7. Đời Sống Mới Trong Thần Khí

ĐỜI SỐNG MỚI TRONG THẦN KHÍ- ĐTC GIẢNG LỄ LCT XOT

  •  
    Tinh Cao
    Sun, Apr 19 at 1:45 PM
     
     

    ĐTC Phanxicô: Chủ Tế và Giảng Lễ LTXC 19/4/2020 Livestream

     

    Lễ LTXC 2020 này, Chúa Nhật 19/4 ngày kia, nếu ai tham dự Lễ do ĐTC Phanxicô chủ tế và giảng lễ, sẽ thấy không phải ở trong Đền Thờ Thánh Phêrô nữa, như Lễ Lá hay Phục Sinh, mà là ở một nơi đặc biệt khác, đó là tại Nhà Thờ Santo Spirito in Sassia, nơi hằng ngày (trước đại dịch Covid-19) vẫn cử hành LTXC bằng Chuỗi Kinh Thương Xót vào 3 giờ chiều, do các Sơ Dòng Đức Mẹ Thương Xót (Our Lady of Mercy), Dòng của Chị Thánh Faustina phụ trách, nơi nguyên thủy là một nguyện đường của nhà thương, cho tới năm 1994 thì được ĐTC Gioan Phaolô biến thành Trung Tâm Linh Đạo LTXC, và cử Đức Ông Jozef Bart người đồng hương Balan làm Cha Sở.

     

    Vào dịp Lễ LTXC 1995, 1 năm sau khi nguyện đường của bệnh viện trở thành Trung Tâm Linh Đạo LTXC, Thánh GH Gioan Phaolô II đã nói về Nhà Thờ Santo Spirito in Sassia như sau: "Đặc biệt là hôm nay tôi đã có thể dâng lời cảm tạ Thiên Chúa ở ngôi Nhà Thờ Santo Spirito in Sassia đây, một nhà thờ gắn liền với bệnh viện cùng tên gọi, mà giờ đây trở thành một trung tâm chuyên môn cho việc chăm sóc bệnh nhân, cũng như để cổ võ linh đạo LTXC... Các lời nguyện cầu cùng với hoạt động được thực hiện nơi việc liên lỉ chăm sóc sức khỏe về cả thân xác lẫn tâm linh thật là quan trọng và hợp thời ở chính nơi đây, sát ngay với một bệnh viện cố xưa này". 


    ĐTC Phanxicô sẽ cử hành Lễ LTXC 2020 tại nhà thờ này, gần Đền Thờ Thánh Phêrô, nơi đang lưu giữ hài tích của cả 2 vị thánh LTXC của Balan là Thánh Faustina và Thánh Gioan Phaolô II. Nhóm TĐCTT Hành Hương Đức Tin - Tuần Thánh Vượt Qua 2021 sẽ không quên ghé kính viếng Nhà Thờ LTXC có hài tích của 2 vị thánh LTXC này, những vị hằng năm được Nhóm TĐCTT tôn kính bằng một Ngay Tĩnh Tâm Nên Thánh vào đầu Tháng 10, vì cả hai vị đều được Giáo Hội mừng lễ trong tháng 10 này (Thánh Faustina mùng 5 và Thánh Gioan Phaolô ngày 22), theo gương 2 vị, kể từ năm 2018 tới nay. 

    A side chapel dedicated to Divine Mercy in the Church of Santo Spirito in Sassia. Credit: ACI Stampa.

    The altar of Divine Mercy with the statue of St. Faustina in the Church of the Holy Spirit in Sassia, Rome.

    Pope Francis prays the Regina Coeli on Divine Mercy Sunday

    Chúa Nhật vừa quachúng ta cử hành biến cố phục sinh của Chúa;
    hôm nay chúng ta chứng kiến thấy cuộc phục sinh nơi người môn đệ của Người
    .

    Pope Francis at Mass in the Church of the Holy Spirit in Saxony

     Cuộc phục sinh của người môn đệ này bắt đầu từ đó, từ lòng thương xót trung tín và nhẫn nại ấy,
    từ việc khám phá ra rằng Thiên Chúa không bao giờ thôi vươn mình ra để nâng chúng ta lên khi chúng ta sa ngã.


    Pope Francis at Mass in the Church of the Holy Spirit in Saxony

    Người không muốn chúng ta cứ nghĩ đến những sa ngã của chúng ta; trái lại, Người muốn chúng ta hãy nhìn lên Người.
    Vì khi chúng ta ngã thì Người thấy những đứa con cần được nâng dậy;
    nơi những sa ngã của chúng ta Người thấy thành phần con cái cần đến tình yêu nhân hậu của Người.


    Pope Francis at Mass in the Church of the Holy Spirit in Saxony

    Chúa đang chờ đợi chúng ta để chúng ta cống hiến cho Người những sai phạm của chúng ta,

    hầu Người có thể giúp chúng ta cảm nghiệm thấy lòng thương xót của Người.


    Pope Francis at Mass in the Church of the Holy Spirit in Saxony

     Những người môn đệ đã bỏ rơi Chúa trong cuộc Khổ Nạn của Người và cảm thấy lội lỗi.

    Thế nhưng, khi gặp các vị, Người đã không cho các vị một trận.

    Người đã tỏ các thương tích của Người cho các vị là những con người đã bị nội thương.


    Pope Francis celebrates Mass at Santo Spirito in Sassia April 19, 2020. Credit: Vatican Media


    chúng ta giống như những thứ pha lê lộng lẫy, vừa mỏng dòn lại vừa quí báu.
    Và như là pha lê, nếu chúng ta trở nên trong suốt trước nhan Người,
    thì ánh sáng của Người - thứ ánh sáng của lòng thương xót - sẽ chiếu sáng vào chúng ta và qua chúng ta vào thế giới.

    Như tông đồ Toma, chúng ta hãy chấp nhận lòng thương xót, ơn cứu độ của thế giới này.

    Chúng ta hãy chứng tỏ lòng thương xót với những ai dễ bị tổn thương nhất;

    vì chỉ có thể chúng ta mới xây dựng được một thế giới mới thôi.

     

     

     

    Chúa Nhật vừa qua (http://www.vatican.va/content/francesco/en/events/event.dir.html/content/vaticanevents/en/2020/4/12/messa-pasqua.html), chúng ta cử hành biến cố phục sinh của Chúahôm nay chúng ta chứng kiến thấy cuộc phục sinh nơi người môn đệ của Người. Một tuần lễ qua đi, một tuần kể từ khi các môn đệ đã được thấy Chúa Phục Sinh, thế nhưng, cho dù là thế chăng nữa, các vị vẫn cứ sợ hãi, hoàn toàn ẩn mình ở đằng sau "các cánh cửa đóng kín" (Gioan 20:26), thậm chí không thể thuyết phục được Toma về cuộc phục sinh này, người duy nhất vắng mặt. Chúa Giêsu đã làm gì trước tình trạng sợ sệt nhút nhát thiếu niềm tin ấy? Người đã trở lại và, khi đứng ở cùng một vị trí, "ở giữa" các môn đệ, Người lập lại lời chào của mình: "Bình an cho các con!" (Gioan 19,26). Người bắt đầu lại từ đầuCuộc phục sinh của người môn đệ này bắt đầu từ đó, từ lòng thương xót trung tín và nhẫn nại ấy, từ việc khám phá ra rằng Thiên Chúa không bao giờ thôi vươn mình ra để nâng chúng ta lên khi chúng ta sa ngã. Ngài muốn chúng ta thấy Ngài, không phải như là một viên phân công, nhân vật chúng ta cần phải trả lẽ, nhưng như một Người Cha luôn nâng chúng ta dậy. Trong đời sống, chúng ta tiến bước một cách tạm thử, bất định, như một đứa bé mới biết chập chững đi được mấy bước thì ngã lên ngã xuống, nhưng cứ mỗi lần nó ngã thì cha của nó lại nâng nó lên. Bàn tay luôn nâng chúng ta lên ấy là lòng thương xót: Thiên Chúa biết rằng không có lòng thương xót chúng ta vẫn cứ la lê trên mặt đất, nên để tiếp tục bước đi chúng ta cần được nâng dậy.

