9. Đào Tạo Môn Đệ

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ- KINH MÂN LÀ LỜI CHÚA

  •  
    Kim Vu - Oct 12 at 2:15 AM
     

    -     Muốn đọc các bài suy niệm xin vào trang web http://suyniemhangngay.net/

    -    Follow us on Facebook:  https://www.facebook.com/langthangchieutimsuyniemhangngay

    -    Muốn nhận Suy Niệm Hàng Ngày xin gởi e-mail This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. với chủ đề “Muốn nhận SNHN”

    -  Không muốn nhận SNHN, xin e-mail về This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. với chủ đề “Không muốn nhận SNHN”

     

     

    ===============================================

     
     
     
     

    BÀI HỌC FATIMA CHO THÁNG MƯỜI

     

    KINH MÂN CÔI LÀ SÁCH PHÚC ÂM NGẮN GỌN

    KINH MÂN CÔI GỒM 4 MẦU NHIỆM : VUI -SÁNG  THƯƠNG-MỪNG

    KINH MÂN CÔI LÀ NHỮNG ĐOẠN KINH THÁNH

    KINH MÂN CÔI GIÚP TÔI NHỚ CHÚA SINH RA-CHẾT VÀ SỐNG LẠI

    KINH MÂN CÔI LÀM TÔI VUI SỐNG LỜI CHÚA

     

     

    Chúng ta đang sống trong Tháng Mười, tháng biệt kính Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta có thể nhớ lại những lần Đức Mẹ hiện ra và nói về Chuỗi Mân Côi.

     

    Năm 1917, ba trẻ mục đồng ở Fatima, Bồ Đào Nha, đã được gặp Đức Mẹ tại Cova da Iria, nơi chúng đang chăn đàn chiên gần những ngọn núi gần nhà.  Lucia, Francisco và Jacinta đã đi vào lịch sử về lòng sùng kính các em dành cho Đức Mẹ vì sứ điệp mà các em có thể trao cho thế giới để cảm ơn Mẹ Thiên Chúa đã ưu tiên thăm viếng các em.  Đây là 10 bài học Đức Mẹ Fatima dạy về việc cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi.

     

    1. Cầu nguyện có chủ tâm

     

    Khi Đức Mẹ gặp các em, chúng có thể nhận biết sức mạnh của lời cầu nguyện của chúng.  Khi người ta biết chuyện lạ, họ xin các em chuyển ý nguyện với Bà Đẹp mà các em gặp mỗi tháng vào ngày 13 tại Cova da Iria – từ tháng Năm tới tháng Mười.  Người ta trĩu nặng vì các vấn nạn của thế giới này, và luôn có nhiều ý nguyện để cầu xin.  Ba trẻ trở thành những chiến binh cầu nguyện thực sự, quyết tâm cầu nguyện cho người khác, kể cả các nhu cầu lớn lao của thế giới này.  Các em đặc biệt cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho các linh hồn và xin hòa bình cho thế giới.

     

    2. Kinh Mân Côi là cách tốt để suy niệm cuộc đời Đức Kitô

     

    Mỗi ngày, một Kitô hữu có thể đọc Kinh Mân Côi và suy niệm về cuộc đời Đức Giêsu Kitô.  Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và Lời Nguyện Fatima là nền tảng các mầu nhiệm về Sự Sống và Sự Chết của Đức Giêsu Kitô.  Bắt đầu mỗi chục kinh, một mầu nhiệm được chú ý để suy niệm, và chúng ta cùng sống mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô.

     

    3. Bình thường nên đọc Năm Chục Kinh

     

    Đức Mẹ yêu cầu các em đọc trọn terço – tiếng Bồ Đào Nha nghĩa là cả năm chục kinh Mân Côi.  Cảm ơn Thánh Gioan Phaolô II, vì chúng ta ngày nay có thêm Năm Sự Sáng, và cảm ơn Chân phước Bartolo Longo, tổng cộng có 20 mầu nhiệm Mân Côi.  Có thể người ta không đủ kiên nhẫn đọc 15 chục kinh hoặc 20 chục kinh, nhưng 5 chục kinh là mức trung bình mà đa số chúng ta có thể thực hiện.

     

    4. Kinh Mân Côi là cách tốt để chống chiến tranh

     

    Ba trẻ được gặp Đức Mẹ trong thời gian chịu nỗi thống khổ của Thế Chiến I.  Mặc dù các em không tiếp xúc với chiến tranh, nhưng các em được động viên cầu xin cho chấm dứt chiến tranh.  Các em nhận Chuỗi Mân Côi như một loại vũ khí khác để chấm dứt chiến tranh.

     

    5. Kinh Mân Côi là cách tốt để xin hòa bình

     

    Ngoài việc cầu xin cho chiến tranh chấm dứt, Kinh Mân Côi còn là phương cách để đạt được sự bình an riêng mỗi cá nhân.  Ba trẻ trở nên những tông đồ đích thực của Kinh Mân Côi và có thể đạt được bình an nội tâm, mặc dù các em phải chịu nhiều đau khổ vì ý kiến của người khác – xã hội và gia đình.

     

    6. Kinh Mân Vôi là cách tốt để cứu các linh hồn

     

    Lời nguyện Fatima sau Kinh Sáng Danh là lời nguyện cầu cho các linh hồn, lời nguyện này do chính Đức Mẹ dạy các em.  Lời cầu xin này thấm vào việc đọc Kinh Mân Côi thường xuyên, người ta trở nên quen cầu xin theo ý nguyện tốt lành: cầu xin Ơn Cứu Độ cho các linh hồn.

     

    7. Kinh Mân Côi là cách đối thoại riêng

     

    Kinh Mân Côi có ảnh hưởng sâu sắc tới ba trẻ.  Các em lãnh nhận nhiều ơn lành nhờ được gặp Đức Mẹ, nhưng các em cũng cũng được giới thiệu cách sống đời sống cầu nguyện thực sự để giúp các em bước đi trên con đường đối thoại riêng.  Việc cầu nguyện thường xuyên làm thay đổi thái độ và ước muốn trong cuộc sống.

     

    8. Kinh Mân Côi là cách tốt để học cầu nguyện

     

    Kinh Mân Côi ngắn gọn và dễ cầu nguyện.  Đó là cách tốt để học cầu nguyện.  Đó cũng là lời cầu nguyện vừa bằng lời nói vừa bằng tâm trí.  Sự lặp đi lặp lại các từ ngữ là lời cầu bằng lời nói và là cách cầu nguyện dễ dàng nhất.  Sự kết hợp với việc suy niệm các mầu nhiệm là lời nguyện tâm trí.  Như vậy, người đọc Kinh Mân Côi đi vào lời cầu nguyện, bắt đầu bằng những gì quen thuộc và chuyển tới những gì khó khăn hơn.

     

    9. Kinh Mân Côi là cách tốt để cầu nguyện liên lỉ

     

    Kinh Mân Côi có thể trở nên thói quen tốt trong cuộc sống hằng ngày, giúp các Kitô hữu đáp lại lời động viên của Thánh Phaolô về việc cầu nguyện không ngừng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng.  Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.  Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18).  Đức Mẹ không yêu cầu ba trẻ đọc Kinh Mân Côi hằng ngày, nhưng cầu nguyện luôn luôn.

     

    10. Sự lặp đi lặp lại trong Kinh Mân Côi là tặng phẩm

     

    Một số người cho rằng sự lặp đi lặp lại trong Kinh Mân Côi gây nhàm chán.  Tuy nhiên, sự lặp lại này làm cho người ta suy niệm ý nghĩa của các câu chữ và có thời gian để cầu nguyện.  Trong một thế giới tìm cách xâm chiếm cả các ý tưởng riêng, sự lặp lại trong Kinh Mân Côi giúp tạo nên khiên thuẫn để bảo vệ đời sống nội tâm của chúng ta.  Điều quan trọng nhất khi đọc Kinh Mân Côi là chúng ta đối xử với Đức Maria là Mẹ Hiền của chính chúng ta.

     

    Lạy Đức Mẹ Fatima, xin cầu cho chúng con.  Lạy Hiền Mẫu của chúng con, xin nguyện giúp cầu thay.

     

    Lm. Nicholas Sheehy, L.C (Legionaries of Christ – Dòng Đạo Binh Chúa Kitô)

    Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

     

     
    __._,_.___



ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - TRUYỀN GIÁO HÔM NAY

 

  •  
    Tinh Cao
    Oct 4 at 5:50 PM
     
     

    Thứ Bảy CN26TN-C

     

    TRUYỀN GIÁO HÔM NAY - 72 MÔN ĐỆ VUI MỪNG

     

    Bài Ðọc I: (Năm I) Br 4, 5-12. 27-29

    "Ðấng đã giáng hoạ trên các con, chính Người sẽ đem lại cho các con sự vui mừng".

    Trích sách Tiên tri Ba-rúc.

    Hỡi dân Thiên Chúa, Israel đáng ghi nhớ, hãy vững lòng. Các ngươi bị bán cho dân ngoại không phải để bị tiêu diệt, nhưng bởi các ngươi đã trêu chọc cơn thịnh nộ Thiên Chúa, nên các ngươi bị trao phó cho quân thù. Vì chưng, các ngươi đã khiêu khích Ðấng đã tạo thành các ngươi, là Thiên Chúa đời đời, các ngươi tế lễ cho ma quỷ, chớ không phải cho Thiên Chúa. Các ngươi đã bỏ quên Thiên Chúa, Ðấng đã nuôi dưỡng các ngươi, các ngươi đã làm phiền lòng vú nuôi các ngươi là Giêrusalem.

    Nó đã chứng kiến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, giáng xuống trên các ngươi, và nói rằng: "Hỡi những kẻ lân cận Sion, hãy nghe đây, vì Thiên Chúa đã đem đến cho ta cơn khóc lóc cả thể: ta đã nhìn thấy dân ta, con trai, con gái bị lưu đày do Ðấng Hằng Hữu trừng trị chúng. Ta đã vui mừng nuôi dưỡng chúng, nhưng ta đã khóc lóc phiền muộn tiễn chúng ra đi. Không một ai hân hoan cùng ta là kẻ goá bụa và âu sầu: tại tội lỗi con cái ta mà ta đã bị nhiều người lìa bỏ, vì chúng đã lánh xa lề luật Thiên Chúa.

    "Các con ơi, hãy vững lòng, hãy kêu cầu cùng Chúa: vì Ðấng đã dẫn đưa các con, sẽ nhớ đến các con. Như lòng các con đã làm cho các con lạc đàng xa Thiên Chúa, thì khi ăn năn trở lại, các con sẽ tìm kiếm Người gấp mười lần. Vì Ðấng đã giáng hoạ trên các con, chính Người sẽ đem lại cho các con sự vui mừng vĩnh cửu cùng với ơn cứu độ".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 68, 33-35. 36-37

    Ðáp: Chúa nghe những người cơ khổ (c. 34a).

    Xướng: 1) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong! - Ðáp.

    2) Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion. Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, tại đây người ta cư ngụ và chiếm quyền sở hữu. Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư. - Ðáp.

     

    Alleluia: Tv 118, 34

    Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Lc 10, 17-24

    "Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

    Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết". Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe".

    Ðó là lời Chúa.


    Related image


    Suy Nghiệm Lời Chúa

    Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXVI Thường Niên hôm nay ghi lại thành quả của cuộc truyền giáo vừa được 72 môn đệ thực hiện theo bài sai được ban hành bởi Thày của các vị là Chúa KitôĐấng đã nhắc nhở họ về hạnh phúc thật mà các vị cần phải trân trọng hơn cả chính thành quả truyền giáo. 

     

    Hạnh phúc về thành quả  truyền giáo vừa được 72 môn đệ gặt hái: "Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: 'Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con'".

     

    Hạnh phúc thật các vị cần phải trân trọng hơn cả thành quả truyền giáo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". 

     

    Ở đây Chúa Giêsu không phủ nhận niềm vui của 72 môn đệ về điểm chính yếu được các vị thuật lại cho Người nghe là "cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Thật ra, ngay trước khi nghe các môn đệ thuật lại Người cũng "đã thấy" nên Người cũng công nhận quả thật "Satan từ trời sa xuống như luồng chớp". Bởi vì Người biết khả năng của các môn đệ Người tới đâu và có thể làm được ra sao, với những gì Người đã trang bị cho họ, như: "quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con".

     

    Theo tâm lý tự nhiên bình thường của các bậc thày phàm nhân khác thì Người có thể sẽ lên tiếng khen các vị: "Thế à. Các con của thày giỏi quá. Các con đã làm cho danh thày được rực rỡ hơn bao giờ hết khi các con nhân danh thày để trừ quỉ. Danh thày của các con mà... Những gì thày trang bị cho các con quả là công hiệu khôn lường ... ". 

     

    Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những không vênh vang vì danh oai phong uy lực của Người, về những gì Người đã trang bị cho các môn đệ, và Người cũng không vồn vã khen các môn đệ của mình như để kích động tinh thần của họ để họ tiếp tục ở với Người và cộng tác làm việc phụng sự Người, trái lại, Người hướng các môn đệ lên cao hơn, vượt thoát những thành công trần thế tầm thường. 

     

    Bởi đó, Người đã nhắc nhở các vị rằng: "Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời". 

     

    Đúng thế, hạnh phúc thật là vinh danh Chúa ở trên trời, chứ không phải ở nơi những gì con người làm được một cách vẻ vang, nhưng đôi khi chúng lại trở thành dịp tội khiến con người bị ảo tưởng đâm ra tự phụ và cuối cùng mất lòng Chúa, mất hết mọi sự, hỏng hết mọi sự, dù là những sự tự bản chất của nó tốt lành. 

     

    Nếu con người chỉ tìm vinh danh Chúa trên trời thì họ đã được hiệp thông thần linh với Người ở ngay đời này và được Ngài chúc phúc, được Ngài ở cùng như cả Thiên Đàng ở với họ, đúng như ý nghĩa của câu Chúa nói "tên các con đã được ghi trên trời". Bởi vì, nhờ đó, dù chưa lên trời, mắt của họ cũng "được xem những điều các con xem thấy..." và tai của họ "nghe những điều các con nghe thấy".

     

    Phải chăng đó là lý do bài Phúc Âm không chấm dứt ở chỗ ấy, nhưng được tiếp theo bởi những lời Chúa Giêsu chúc tụng Cha Người trên trời đối với những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ tiêu biểu nơi thành phần môn đệ của Người là những con người qua họ Cha của Người đã tỏ mình ra cho họ thấy qua chính bản thân Người:

     

    "Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: 'Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết". 

     

    Tinh thần đơn sơ bé nhỏ để Thiên Chúa có thể tỏ mình ra theo tinh thần của Bài Phúc Âm được phản ảnh trong bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, trong đó, Tiên Tri Baruc tiếp tục trấn an dân Chúa về tình trạng lỗi lầm của họ cùng án phạt vô cùng đớn đau ô nhục họ phải chịu bởi tội lỗi họ gây ra, nhưng vẫn phấn khích họ hãy tin tưởng vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất và thủy chung của họ, Đấng trừng phạt họ nhưng không bao giờ bỏ rơi họ, miễn là họ biết hạ mình xuống thật thấp hèn bé nhỏ bằng việc hết lòng thống hối ăn năn:

     

    "Hỡi dân Thiên Chúa, Israel đáng ghi nhớ, hãy vững lòng. Các ngươi bị bán cho dân ngoại không phải để bị tiêu diệt, nhưng bởi các ngươi đã trêu chọc cơn thịnh nộ Thiên Chúa, nên các ngươi bị trao phó cho quân thù. Vì chưng, các ngươi đã khiêu khích Ðấng đã tạo thành các ngươi, là Thiên Chúa đời đời, các ngươi tế lễ cho ma quỷ, chớ không phải cho Thiên Chúa. Các ngươi đã bỏ quên Thiên Chúa, Ðấng đã nuôi dưỡng các ngươi, các ngươi đã làm phiền lòng vú nuôi các ngươi là Giêrusalem... 

     

    Vì tội lỗi của mình mà họ chẳng những phải chịu giáng phạt đích đáng mà tội lỗi họ gây ra còn liên lụy cả đến Giêrusalem nữa, ở chỗ, người vú nuôi Giêrusalem trước kia "đã vui mừng nuôi dưỡng chúng, nhưng đã khóc lóc phiền muộn tiễn chúng ra đi. Không một ai hân hoan cùng ta là kẻ goá bụa và âu sầu: tại tội lỗi con cái ta mà ta đã bị nhiều người lìa bỏ, vì chúng đã lánh xa lề luật Thiên Chúa". 

     

    Thế nhưng người vú nuôi Giêrusalem này chẳng những vẫn sẵn sàng chịu đựng mà còn phấn khích họ tiếp tục hy vọng nơi Đấng có thể cứu họ nữa, Đấng đã tỏ mình ra nơi Vị Thiên Sai của Ngài ở Hành Trình Giêrusalem Vượt Qua của Người: "hãy vững lòng, hãy kêu cầu cùng Chúa: vì Ðấng đã dẫn đưa các con, sẽ nhớ đến các con. Như lòng các con đã làm cho các con lạc đàng xa Thiên Chúa, thì khi ăn năn trở lại, các con sẽ tìm kiếm Người gấp mười lần. Vì Ðấng đã giáng hoạ trên các con, chính Người sẽ đem lại cho các con sự vui mừng vĩnh cửu cùng với ơn cứu độ".

     

    Bài Đáp Ca hôm nay kêu gọi những tâm hồn khiêm cung và tìm kiếm Chúa, như thành phần 72 môn đệ trong Bài Phúc Âm hôm nay, hay thành phần dân Chúa đang phải chịu đựng khổ cực gây ra bởi lầm lỗi của họ trong Bài Đọc thứ 1 hôm nay, hãy tin tưởng vào Vị Thiên Chúa cứu độ là Đấng chỉ muốn làm cho dân của Ngài trở thành nơi Ngài ngự, như một Thành Thánh Giêrusalem được tái thiết:

     

    1) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong! 

     

    2) Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion. Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, tại đây người ta cư ngụ và chiếm quyền sở hữu. Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư. 

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     

     TN.XXVIL-7.mp3

     

     

    Image result for st faustina

     

    Thánh Faustina lễ nhớ ngày 5/10/2019

    (Sau đây là một số câu Chúa Giêsu nói với Chị Thánh Faustina liên quan đến sự vụ LTXC của chị - cao tấn tĩnh tuyển dịch)

     

    301- Con hãy công bố rằng lòng thương xót là ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa. Tất cả những việc Cha làm đều do lòng thương xót tỏ hiện.

     

    570- “Bài sai và nhiệm vụ của con ở trên trái đất này đó là van xin tình thương cho toàn thế giới. 

     

    726- Cha muốn con hoàn toàn biến thành tình yêu và nóng hổi như một tế vật tinh tuyền của tình yêu.

     

     

    742- Con gái của Cha ơi, nếu Cha cần nhờ con để người ta tôn kính tình thương của Cha, thì con phải là người đầu tiên trổi vượt trong sự tin cậy vào tình thương của Cha. Cha đòi hỏi nơi con những việc làm của tình thương được bắt nguồn từ tình yêu đối với Cha. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, con phải chứng tỏ tình thương đối với tha nhân của mình. Con không được lẩn trốn làm điều này, hay tìm cách miễn trừ hoặc tự miễn cho mình làm điều này. Cha ban cho con 3 cách thế để thực thi tình thương đối với tha nhân của con: thứ nhất là bằng việc làm, thứ hai bằng lời nói, thứ ba bằng cầu nguyện. Tầm mức viên trọn của tình thương được chất chứa nơi ba cấp trật này, và đó là một dấu chứng không thể chối cãi của tình yêu đối với Cha. Nhờ cách này mà một linh hồn tôn vinh và dâng niềm tôn kính lên tình thương Cha”.

     

    943- “Cha cần con phải trở nên một của lễ toàn thiêu trọn hảo; một của lễ hiến dâng ý muốn. Không có một hy tế nào có thể so sánh được với hy tế này. Chính Cha đang dẫn dắt đời sống của con và sắp xếp mọi sự để làm sao con trở nên cho Cha một hy tế ang tục và luôn làm theo ý muốn của Cha. Và để thực hiện lễ dâng này, con sẽ liên kết bản thân con với Cha trên Thánh Giá. Cha biết những gì con có thể làm, chính Cha sẽ trực tiếp truyền cho con nhiều điều phải làm, thế nhưng Cha sẽ làm trì trệ cơ hội thực hiện chúng và làm chúng lệ thuộc vào người khác. Thế nhưng những gì các vị bề trên của con không muốn làm thì chính Cha sẽ trực tiếp hoàn thành trong linh hồn của con. Và một sát tế trọn hảo sẽ diễn ra trong thâm cung kín mật nhất của con, không phải chỉ trong chốc lát, mà hãy biết rằng, hỡi con gái của Cha, lễ dâng này sẽ kéo dài cho đến khi con qua đời. Thế nhưng sẽ có lúc Cha là Chúa sẽ làm trọn tất cả những ước muốn của con. Cha hoan hỉ trong con như nơi một bánh thánh sống động; đừng để một sự gì khiến con kinh sợ; Cha ở với con” 

     

    1165- “Hỡi con gái của Cha, con hãy biết điều này: nếu con gắng nên hoàn thiện thì con sẽ thánh hoá được nhiều linh hồn; tương tự như thế, nếu con không chịu nỗ lực trong việc thánh hoá bản ang, nhiều linh hồn vẫn sẽ bất toàn. Nên biết rằng, sự hoàn thiện của họ lệ thuộc ở sự hoàn thiện của con, con sẽ phải gánh phần lớn trách nhiệm đối với những linh hồn này”.

     

    1446- “Con phải là phản ảnh sống động của Cha bằng yêu thương và nhân hậu”

     

     1732- “Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha”.

     

     

 

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ -

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

2019

 

 

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

 

TÔNG SẮC APERUIT ILLIS

 

THIẾT LẬP CHÚA NHẬT LỜI CHÚA

 

 

1- "Người đã mở tâm trí cho các vị để các vị hiểu được những lời Thánh Kinh" (Luca 24:45). Đó là một trong những tác động cuối cùng của Vị Chúa Phục Sinh trước khi Người Thăng Thiên. Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ qui tụ lại, đã bẻ bánh với các vị và đã mở tâm trí của các vị ra để các vị hiểu được những lời Thánh Kinh. Người đã vén tỏ cho các vị, đang sợ hãi và hoang mang bối rối, thấy được ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: đó là theo dự án đời đời của Chúa Cha thì Người cần phải chịu khổ và sống lại từ trong cõi chết, để mang lại lòng thống hối và ơn tha thứ tội lỗi (xem Luca 24:26.46-47). Đoạn Người hứa sai Thánh Linh là Đấng sẽ ban cho các vị quyền năng để các vị trở thành những chứng nhân của mầu nhiệm cứu độ này (xem Luca 24:49).

Mối liên hệ giữa Vị Chúa Phục Sinh, cộng đồng tín hữu và Thánh Kinh là những gì thiết yếu cho căn tính là Kitô hữu của chúng ta. Không có Chúa là Đấng mở tâm trí của chúng ta ra thì chúng ta không thể nào sâu xa hiểu được những lời Thánh Kinh. Tuy nhiên, cũng tương tự như thế, nếu không có Thánh Kinh, thì các biến cố về sứ vụ của Chúa Giêsu cũng như của Giáo Hội Người trên thế gian này vẫn bất khả thấu. Bởi thế, Thánh Giêrônimô có lý chủ trương rằng: "Vô thức về Thánh Kinh là vô thức về Chúa Kitô" (Dẫn Giải Sách Isaia, Lời Ngỏ: PL 24,17B).

2- Khi kết thúc Năm Thánh Ngoại Lệ về Lòng Thương Xót, tôi đã giành riêng "một Chúa Nhật hoàn toàn chú trọng đến lời Chúa, để cảm nhận được những gì là phong phú khôn lường được chất chứa trong cuộc đối thoại liên lỉ giữa Chúa và dân Ngài" (Misericordia et Misera, 7). Giành riêng một Chúa Nhật đặc biệt trong phụng niên cho lời Chúa là những gì giúp Giáo Hội có thể cảm nghiệm được một cách mới mẻ tác động Vị Chúa Phục Sinh mở ra cho chúng ta kho tàng lời của Người, và giúp chúng ta có thể loan truyền tính chất phong phú khôn lường của lời Người trước thế giới. Đến đây chúng ta nhớ đến giáo huấn của Thánh Ephrem như thế này: "Lạy Chúa, ai có thể hiểu được tất cả những gì là phong phú, dù chỉ một chữ, của những lời Chúa? Nó còn vượt trên cả những gì chúng con có thể hiểu được. Chúng con chẳng khác gì như kẻ khát đang uống từ mạch nguồn. Lời của Chúa có nhiều khía cạnh, như các viễn tượng của những ai nghiên cứu học hỏi lời Chúa. Chúa đã mầu sắc hóa lời của Chúa bằng những nét đẹp khác nhau, để những ai nghiên cứu học hỏi lời Chúa có thể chiêm ngắm thấy những gì tác động họ. Người đã cất giấu nơi lời của Người tất cả mọi kho tàng, để từng người chúng ta có thể thấy được một sự phong phú nơi những gì họ chiêm ngắm" (Commentary on the Diatessaron, 1, 18).

Với Bức Thư này, tôi muốn đáp ứng nhiều lời yêu cầu tôi đã nhận được từ dân Chúa đó là toàn thể Giáo Hội cùng nhắm một mục đích cử hành một Chúa Nhật Lời Chúa. Hiện nay cộng đồng Kitô hữu vẫn thường giành ra những giây phút chia sẻ về tầm quan trọng đặc biệt của lời Chúa đối với cuộc sống hằng ngày. Các Giáo Hội địa phương khác nhau đã thực hiện đầy những sáng kiến trong việc làm cho Thánh Kinh dễ dàng tiếp cận hơn cho tín hữu, trong việc gia tăng lòng biết ơn của họ đối với một tặng ân trọng đại như vậy, cũng như trong việc giúp họ hằng ngày nỗ lực hiện thực và làm chứng cho giáo huấn của lời Chúa. 

Công Đồng Chung Vaticanô II đã đẩy mạnh việc tái khám phá lời Chúa, qua Hiến Chế Tín Lý Lời Chúa Dei Verbum, một văn kiện đáng được đọc và vẫn hằng thích hợp. Hiến chế này rõ ràng là đã dẫn giải về bản chất của Thánh Kinh, việc truyền đạt Thánh Kinh qua các thế hệ (Chương II), việc linh ứng Thánh Kinh (Chương III) bao gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước (Chương IV và V), cùng với tầm quan trọng của Thánh Kinh đối với đời sống của Giáo Hội (Chương VI). Để giáo huấn này tăng tiến hơn, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã triệu tập một Thượng Nghị Giám Mục vào năm 2008 về "Lời Chúa trong Đời Sống và Sứ Vụ của Giáo Hội", sau đó ngài đã ban hành Tông Huấn Verbum Domini, một giáo huấn vẫn còn là những gì cốt yếu cho các cộng đồng của chúng ta (Cf. AAS 102 [2010], 692-787). Văn kiện này đặc biệt nhấn mạnh đến tính chất diễn đạt của Lời Chúa, nhất là trong phụng vụ, nơi nổi bật tính chất bí tích chuyên biệt của Lời Chúa (Cf Verbum Domini, 56).

Bởi thế, thật là xứng hợp cho đời sống của dân chúng ta, liên lỉ được đánh dấu bằng mối liên hệ quyết liệt này với lời hằng sống, để Chúa không bao giờ mỏi mệt nói với Hiền Thê của Người, nhờ đó Vị Hiền Thê này được gia tăng trong yêu thương và nơi chứng từ trung thực.

3- Do đó mà tôi tuyên bố Chúa Nhật Thứ Ba Thường Niên được giành cho việc cử hành, học hỏi và truyền đạt lời Chúa. Chúa Nhật Lời Chúa này vì vậy sẽ là một yếu tố thích hợp của thời điểm đó trong năm, để chúng ta được phấn khích củng cố những mối liên hệ của chúng ta với dân Do Thái, và cầu nguyện cho mối hiệp nhất Kitô giáo. Đây là vấn đề không phải chỉ trùng hợp về thời gian mà thôi: việc cử hành Chúa Nhật Lời Chúa mang một giá trị đại kết, vì Thánh Kinh vạch vẽ, đối với những ai lắng nghe, con đường tiến đến mối hiệp nhật chân thực và vững vàng.

Các cộng đồng khác nhau sẽ tìm kiếm những cách thức riêng để đánh dấu Chúa Nhật này một cách long trọng nào đó. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là khi cử hành Thánh Thể, sách thánh cần phải được trân trọng tôn vinh, nhờ đó mới tập trung chú trọng của cộng đoàn tham dự vào giá trị chuẩn mực của Lời Chúa. Vào Chúa Nhật này, thật là thích đáng để đề cao việc công bố lời Chúa, cũng như nhấn mạnh đến việc tôn kính lời Chúa cần phải có trong bài giảng. Về vấn đề này, cần phải tái nỗ lực huấn luyện các phần tử tín hữu trong việc trở thành những con người công bố của lời Chúa một cách chân thực, như việc huấn luyện vẫn có trong trường hợp giúp lễ hay các thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ. Các vị mục tử cũng có thể tìm cách tặng một cuốn Thánh Kinh, hoặc 1 trong các sách Thánh Kinh, cho toàn thể cộng đồng, như cách thức cho thấy tầm quan trọng của việc học hỏi cách thức đọc, cảm nhận và cầu nguyện hằng ngày bằng Thánh Kinh, nhất là bằng việc thực hành đọc sách thánh - lectio divina.

4- Việc dân Do Thái trở về quê hương của mình sau cuộc lưu đầy ở Babylon được đánh dấu bằng việc công khai đọc sách Luật chung. Trong cuốn Nehemiah, Thánh Kinh đã cống hiến cho chúng ta một hình ảnh cảm động vào lúc bấy giờ. Dân chúng qui tụ lại ở Giêrusalem, trong khu vực trước Cửa Nước, để nghe Sách Luật. Họ đã bị phân tán ở chốn lưu đầy, nhưng bấy giờ họ thấy họ qui tụ lại "như là một" chung quanh Thánh Kinh (Neh 8:1). Dân chúng "lắng tai nghe" (Neh 8:3) đọc sách thánh, nhận thấy rằng họ khám phá ở nơi những lời của sách thánh ý nghĩa về những kinh nghiệm họ đã trải qua. Phản ứng trước việc công bố này là một trong những cảm kích cả thể đầy nước mắt: "Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng: 'Hôm nay là ngày thánh hiến cho ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc'. Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: 'Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em'" (Neh 8:8-10).

Những lời ấy chất chứa cả một giáo huấn lớn lao. Thánh Kinh không thể nào chỉ là gia sản của một số người; lại càng không phải là một tổng hợp các sách cho lợi ích của một thiểu số đặc biệt nào đó. Thánh Kinh, trên hết, thuộc về tất cả những ai được kêu gọi nghe sứ điệp của Thánh Kinh, và nhận biết bản thân mình nơi các lời của Thánh Kinh. Có những lúc xẩy ra khuynh hướng muốn độc chiếm sách thánh, bằng việc hạn chế sách thánh cho một số thành phần nào đó hoặc cho các nhóm ưu tuyển. Không thể như vậy được. Thánh Kinh là sách của dân Chúa, thành phần, khi nghe Thánh Kinh, chuyển từ chỗ phân tán và chia rẽ thành hiệp nhất. Lời Chúa là những gì liên hợp thành phần tín hữu và làm cho họ nên một dân duy nhất.

5- Trong mối hiệp nhất được xuất phát từ việc lắng nghe, các vị mục tử có trách nhiệm chính yếu trong việc dẫn giải Thánh Kinh, và giúp cho mọi người hiểu biết Thánh Kinh. Vì Thánh Kinh là cuốn sách của dân chúng mà những ai được kêu gọi làm thừa tác viên lời Chúa cần phải cảm thấy nhu cầu khẩn trương trong việc làm cho Thánh Kinh có thể tiếp cận với cộng đồng của mình.

Bài giảng đặc biệt cần phải mang một phần vụ đặc biệt, vì nó có "tính chất á bí tích" (Evangelii Gaudium, 142). Việc giúp cho dân chúng tiến vào sâu hơn lời Chúa, qua ngôn từ giản dị và tương  xứng, sẽ giúp cho chính các vị linh mục có thể khám phá ra "vẻ đẹp của những hình ảnh được Chúa sử dụng để phấn khích việc làm lành" (ibid.). Đó là một cơ hội mục vụ không được hoang phí!

Thật vậy, đối với nhiều tín hữu chúng ta, thì đây là cơ hội duy nhất họ có để nắm bắt được vẻ đẹp của lời Chúa, và để đem lời Chúa ra áp dụng vào cuộc sống hằng ngày của họ. Bởi thế, cần phải có đủ thời gian giành cho việc soạn dọn bài giảng. Việc dẫn giải các bài sách thánh không thể nào hời hợt nông cạn. Những ai trong chúng ta là giảng viên không được giảng dài dòng có vẻ thông thái dỏm, hay lang thang đi vào những vấn đề chẳng có liên hệ gì. Khi chúng ta bