáng đức mến khi chàng rể bất ngờ xuất hiện, nhờ đó, cho dù các cô mắt có ngủ nhưng lòng vẫn thức, ở chỗ vẫn "thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), Đấng quan phòng thần linh cứu độ, đến độ: "dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất" như chính lời Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay. 

    Chính vì thời kỳ cuối thời là thời kỳ thử thách đức tin của kẻ lành, thành phần sẽ chịu gian nan khốn khó trên trần gian này, đặc biệt là bị kẻ dữ, kẻ có quyền lực ức hiếp, bách hại và sát hại, nhưng "Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con", mà Sách Tiên Tri Daniên ở Bài Đọc 1 hôm nay đã nhắc nhở đặc biệt thành phần quyền lực về một chân lý đức tin bất khả sai lầm là chỉ duy Thiên Chúa mới là chủ tể mọi sự và là Đấng làm chủ lịch sử của loài người me thôi:

     

    "Ðức vua đã tự phụ chống đối Ðấng cai trị trên trời: đã đem bày trước mặt vua các bình, chén, bát lấy trong đền Chúa, rồi vua, triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng những đồ ấy mà uống rượu; vua còn ca tụng các thần vàng bạc, đồng, sắt, gỗ, đá, toàn là những thứ không thấy, không nghe và không cảm giác: vua không tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng cầm trong tay vận mệnh và đường lối của đức vua. Bởi đó, Chúa khiến ngón tay hiện ra viết hàng chữ đó. Ðây những chữ đã viết như sau: Manê, Thêqel, Phares. Xin giải nghĩa những chữ đó như sau: Manê: là Thiên Chúa đã đếm đủ số triều đại nhà vua rồi. Thêqel: là đã cân vua trên cán cân, và thấy vua hụt cân. Phares: là vương quốc của vua đã bị phân chia và trao cho dân Mêđia và Batư".

    Bài Đáp Ca hôm nay, trích từ Sách Tiên Tri Daniên, là một lời chúc tụng Thiên Chúa là chủ tể của muôn loài, xuất phát từ chính thiên nhiên vạn vật được Ngài dựng nên và tỏ mình ra cho loài người qua chúng, những loài thụ tạo, nhờ loài người, qua loài người và với loài người cần phải nhận biết cùng "ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời" (câu đáp):

     

    1) Chúc tụng Chúa đi, mặt trời cùng với mặt trăng.

    2) Chúc tụng Chúa đi, trên trời cao, muôn tinh tú.

    3) Chúc tụng Chúa đi, mưa móc với sương sa.

    4) Chúc tụng Chúa đi, muôn ngàn ngọn gió.

    5) Chúc tụng Chúa đi, lửa đỏ với than hồng.

    6) Chúc tụng Chúa đi, rét mướt và lạnh lẽo.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     

    TN.XXXIVL-4.mp3  

     

     


    On Tue, Nov 26, 2019 at 4:30 PM Tinh Cao <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.> wrote:

       

     

    --