    Anh chị em có thể cự lại rằng: "Thế nhưng tôi cứ tiếp tục sa ngã!" Chúa biết điều ấy và Người luôn sẵn sàng nâng anh chị em lên. Người không muốn chúng ta cứ nghĩ đến những sa ngã của chúng ta; trái lại, Người muốn chúng ta hãy nhìn lên Người. Vì khi chúng ta ngã thì Người thấy những đứa con cần được nâng dậy; nơi những sa ngã của chúng ta Người thấy thành phần con cái cần đến tình yêu nhân hậu của Người. Hôm nay, ở ngôi thánh đường đã trở thành một đền thờ của lòng thương xót ở Roma đây, và vào Chúa Nhật này đã được Thánh Gioan Phaolô II cung hiến cho LTXC 20 năm trước, chúng ta tin tưởng đón nhận sứ điệp này (http://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/homilies/2000/documents/hf_jp-ii_hom_20000430_faustina.html). Chúa Giêsu đã nói với Thánh Faustina (http://www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/ns_lit_doc_20000430_faustina_en.html) rằng: "Cha là chính tình yêu và lòng thương xót; không có một khốn cùng nào của con người có thể tương đương với lòng thương xót của Cha" (Nhật Ký ngày 14/9/1937). Có lần Thánh Faustina cảm thấy mãn nguyện thưa cùng Chúa Giêsu rằng, ngài đã hiến dâng cho Chúa tất cả cuộc sống của ngài, cùng với tất cả những gì ngài có. Thế nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho ngài bàng hoàng sửng sốt: "Con chưa có hiến dâng cho Cha điều thực sự là của con". Người nữ tu thánh đức này đã giữ lấy cho mình cái gì vậy? Chúa Giêsu từ ái bảo cho ngài biết rằng: "Hỡi con gái của Cha, con hãy cống hiến cho Cha các sa ngã của con" (ngày 10/10/1937). Chúng ta cũng có thể tự hỏi rằng: "Tôi đã hiến dâng cho Chúa những sai phạm của tôi chưa? Tôi đã để cho Người thấy tôi sa ngã để Người có thể nâng tôi lên chưa?" Hay là tôi vẫn còn một cái gì đó kín mật trong tôi? Một tội lỗi nào đó, một tiếc hận quá khứ nào đó, một vết thương trong lòng nào đó, một ác cảm hận thù với ai đó, một ý nghĩ về một con người đặc biệt nào đó... Chúa đang chờ đợi chúng ta để chúng ta cống hiến cho Người những sai phạm của chúng ta, hầu Người có thể giúp chúng ta cảm nghiệm thấy lòng thương xót của Người.

    Chúng ta hãy trở lại với những người môn đệ. Các vị đã bỏ rơi Chúa trong cuộc Khổ Nạn của Người và cảm thấy lội lỗi. Thế nhưng, khi gặp các vị, Người đã không cho các vị một trận. Người đã tỏ các thương tích của Người cho các vị là những con người đã bị nội thương. Người môn đệ Toma bấy giờ có thể chạm đến các thương tích của Người, và nhận biết được tình yêu của Chúa Giêsu cùng với biết bao đớn đau Người đã phải chịu vì ngài, dù ngài đã bỏ rơi Người. Nơi các thương tích ấy, bằng bàn tay của mình, ngài đã chạm tới tấm lòng gắn bó dịu dàng của Thiên Chúa. Người môn đệ Toma này đã đến trễ, thế nhưng một khi ngài đã lãnh nhận lòng thương xót, thì ngài đã qua mặt các vị môn đệ khác: ngài chẳng những đã tin vào cuộc phục sinh này, mà còn vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa nữa. Rồi ngài đã thực hiện một lời tuyên xưng chân thành và tuyệt vời nhất, đó là: "Lạy Chúa con và lạy Thiên Chúa của con!" (câu 28). Đó là cuộc phục sinh của người môn đệ này: nó được đi kèm theo ở chỗ nhân tính yếu hèn và bị thương tích của ngài liên kết với nhân tính của Chúa Giêsu. Ở đó, mọi ngờ vực đều được giải tỏa; ở đó Thiên Chúa đã trở nên Thiên Chúa của con; ở đó chúng ta bắt đầu chấp nhận bản thân mình và ưu ái sự sống thực sự.

    Anh chị em thân mến, trong thời điểm thử thách chúng ta đang trải qua đây, cả chúng ta nữa, như người môn đệ Toma, với những nỗi lo sợ của chúng ta và ngờ vực của chúng ta, đã nghiệm cảm thấy những gì là yếu hèn của mình. Chúng ta cần đến Chúa, Đấng thấy được một vẻ đẹp bất khả đè nén bên trên cả những gì là yếu hèn nữa. Với Người, chúng ta tái nhận thức được rằng chúng ta quí báu biết bao, ngay cả nơi tính chất dễ bị tổn thương của chúng ta. Chúng ta khám phá ra rằng chúng ta giống như những thứ pha lê lộng lẫy, vừa mỏng dòn lại vừa quí báu. Và như là pha lê, nếu chúng ta trở nên trong suốt trước nhan Người, thì ánh sáng của Người - thứ ánh sáng của lòng thương xót - sẽ chiếu sáng vào chúng ta và qua chúng ta vào thế giới. Như Thư Thánh Phêrô đã viết, đó là lý do được "tràn đầy niềm vui, cho dù hiện nay anh em phải chịu đựng các thử thách khác nhau trong một thời gian" (1Phero 1:6).

    Vào ngày lễ LTXC này, sứ điệp tuyệt nhất từ người môn đệ Toma này, người môn đệ đến trễ; ngài là người môn đệ duy nhất vắng mặt. Thế nhưng Chúa đã chờ đợi Toma. Lòng thương xót không bỏ rơi những ai bị chậm trễ. Giờ đây, trong khi chúng ta đang hướng tới một cuộc phục hồi chầm chậm và gay go từ dịch bệnh này, có một nguy cơ sẽ quên lãng những ai bị bỏ lại đằng sauCái nguy cơ này là ở chỗ chúng ta bấy giờ có thể bị tấn công thậm chí bởi một thứ vi khuẩn còn nguy hại hơn nữa, thứ vi khuẩn của tính dửng dưng lạnh lùng vị kỷ. Một thứ vi khuẩn đươc lan truyền theo ý nghĩ rằng sự sống tốt đẹp hơn khi nó tốt đẹp hơn cho tôi, và hết mọi sự sẽ tốt đẹp khị nó tốt đẹp đối với tôi. Nó bắt đầu từ đó và tiến đến chỗ chọn người này hơn người kia, khi loại trừ người nghèo, và hy sinh những con người bị bỏ lại ở đằng sau cái bàn thờ tiến bộ. Tuy nhiên, cái dịch bệnh này là những gì nhắc nhở chúng ta rằng không có những khác biệt hay biên giới gì hết giữa những ai đang chịu đựng. Tất cả chúng ta đều yếu hèn, tất cả đều bình đẳng, tất cả đều quí báu. Chớ gì chúng ta biết sâu xa rung động trước những gì đang xẩy ra chúng ta chúng ta đây: đã đến lúc cần phải loại trừ đi những gì là bất bình đẳng, chữa lành các thứ bất công đang làm hao mòn đi sức lực của toàn thể gia đình nhân loại! Chúng ta hãy học được bài học từ cộng đồng Kitô hữu sơ khai như được Sách Tông vụ thuật lại. Cộng đồng này đã lãnh nhận lòng thương xót và đã sống bằng lòng thương xót, ở chỗ: "Tất cả những ai tin tưởng thì qui tụ lại với nhau và bỏ tất cả mọi sự làm của chung; và họ đã bán những sở hữu vật của mình mà phân phát chúng cho tất cả mọi người, tùy theo nhu cầu" (Tông Vụ 2:44-45). Đó không phải là một thứ ý hệ, mà là Kitô giáo.

    Trong cộng đồng này, sau cuộc phục sinh của Chúa Kitô, chỉ có một người bị bỏ lại và các người khác đã chờ đợi người ấy. Ngày nay thì hoàn toàn trái ngược, ở chổ chỉ có một phần nhỏ nhân loại đã tiến lên phía trước, trong khi đa số vẫn còn lẽo đẽo theo sau. Mỗi người chúng ta có thể nói: "Đó là những vấn đề phức tạp, việc của tôi không phải là chăm sóc cho người thiếu thốn, những người khác cần phải quan tâm đến nó!" Thánh Faustina, sau khi gặp gỡ Chúa Giêsu đã viết: "Trong một linh hồn đang đau khổ chúng ta cần phải thấy Chúa Giêsu trên thập tự giá, không phải như là một thứ ký sinh trùng hay là một gánh nặng.... Lạy Chúa, xin ban cho chúng con cơ hội để thực thi các việc làm của lòng thương xót, và chúng con thực hành khi có những phán đoán" (Nhật Ký ngày 6/9/1937). Tuy nhiên, chính bản thân của mình thì có lần ngài đã than phiền với Chúa Giêsu rằng người ta bị cho là ngớ ngẩn khi tỏ lòng thương xót. Chị thưa: "Chúa ơi, họ thường lạm dụng lòng tốt của con". Chúa Giêsu đã trả lời cho chị rằng: "Không sao đâu, con đừng để nó bận lòng con, con hãy cứ luôn tỏ lòng thương xót với hết mọi người" (24/12/1937). Đối với hết mọi người, chúng ta đừng chỉ nghĩ đến các thứ lợi lộc của mình, các thứ quyền sở hữu của mình. Chúng ta hãy đón nhận thời điểm thử thách này như là một dịp để sửa soạn cho tương lại chung của chúng ta, một tương lai cho tất cả mọi người không loại trừ bất cứ một ai. Vì không có một cái nhìn bao gồm tất cả thì cũng sẽ không có tương lai cho bất cứ một ai đâu.

    Hôm nay, tình yêu thương chân thành và giải giới của Chúa Giêsu đã hồi sinh tấm lòng người môn đệ của Người. Như tông đồ Toma, chúng ta hãy chấp nhận lòng thương xót, ơn cứu độ của thế giới nàyChúng ta hãy chứng tỏ lòng thương xót với những ai dễ bị tổn thương nhất; vì chỉ có thể chúng ta mới xây dựng được một thế giới mới thôi.

    http://w2.vatican.va/content/francesco/en/homilies/2020/documents/papa-francesco_20200419_omelia-divinamisericordia.html

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu 

     

    Pope Francis at Mass in the Church of the Holy Spirit in Saxony

    Huấn Từ trước Kinh lạy Nữ Vương cuối lễ:

    Vào Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh này, cần phải cử hành Thánh Thể ở nơi đây, ở nhà thờ Thánh Linh tại Sassia này, một ngôi thánh đường đã được Thánh Gioan Phaolô II muốn trở thành Đền Thờ LTXC. Việc đáp ứng của Kitô hữu trong cơn giông tố về sự sống và lịch sử này chỉ có thể bằng lòng thương xót thôi: đó là tình yêu cảm thương giữa giữa chúng ta và cho tất cả mọi người, nhất là với những ai đang đau khổ, những ai đang khốn khó hơn, những ai bị bỏ rơi.... Không phải là thứ duy đạo đức, không phải là thứ duy phúc hạnh, mà là lòng cảm thương xuất phát từ con tim. LTXC xuất phát từ Con Tim của Chúa Kitô Phục Sinh. Nó xuất phát từ vết thương hằng rộng mở ở cạnh sườn Người, mở ra cho chúng ta, những con người luôn cần đến ơn tha thứ và niềm an ủi. Lòng thương xót của Kitô hữu cũng tác động một thứ chia sẻ chính đáng giữa các dân nước và các cơ cấu của họ, trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng hiện nay một cách đoàn kết.... (sau đó ĐTC gửi loời chúc mừng Lễ Phục Sinh với Giáo Hội Chính Thống Đông Phương)

    https://zenit.org/articles/regina-caeli-address-holy-father-greets-eastern-christians-celebrating-easter/

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu 

     

    Pope Francis at Mass in the Church of the Holy Spirit in Saxony

    Pope Francis celebrates Mass at Santo Spirito in Sassia April 19, 2020. Credit: Vatican Media

    XIN MỜI XEM TV SHOWS VỀ LỄ LTXC, SỨ ĐIỆP LTXC, TRUYỆN VỀ LTXC VÀ ẢNH LTXC Ở 2 CÁI LINK SAU ĐÂY:

      Lễ LTXC và Sứ Điệp LTXC:  

    https://youtu.be/pxVMZHmKDxg

    Truyện Kể về LTXC và Ảnh LTXC:

    https://youtu.be/K0EmeujKGks

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHqz0--COaTuzWegnNhr%3DLsWNt896sCzG3i7WqUAyPVPng%40mail.gmail.com.
     
     

ĐỜI SỐNG MỚI TRONG THẦN KHÍ- GẶP GỠ ĐỨC KITO

Gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh

Trong suốt Tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục Sinh đến nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra. Từ những lần thấy Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:

1. Chúa Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Chúa Kitô Phục Sinh không con bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nới các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmaus, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đang đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syria, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Chúa Kitô Phục Sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Chúa Kitô Phục Sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở làng Emmaus khi trời sắp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Chúa Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào mà Người không ở bên ta.

Chúa Kitô Phục Sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn. bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmaus, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

2. Chúa Kitô Phục Sinh khơi dậy niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bần loạn sau cái chết của Thầy, Chúa Kitô Phục Sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”. Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Chúa Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Chúa Kitô Phục Sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmaus u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn nấp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Chúa Kitô Phục Sinh chính là niềm bình an cho các ông.

3. Chúa kitô Phục Sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Chúa Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. không, họ không con sống nữa vì cuộc đời đối với họchẳng còn ý nghĩa gì. họ như đã chết với Thầy. chỉ có nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Chúa Kitô là linh hồn của họ. linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.

Khi Chúa Kitô Phục Sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp Người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

4. Chúa Kitô Phục Sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Chúa Kitô Phục Sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc sống các môn đệ. Chúa Kitô Phục Sinh là Tin Mừng lớn lào trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmaus lập tức trở về Giêrusalem bất chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một Người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Chúa Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.

Tất cả những Người đã thấy Chúa Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Hôm nay Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến khi mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta. Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm. Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú mẹ. Người ở bên em học sinh đang mải mê đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên những cuộc đời bế tắc không lối thoát.

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người. Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Chia sẻ Bài này:
 

Related posts

 
 

ĐỜI SỐNG MỚI TRONG THẦN KHÍ- ÔNG ĐÃ THẤY- VÀ TIN

Ông đã thấy và … tin

          Chắc hẳn chưa bao giờ người Công Giáo lại mang một tâm trạng vừa hoang mang vừa buồn  đau như Thánh Lễ Phục Sinh năm nay. Thánh  Lễ trọng thể nhất trong năm  mà giáo dân lại không được tham dự ! Tâm trạng ấy, Madalena cũng  đã trải qua trong một sáng tinh mơ sau ngày lễ Vượt Qua, bà vội vã  ra thăm mộ Chúa Giê Su, thấy tảng  đá bị dời đi và xác Người Thầy thân yêu  không còn ở đó . Hốt hoảng và sợ hãi bà vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ.

          Hai ông Phê Rô và Gioan cùng chạy ra nhưng Gioan thì chạy mau hơn, đến mộ trước:“ Cúi xuống, dòm vào thấy vải gai mịn còn đó  nhưng không vào. Si Mon Phê Rô theo sau cũng đến và vào trong mộ, thấy vải gai vẫn còn đó và cái khăn trùm đầu Ngài chẳng để chung với vải liệm nhưng gấp lại để riêng ra một nơi khác. Bấy giờ môn đệ kia ( Gioan ) đến mộ trước  cũng vào thì ông đã thấy và tin” ( Ga 20, 1- 8 ).

          Qua trình thuật Phục Sinh này cho thấy có ba trường hợp. Bà Madalena vội vã ra mộ, thoạt đầu chỉ là để…viếng Chúa. Nhưng khi thấy tảng đá lấp mộ  đã bị dời đi và không còn xác Chúa ở đó nữa thì  hốt hoảng chạy về báo tin cho các ông. Còn Gioan, khi thấy hiện tượng đó thì tin chắc là Chúa đã sống lại. Riêng với Phê Rô  thì cũng thấy như Gioan nhưng ông…không tin. Sở dĩ nói Phê Rô…không tin là vì dường như ông chán nản, muốn bỏ cuộc  để trở về với nghề đánh cá trước đây. Khi đang cùng ở với Thomas, Nathanael và hai môn đệ khác, Phê Rô nói: Tôi đi  đánh cá đây. Họ đáp: Cho chúng tôi đi với, họ đều ra đi nhưng đêm đó họ chẳng đánh được gì” ( Ga 21, 2 -3 ).

          Trường hợp của Madalena, giả dụ bà thấy tảng đá lấp mộ vẫn…còn đó  thì  chắc hẳn…yên trí rằng xác Người Thầy mình rất mực tôn kính và yêu mến vẫn còn đó. Có thể  bà  sẽ ngồi đó khóc thương, kể lể một hồi lâu rồi đành…lủi thủi ra về ?.

          Giả dụ trên đây ứng với nhiều người Công Giáo chúng ta hôm nay trong cơn dịch  bệnh  đáng sợ này. Không có Thánh Lễ thì kể như cũng không có Chúa hoặc Chúa …đã chết rồi !. Người ta cũng có thể …buồn chán, than thở với nhau  một thời gian ngắn rồi thôi để trở lại với những mối lo toan cơm, áo, gạo, tiền giống như Phê Rô xưa kia  với nghề  đánh cá ?

          Thế nhưng sự thật Chúa đã sống lại và trong khoảng thời gian còn ở lại trần gian, Ngài  đã tích cực hoạt động  để vực dậy đức tin cho các  Tông Đồ hầu trao phó cho họ sứ mạng mà chính Ngài  đã nhận lãnh từ nơi Chúa Cha.

          Trước một biến cố  đau thương, kinh hoàng như thế, các môn đệ  đều hoảng sợ, dường như mất hết cả lòng tin. Chúa  hiện ra với các ông nhiều lần  để an ủi và tỏ cho biết quả thật Ngài đã sống lại: “ Lúc họ đang nói về những việc ấy, chính Chúa Giê Su đứng giữa họ mà phán: Bình an cho các con. Nhưng họ  đều kinh hoàng  sợ hãi, tưởng là thấy ma. Ngài phán: Sao các ngươi bối rối và sao trong lòng các con nổi lên ý tưởng như vậy ?  Hãy xem chân tay Ta, thật chính là Ta. Hãy rờ Ta xem, vì ma  đâu  có thịt xương như các ngươi thấy Ta có đây. Nói xong Ngài chỉ cho họ xem tay và chân Ngài. Đương khi họ chưa dám tin vì cả mừng và lấy làm lạ thì Ngài phán tiếp: Ở đây các con có chi ăn không ? Họ trao cho Ngài một miếng cá nướng, Ngài nhận lấy mà ăn trước mặt họ” ( Lc 24, 36 -42 ).

          Để chứng minh Ngài đã sống lại và hiện hữu trước mặt các Tông Đồ như một con người bằng xương bằng thịt, Chúa Giê Su đã…ăn cá nướng như  khi Ngài còn sống với các ông. Những cử chỉ đơn sơ đầy tính nhân văn của Chúa đã chứng tỏ tình yêu thương vô bờ bến của Chúa Ki Tô Phục Sinh.

          Thực hiện những việc ấy Chúa chỉ muốn thể hiện Tình Yêu Thương đối với nhân loại trước hết là các Tông Đồ, những con người sau này sẽ là những chứng nhân cho Ngài. Cũng chính vì tình yêu thương cao cả  đó mà sau ba lần vặn hỏi, Chúa đã trao phó đoàn chiên cho Thánh Phê Rô. Ngài lại còn hỏi lần thứ ba rằng: Si Mon Phê Rô, con Gioan ơi ! Con có kính mến Ta  chăng ? Phê Rô buồn rầu vì Ngài đã hỏi tới lần thứ ba, bèn đáp: Thưa Chúa, Chúa biết mọi sự, Thầy biết con kính mến Thầy. Chúa phán: Hãy chăn dắt đoàn chiên Thầy” ( Ga 21, 15 -27 ).

          Vào lúc đương thời, Chúa Giê Su đã đặt Phê Rô làm đầu cai quản Hội Thánh và trao cho quyền bính tối thượng. Trải qua  quãng thời gian theo Chúa, Phê Rô mặc dù có nhiều vấp váp nhưng vẫn một lòng một dạ theo Ngài: “ Bỏ Thầy, con biết theo ai ?” ( Ga 6, 68 ).

          Xác định theo Chúa đó là một ơn gọi không phải do mình nhưng là do Chúa. Phê Rô và các bạn chài cũng như Mattheu, Nathanael, Phao Lô sau biến  cố Đa Mat, mỗi người trong những hoàn cảnh, thời điểm khác nhau đều được Chúa kêu gọi và trung thành với ơn gọi ấy  đến cùng.

          Người Công Giáo cũng có ơn gọi làm Con Chúa: “ Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh cũng như trong sự kêu gọi mình mà anh em đã  được gọi đến một hy vọng, một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một ĐCT là Cha mọi người, suốt qua mọi người và ở trong mọi người” ( Ep 4, 4 -6 ).

          Ơn gọi của mỗi người  giống như tiếng gọi giữa đêm tối mịt mùng. Tiếng gọi ấy  nhiều khi bị…mất hút hầu như chẳng…nghe  được gì ! Trong cơn đại dịch đáng sợ hiện nay, nhà thờ thì đóng cửa cùng với tiếng chuông  quen thuộc vang lên sớm chiều,người Công Giáo chúng ta như bị hụt hẫng, không biết đời sống sẽ ra như thế nào, có còn được  đi lễ, đi nhà thờ nữa hay không v.v…?

          Thế nhưng trong nỗi niềm hoang mang lo lắng ấy  Chúa vẫn có đó theo như lời hứa: “ Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt  28, 20 ). Chúa… ở cùng nơi các Bí Tích  và cụ thể là Bí Tích Thánh Thể. Nhưng nay Thánh Lễ không còn thì Chúa có thể ở đâu bây giờ ?

          Thật sự thì Chúa vẫn…ở cùng  nếu chúng ta có lòng tin nơi Ngài. Madalena đến tìm Chúa và không thấy Chúa ở trong mộ nữa thì bà…khóc. Tiếng khóc ấy biểu lộ tình yêu thương  của bà  đối với Chúa. Nhưng tình yêu thương ấy có phải chỉ là với một cái xác chết nếu  Chúa quả thật không…sống lại ?

          Việc tìm kiếm Chúa không phải để tìm một Đấng Chúa không có sự sống nơi mình nhưng là tìm Đấng đã phục sinh. Chúa hiện ra trong hình dạng một con người và hỏi Madalena: “ Bà kia, sao bà khóc, bà tìm ai ? ( Ga 20, 15 ).

          Nếu chúng ta tìm Chúa giống như Madalena chỉ để thấy Chúa khi còn ở trong mồ thì làm sao có thể gặp  được Ngài ? Sống  đạo mà chỉ có cái hình thức thôi thì cũng như vậy, không bao giờ gặp được Chúa, Đấng là Sự Thật và là Sự Sống của  mỗi người.

          Trong những ngày này, khi diễn biến của cơn dịch  còn khó lường, chúng ta vẫn cầu mong cho cơn dịch mau qua để nhân loại bớt khổ. Nhưng  điều cầu mong  còn khẩn thiết hơn đó là mong cho được tìm thấy Chúa và hễ có tìm thì ắt sẽ được.

          Tại sao tìm Chúa thì ắt sẽ gặp ? Bởi vì Chúa là Đấng Hằng Hữu ở trong ta, chỉ cần quay về là gặp: “ Ngày đó, các ngươi  sẽ  biết Ta ở trong Cha, các ngươi ở trong Ta  và Ta ở trong các ngươi. Ai có các giới răn  của Ta và giữ lấy, ấy là kẻ thương yêu Ta, Còn ai thương yêu Ta sẽ  được Cha Ta thương yêu lại. Ta cũng thương yêu người và tỏ chính mình Ta cho người” ( Ga 14, 20 -21 ).

          Thực thi các giớ răn nhất là giới răn yêu thương đó là mối giây ràng buộc mọi điều thiện hảo sẽ được Chúa tỏ mình ra như chính Ngài Là. Madalena khóc lóc vì không thấy Chúa nhưng khi nghe được Tiếng Chúa gọi đích danh “ Maria” thì bà quay lại, thưa: Rabbi nghĩa là  Lạy Thầy thì ngay lúc ấy bà nhận ra Thầy chính là  Đấng Phục Sinh.

          Chúa Giê Su bảo bà: “ Đừng  động  chạm đến Ta vì  Ta chưa về cùng Cha. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta  và bảo với họ rằng: Ta về cùng Cha Ta cũng là Cha các ngươi. Về cùng Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các ngươi. Maria Madalena đi báo tin cho các môn đệ rằng:  Tôi  đã trông thấy Chúa và Chúa  đã phán với tôi những điều ấy” ( Ga 20, 11 -18 ).

          Gioan khi nhìn vào trong mộ không thấy Chúa còn ở đó thì ông đã thấy và tin. Còn Madalena không thấy Chúa trong mộ thì khóc lóc tưởng người ta đã lấy mất xác Thầy mình. Nhưng sau khi nghe Chúa gọi tên thì bà đã hết sức vui mừng và theo lệnh truyền loan tin  Chúa Phục Sinh cho các anh em mình.

          Chúng ta là những người trên đường tìm Chúa và có thể cũng như Madalena khóc lóc vì không thấy Chúa. Thế nhưng việc tìm kiếm ấy chắc chắn sẽ gặp  được một khi Chúa gọi tên và mình đáp trả lại Tiếng Ngài: “  Lạy Chúa này con đây. Con  đến  đến để làm theo Ý Chúa” ( 1Sm 3, 10 )./.

Phùng  Văn  Hóa

Chia sẻ Bài này:
 

Related posts

 
 

ĐỜI SỐNG MỚI TRONG THẦN KHÍ - ĐTC -PHÚC THẬT TÁM MỐI

  •  
    Tinh Cao
     
    Wed, Apr 15 at 4:47 PM
     
     

    ĐTC Phanxicô: Giáo Lý về Bát Phúc - Bài 8: Phúc 7

     

    Phúc cho ai kiến tạo hòa bình ...

     

     

    Xin chào anh chị em thân mến!

    Bài giáo lý hôm nay được dành cho Mối Phúc thứ 7, mối phúc của "những người xây dựng hòa bình", thành phần được tuyên dương là con cái của Thiên Chúa. Tôi cảm thấy hoan hỉ khi bài giáo lý này xẩy ra ngay sau Phục Sinh, vì bình an của Chúa Kitô là hoa trái của Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người, như chúng ta đã nghe thấy ở trong Thư của Thánh Phaolô.

    Để hiểu được Mối Phúc này, cần phải giải thích ý nghĩa của chữ "hòa bình", một từ ngữ có thể bị hiểu lầm hay đôi khi bị tầm thường hóa. Chúng ta cần phải định hướng giữa hai ý tưởng về hòa bình: ý nghĩa thứ nhất về thánh kinh, nơi xuất hiện chữ shalom mỹ miều, một từ ngữ cho thấy những gì là sung mãn, thịnh vượng và phúc hạnh. Khi người ta chúc nhau bằng tiếng Do Thái lời shalom là người ta mong muốn có được một đời sống tốt đẹp, trọn vẹn, dồi dào, nhưng đồng thời cũng hợp với chân lý và công lý, một đời sống tốt đẹp sẽ được viên trọn nơi Đấng Thiên Sai, Đức Vua Hòa Bình (Cf. Isaiah 9:6; Micah 5:4-5).

    Thế rồi chữ "hòa bình" còn có một ý nghĩa khác nữa, bao rộng hơn, một hòa bình được hiểu như là một loại thanh bình lặng lẽ: Tôi cảm thấy trầm lặng, tôi cảm thấy bình an. Đó là một ý nghĩ tân tiến, có tính cách tâm lý và khêu gợi hơn. Người ta thường nghĩ rằng bình an là thinh lặng, hòa hợp và quân bình nội tâm. Ý nghĩa này về chữ "hòa bình" chưa trọn và có thể bị tuyệt đối hóa, vì trong đời sống tính chất khắc khoải có thể là một giây phút quan trọng của việc tăng trưởng. Thường chính Chúa là Đấng gieo vãi nỗi khắc khoải trong chúng ta, để tìm đến hội ngộ với Ngài, để gặp gỡ Ngài. Theo nghĩa này thì nỗi khắc khoải là một giây phút tăng trưởng; trong khi đó có thể xẩy ra trường hợp tình trạng bình lặng nội tâm  hợp với một thứ lương tâm được thuần hóa thôi, chứ không phải là một sự cứu chuộc thiêng liêng chân thực. Nhiều lần Chúa cần phải trở thành "dấu hiệu xung khắc" (Cf. Luke 2:43-35), làm cho những thứ an toàn giả tạo của chúng ta lung lay, để dẫn chúng ta đến ơn cứu độ. Nên ở vào những lúc ấy dường như không còn bình an nữa, nhưng chính Chúa đưa chúng ta trên con đường này, để đạt tới sự bình an chính Người sẽ ban cho chúng ta.

    Pope Francis gives his general audience address in the apostolic palace April 15, 2020. Credit: Vatican Media.

    Đến đây chúng ta cần phải nhớ rằng Chúa hiểu bình an của Người khác với của nhân loại, khác với của thế gian, khi Người phán: "Bình an Thày để lại cho chúng con; không như thế gian cống hiến cho chúng con" (Gioan 14:27). Bình an của Chúa Kitô là một thứ bình an khác, khác với bình an của thế gian. Chúng ta thắc mắc làm thế nào thế gian lại có thể cống hiến bình an chứ? Nếu chúng ta nghĩ về các cuộc xung đột tương tự như các cuộc chiến tranh - các cuộc chiến tranh thường kết thúc bằng 2 cách: một là việc bại trận của một bên, hay là ký kết hiệp ước hòa bình. Chúng ta chỉ có thể hy vọng và cầu xin để luôn có được cách thức thứ hai; tuy nhiên, chúng ta cần phải lưu ý rằng lịch sử là một chuỗi hiệp ước hòa bình bất tận bị bẻ cong bởi các cuộc chiến tranh liên tục, hay bởi tính cách biến thái của cùng những cuộc chiến như vậy một cách khác và ở những nơi khác. Trong thời đại của chúng ta đây cũng thế, một cuộc chiến từng phần đang xẩy ra ở những kịch bản còn hơn thế nữa, và bằng những đường lối khác. Chúng ta cần phải ít là nghi vấn rằng theo khuôn thức của chiều hướng theo một thứ toàn cầu hóa, được đặc biệt tạo nên bởi những lợi lộc về kinh tế và tài chính, thì "hòa bình" của ai đó có tương hợp với "chiến tranh" của những ai khác hay chăng. Đó không phải là bình an của Chúa Kitô!

    Pope Francis during the weekly General Audience

    Thế nhưng, Chúa Giêsu ban bình an của Người ra sao? Chúng ta đã nghe Thánh Phaolô nói rằng bình an của Chúa Kitô là để "làm hai thành một" (Cf. Ephesians 2:14), là để hủy bỏ hận thù và để hòa giải. Và cách thức để hoàn thành công cuộc hòa bình này đó là thân mình Người. Thật vậy, Người hòa giải tất cả mọi sự và ban bình an bằng Máu Thánh Thánh Giá của Người, như được chính vị tông đồ này nói ở một chỗ khác (Cf. Colossians 1:20). Ở đây, tôi tự hỏi, tất cả chúng ta đều tự vấn: vậy thì ai là những "người xây dựng hòa bình"?  Mối Phúc thứ 7 là những gì chủ động nhất, những gì năng động rõ ràng. Việc diễn đạt bằng ngôn từ là những gì giống như từ ngữ được sử dụng ở câu đầu tiên Thánh Kinh về việc tạo dựng, và nó cho thấy những gì là khởi động và hành sự. Bởi bản chất của mình, tình yêu là những gì sáng tạo - tình yêu bao giờ cũng sáng tạo - và tìm hết cách hòa giải bao nhiêu có thể. Những ai được kêu gọi là con cái của Thiên Chúa đều biết nghệ thuật hòa bình và áp dụng thực hành nó; họ biết rằng không có chuyện hòa giải mà lại không cống hiến sự sống của mình, và bao giờ cũng phải tìm kiếm bình an bất kể ra sao. Đừng quên điều ấy! Bình an cần phải được tìm kiếm như thế. Đó không phải là một công việc tự động, công lao do khả năng mình có; nó là biểu lộ của ân sủng do Chúa Kitô ban cho, Đấng là bình an của chúng ta, Đấng đã làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa.

    Shalom đích thực và mức độ quân bình nội tâm chân thật xuất phát từ bình an của Chúa Kitô, thứ bình an đến từ Thánh Giá của Người và phát sinh một nhân loại mới, được hiện thân nơi một dẫy bất tận những vị Thánh nam nữ, có tính chất sáng chế, có tính chất sáng tạo, những vị luôn nghĩ ra những cách thức mới mẻ để yêu thương - những Thánh nhân nam nữ kiến tạo hòa bình. Đời sống này của những người con cái Thiên Chúa, một đời sống, nhờ Máu Chúa Kitô được những người anh em của chúng ta tìm kiếm và khám phá, thực sự là hạnh phúc. Phúc cho những ai theo đuổi đường lối này.

    Một lần nữa, chúc tất cả anh chị em một Phục Sinh hạnh phúc trong bình an của Chúa Kitô!

      

    https://zenit.org/articles/general-audience-full-text-blessed-are-the-peacemakers/

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu 

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHpPns9uLyKYcZpY%3DztKOea-NrsEuTvYjrot2K0GWumQ-g%40mail.gmail.com.
     

ĐỜI SỐNG MỚI TRONG THẦN KHÍ - ĐỔI MỚI SAU LỄ PHỤC SỐNG

  •  
    nguyenthi leyen
    Sun, Apr 12 at 12:39 AM
     
     
    NHỜ ƠN CHÚA PHỤC SINH - TÔI QUYẾT TÂM ĐỔI MỚI
     
     
    Ảnh cùng dòng

    MỪNG LỄ CHÚA PHỤC SINH, KITÔ HỮU XIN ƠN ĐỔI MỚI

     

    Mỗi lần mừng lễ Phục Sinh, tín hữu chúng ta đều chìm ngập trong bầu khí hân hoan vui sướng. Vì Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia! Alleluia! Biến cố Chúa sống lại từ cõi chết đã trở thành một bảo chứng chắc chắn ơn cứu rỗi cho ta bây giờ và sau này.

     

    Chúng ta luôn xác tín điều này là, “Đức Kitô đã sống lại. Vì thế chúng ta không còn lý do gì để buồn sầu, đau khổ hay thất vọng. Niềm tin vào Đấng Phục Sinh có sức biến đổi đời sống chúng ta: tăng thêm niềm tin yêu và lòng can đảm, nhiệt thành làm chứng về Người. Chúa Kitô đã sống lại và chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Người cho nên thay vì lo lắng những chuyện mau qua chóng hết, chúng ta hướng hết tâm trí lên Người, tìm kiếm những gì thuộc vương quốc của Người”. [1]

     

    Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11).

     

    Sự kiện Đức Ki-tô phục sinh luôn hướng chúng ta về một thực tại mới: sự sống mới, cuộc sống mới, con người mới và tất cả những gì được biến đổi nhờ sức mạnh của Thánh Thần. Đó là ơn Phục Sinh Chúa hứa ban cho chúng ta. Và thánh Phao-lô đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em phải để Thần Khí đổi mới anh em” (Ep 4, 23). 

     

    Ngay từ đầu mùa Chay, chúng ta đã được nhắc bảo về tâm tình và thái độ phải có để đón nhận sự tha thứ và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, đó là sám hối và tin vào Tin Mừng (x. Mc 1, 15). Đây là một sự chuẩn bị cần thiết giúp chúng ta hoán cải con người cũ để đón nhận ơn Phục Sinh. Lời kêu gọi hoán cải luôn là một sứ điệp hệ trọng nhắc nhở chúng ta khiêm tốn và chân thành trong việc thay cũ đổi mới toàn bộ con người và cuộc sống chúng ta.

     

    Sự hoán cải mang tầm vóc quan trọng nhất của đời người, vì không có hoán cải thì không có đổi mới bản thân, không muốn trở về với Chúa, nên cũng không thể đón nhận Tin Mừng và ơn cứu độ (x.Lc 13, 3.5).

     

    Chúa kêu gọi chúng ta hoán cải. Điều đó có ý nghĩa gì?

     

    “Hoán cải (conversion) được sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau. Nói chung, hoán cải là một sự thay đổi đời sống: bỏ một cung cách sống quen thuộc để nhận một cung cách sống mới tốt hơn; quên mình để biết phục vụ tha nhân và cộng đồng hữu hiệu hơn. Cuối cùng, dù quyết định hay đổi mới cách nào đi nữa, thì điều quan trọng là đưa ta tới gần Đấng là nguồn mạch thiện hảo, và cũng là đích điểm của đời sống con người. Ý nghĩa cuối cùng này hoàn toàn mang tính tôn giáo.

     

    “Hoán cải theo từ Hy Lạp (metanoia) dùng trong Tân Ước có nghĩa là đổi ý hướng, đổi tâm tình, đổi não trạng. Sự thay đổi này không chỉ trên bình diện tâm trí, mà còn là có nghĩa là thay đổi hướng đi, thay đổi đường xưa lối cũ, để quay về với Thiên Chúa, để ta được kết hợp và dự phần vào sự sống của Ngài.

     

    “Hoán cải là một trong những điểm then chốt của đời sống Kitô hữu. Nó bàng bạc trong tất cả giáo huấn của Kinh Thánh, từ lời rao giảng của các ngôn sứ, Gioan Tẩy Giả, đến Đức Giêsu và các Tông Ðồ. "Hãy sám hối", "Hãy hoán cải" là những lời đầu tiên Ðức Giêsu nói với người Do Thái, trước cả những lời dạy được coi là cốt yếu khác, trước cả Bài Giảng Trên Núi được coi là Hiến chương của Nước Trời. Lời kêu gọi hoán cải còn tiếp tục vang lên trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu cho tới Thập giá, thậm chí cho tới lúc Ngài về trời, qua lời Ngài căn dặn các môn đệ là "phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24, 47). [2]

      

    Thánh Phao-lô đã nhắc nhở: “Anh em phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Eph 4, 24). Ngài cũng quả quyết rằng: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3, 27). Ngài cũng mời gọi: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13,14).

     

    Vậy để đón nhận ơn Phục Sinh mà Chúa đã hứa ban, chúng ta phải chấp nhận một cuộc “lột xác”, tức là thay cũ đổi mới. Đổi mới con người, đổi mới đời sống, đổi mới tư duy, đổi mới trái tim, đổi mới hành động, đổi mới các các lối sống không phù hợp với Tin Mừng…

     

    Đổi mới tư duy: Từ bỏ cách giữ đạo hình thức

     

    Ki-tô hữu là người tin Chúa, theo Chúa, là người có đạo Chúa. Chúng ta luôn hãnh diện về điều đó. Tuy nhiên, xét cho kỹ, nhiều người trong chúng ta có đạo, giữ đạo nhưng không sống đạo. Chúng ta giữ đạo như mặc một chiếc áo bên ngoài, như mang một trang sức đặc biệt, như sở hữu một đồ vật gì quý giá. Đạo như thế mãi mãi bên ngoài ta, đạo chưa thấm vào máu thịt ta nên đạo chưa ảnh hưởng gì đến ta và ta chưa đồng hóa được với đạo.

     

    Thánh Phao-lô đã nhấn mạnh: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3, 27). Chỗ khác ngài cũng nói: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13, 14). 

     

    Như vậy “mặc lấy Đức Ki-tô” là cách nói diễn tả sự thuộc về, sự đồng hóa của tín hữu đối với Chúa Ki-tô. Khi chúng ta giữ đạo một cách hời hợt, hình thức thì quả thực Chúa chẳng ảnh hưởng gì đối với ta. Cùng lắm là chúng ta chỉ làm một vài việc của Chúa, tham gia một vài hoạt động nhân danh Chúa, mặc những chiếc áo đồng phục hội-đoàn-nhóm sinh hoạt trong cộng đoàn. Và điều đó nhiều khi lại là cái cớ khiến ta vấp phạm.

     

    Đức HY Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận đã nhắc nhở chúng ta là hãy đặt Chúa lên trên việc-của-Chúa. Bởi vì khi chúng ta quá say mê làm những việc-của-Chúa, việc-của-cộng đoàn, việc-của-đoàn thể thì sẽ dễ dàng bỏ qua đời sống nội tâm, lơ là việc kết hiệp với Chúa, khô khan ít cầu nguyện, và không quan tâm tới thực thi bác ái đối với tha nhân.

     

    Đặc biệt trong bài “Mười căn bệnh làm băng hoại người công giáo”, Đức cố Hồng y cũng đã lưu ý chúng ta về bệnh chuẩn mực trần tục: Lấy tinh thần, não trạng trần tục làm chuẩn mực cho cuộc sống mình. Làm việc Chúa, nhưng không theo tinh thần Phúc Âm mà lại dùng tiêu chuẩn hoàn toàn trần tục để chuẩn định. Người Công giáo kiểu đó thường hay trở thành công giáo tùy thời: Thịnh thì Công giáo, suy thì chối.

     

    Ngài cũng đề cập việc loại người Công giáo vụ lợi: Có mùi vật chất thì tới, không thì miễn. Công giáo danh dự: Chỉ siêng năng xuất hiện khi có lễ lạc được mời lên ghế danh dự, không thì biệt tăm chẳng bao giờ thấy. [3]

     

    Nguy cơ của việc giữ đạo hình thức là khi nào cần Chúa thì ta chạy đến cầu xin, khấn vái, khi nào ta thấy mình đầy đủ yên ổn cả rồi thì không quan tâm đến Chúa nữa. Đó là thực tế mà chúng ta phải suy nghĩ. Người Ki-tô hữu chính danh sẽ luôn là tấm gương phản chiếu dung nhan Đức Ki-tô phục sinh. Nếu không, Chúa sẽ nói với chúng ta, “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. (Mc 7, 6)

     

    Đổi mới tấm lòng: Mở rộng trái tim để yêu như Chúa

     

    “Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con” (Tv 50).

     

    Dịp lễ Phục Sinh là cơ hội thuận tiện để chúng ta xin Chúa Thánh Thần canh tân lòng trí chúng ta. Nhất là ban cho cho chúng ta một quả tim mới để chúng ta yêu Chúa như Chúa muốn và yêu người như Chúa yêu.

     

    Thông thường trong đời sống đạo, chúng ta quan tâm đến những vấn đề đức tin, thực hành nghi lễ hơn là đức ái. Chúng ta siêng năng việc kinh kệ, lễ nghi, rước sách, hội đoàn, lễ mừng. Trong khi thực thi đức ái phải là mối quan tâm hàng đầu vì đó là giới răn cực kỳ quan trọng của người Ki-tô hữu. Đức ái chính là dấu hiệu của người môn đệ Đức Ki-tô. Chúa đã phán: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).

     

    Thực tế, chúng ta đã thực hành đức ái thế nào? Trong gia đình, ông bà cha mẹ yêu thương con cháu ra sao? Con cháu quý mến ông bà cha mẹ thế nào? Anh chị em quan tâm nâng đỡ nhau làm sao? Trong đời sống hôn nhân, vợ chồng đối xử với nhau thế nào? Trong cộng đoàn lớn nhỏ, chúng ta phục vụ nhau ra sao… Tất cả những câu hỏi đó đều có liên quan tới bác ái Ki-tô giáo.

     

    Để yêu như Chúa yêu, chúng ta không thể yêu lưng chừng được. Cũng không phải là yêu “có điều kiện” như kiểu có qua có lại mới toại lòng nhau! Tình yêu của chúng ta với nhau phải dõi theo mẫu gương yêu thương của Đức Ki-tô. Đó là yêu đến cùng (x. Ga 13, 1), yêu mãnh liệt, yêu vị tha, yêu quy hướng về Cha trên trời, yêu trong tinh thần vâng phục và khiêm tốn.

     

    Những ai tin theo Chúa không có chọn lựa nào khác là yêu như Chúa và nhờ Chúa. Lời Chúa vẫn còn đây: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).

     

    Có thể nói nét chính yếu nhất của việc sống đạo của Ki-tô hữu, đó là thực thi lòng mến Ki-tô giáo. Mến Chúa yêu người luôn là giới răn quan trọng nhất. Thánh Phao-lô đã tóm tắt trong câu ngắn ngủi này, “Yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 10). Thánh Gio-an cũng nhấn mạnh, “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (1Ga 4, 7).

     

    Việc yêu người luôn xuất phát từ lòng mến Chúa. Cho nên những ai tin theo Chúa thì không thể bỏ sót việc thực thi nhiệm vụ bác ái đối với tha nhân được. Việc sống đạo, hành đạo của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết tích cực phục vụ Đức Ki-tô trong anh em. Như Chúa đã phán, “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9, 41).

     

    Chúng ta vẫn thường tự hào nói rằng “Đạo Công giáo là đạo-yêu”. Điều đó rất chính xác. Có nghĩa là Ki-tô hữu chúng ta phải là những người biết yêu và sống yêu. Chúa Giê-su cũng đã khẳng định, chỉ những người yêu anh em mình thì mới xứng đáng là môn đệ của Chúa (x. Ga 13, 34-35). Thánh Phao-lô cũng nhấn mạnh, “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 8).

     

    Đổi mới nếp sống cũ: Đón nhận đời sống mới trong Đức Ki-tô

     

    Về việc đón nhận đời sống mới trong Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã căn dặn các tín hữu thế này: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4, 22-24).

     

    Chúng ta biết rằng, truyền giáo là bản chất của Hội thánh và mỗi Ki-tô hữu là một tông đồ, một nhà truyền giáo và một chứng nhân. Nói cách khác, mỗi Ki-tô hữu và cộng đoàn chúng ta phải là ánh sáng, là men, là muối cho đời (x. Mt 5, 13-16). Nhưng chúng ta sẽ làm chứng làm sao về Chúa Ki-tô chết sống lại, chúng ta sẽ rao giảng như thế nào về Tin Mừng Ki-tô giáo, khi mà đời sống của cá nhân và cộng đoàn chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của thói quen phô trương, tinh thần tục hóa và nếp sống xa hoa phung phí.

     

    a- Từ bỏ nếp sống phô trương và tục hóa

     

    Đức cố HY Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận trong bài “Mười căn bệnh làm băng hoại người công giáo”, đã nhắc nhở tín hữu như sau:

     

    “Căn bệnh phô trương chiến thắng: Làm gì cũng chỉ nhắm chuyện phô trương là chính. Bệnh này tiếng pháp gọi là ‘triomphalisme’; người Mỹ cũng có từ ngữ ‘show up’.

     

    “Thỉnh thoảng đây đó đọc trên những bản tin sinh hoạt cộng đoàn thật nức lòng: Đại lễ tổ chức vô cùng thành công, cuộc rước kéo dài cả nửa cây số, nhiều chục cha đồng tế, bữa tiệc kết thúc thật linh đình, bà con vô cùng hoan hỉ, chưa có bao giờ và có ai tổ chức được lớn như thế … Nhưng hết tiệc ra về rồi là hết. Đại lễ hôm qua hôm nay thành quá khứ xa lơ. Cảm xúc hôm qua hôm nay gọi mãi chẳng thấy về! Hãy cai chứng bệnh phô trương, vì cái chiều sâu thực sự ít ai quan tâm. Ta bảo sáng danh Chúa, nhưng xét cho kỹ Chúa mấy phần trăm, ta mấy phần trăm?

     

    “Có những điều không cần phải phô trương. Nhưng nó sẽ từ từ thấm vào lòng người, người ta sẽ hiểu. Người ta hiểu, nhưng đồng thời người ta cũng có tự ái. Càng huyênh hoang, càng làm cho người ta ghét. Mà thành công đâu phải do mình tài giỏi gì. Nhưng mọi chuyện là nhờ ơn Chúa. Như vậy mình càng không có lý do gì để phô trương. Lúc đang huyênh hoang thì chính là lúc nguy hiểm nhất, tai hại nhất, vì đó là lúc mình mất cảnh giác. Khi nào thấy sau một cuộc lễ, có nhiều người ăn năn trở lại, Cộng đoàn hiệp nhất hơn, sốt sắng hơn, đó là dấu thành công thực sự”. [3]

     

    Trong khi đó, khi nói về nguồn gốc của các chước cám dỗ, ĐGM GB Bùi Tuần (Gp Long Xuyên) đã đề cập đến một trong các nguồn gốc chính của cám dỗ, đó là những thói đời. Ngài viết:

     

    “Thánh Phaolô khuyên giáo đoàn Rôma: ‘Anh em đừng rập theo thói đời này’ (Rm 12,2). Một điều có sức cám dỗ mạnh của thói đời là sự khôn ngoan chối từ thập giá Đức Kitô. Đối với thánh Phaolô, sự khôn ngoan của thế gian không có sức cứu độ. Ngài cương quyết nhận lãnh sự khôn ngoan của Thần Khí được ban cho từ Đức Kitô trên thánh giá. ‘Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá’ (1 Cr 2,2). Hiện nay thói đời chính là tinh thần thế tục. Tinh thần này đang tràn vào Hội Thánh Việt Nam. Tác động của nó không phải là nhỏ trong nhiều lãnh vực tôn giáo”. [4]

     

    Hiện nay, không khó để nhận ra những biểu hiện phô trương, tục hóa trong các cộng đoàn lớn nhỏ. Nào là lễ lạc, đình đám. Nào là xây cất, mở mang. Nào là đại hội, quy tụ… Tất cả những thực tế đó quả thực đã che khuất phần nào hình ảnh một Hội thánh nghèo hèn, đơn sơ, khiêm hạ mà Chúa Ki-tô đã thiết lập từ hơn 2000 năm nay. 

     

    b- Từ bỏ nếp sống giàu có xa hoa

     

    ĐTC Phao-lô VI đã nói: “Ngày nay người ta tin những chứng nhân hơn là thầy dạy”. Hội thánh của Chúa Ki-tô sẽ làm chứng về Tin Mừng Cứu Độ thông qua đời sống phục vụ, đời sống khó nghèo, cách sống khiêm hạ. Chúng ta không thể làm chứng cho Chúa bằng nếp sống xa hoa, dư thừa và giàu có. Bởi vì những thứ đó rất xa lạ với Lời Chúa, với những lời rao giảng của các Tông đồ, với bản chất truyền giáo của Hội thánh Đức Ki-tô.

     

    Hội thánh của Chúa Ki-tô là một Hội thánh nghèo và cho người nghèo.

     

    Sự khó nghèo theo Tin Mừng Ki-tô giáo có một ý nghĩa hết sức đặc biệt. ĐTC Phan-xi-cô đã nói nhiều về đức khó nghèo và bản thân ngài cũng làm gương cụ thể và sáng chói về điều này. Có lần ngài nói, “Tôi ước mong một Hội thánh nghèo và cho người nghèo”. Ngài đã từng ngồi ăn với tù nhân, với người nghèo cùng khổ trong xã hội, với những người tỵ nạn vv. Ngài ở giữa họ như Chúa Giê-su ở giữa đám dân nghèo, để nói và làm chứng về Tin Mừng Nước Thiên Chúa.

     

    ĐTC đã đưa ra một định hướng cho vấn đề sống nghèo và phục vụ theo Tin Mừng của Đức Ki-tô. Đây là mấy giáo huấn của ngài: [5]

     

    “Khi chúng ta giúp đỡ người nghèo, chúng ta không làm công việc của một tổ chức cứu trợ ‘theo cách của Kitô giáo’. Làm thế là một việc tốt, một việc tử tế, cứu trợ là tốt đẹp và nhân văn, nhưng đây không phải là sự nghèo khó Kitô mà thánh Phaolô giảng dạy và mong muốn cho mỗi người chúng ta. Nghèo khó Kitô là tôi cho đi bản thân mình, chứ không phải những thứ mình dư thừa, tôi trao cho người nghèo cái tôi đang cần cho mình, bởi tôi biết rằng người nghèo đó làm giàu cho tôi. Tại sao người nghèo lại làm giàu cho tôi? Bởi chính Chúa Giêsu nói rằng Ngài ở nơi người nghèo.

     

    “Khi người ta không lấy của dư dật, mà lấy một sự của chính mình, để trao cho người nghèo, cho một cộng đoàn nghèo, thì người đó sẽ được làm cho giàu có. Chúa Giêsu hành động trong những người làm việc này, và khi họ làm rồi, thì Chúa Giêsu hành động trong người nghèo, làm giàu có cho người đã trao cho mình chân giá trị.

     

    “Đây là thần học nghèo khó. Bởi nghèo khó là tâm điểm của Tin mừng, chứ không phải là một hệ tư tưởng. Chính bởi mầu nhiệm này, mầu nhiệm Chúa Kitô tự hạ mình, Đấng để mình bị bần cùng hóa để phong phú hóa chúng ta. Vậy nên, có thể hiểu được vì sao mối Phúc thật đầu tiên là ‘Phúc thay những ai nghèo khó trong lòng.’ Nghèo khó trong lòng nghĩa là đi trên đường của Chúa, sự nghèo khó của Thiên Chúa, Đấng tự hạ mình đến nỗi trở nên bánh ăn cho chúng ta trong lễ hiến tế.

     

    Ngài tiếp tục hạ mình vào lịch sử Giáo hội, vào tưởng niệm cuộc thương khó, và bằng việc tưởng niệm sự sỉ nhục của Ngài, tưởng niệm sự nghèo khó của Ngài, bằng chính bánh này, mà Ngài làm cho chúng ta nên giàu có”./. [5]

     

    Aug. Trần Cao Khải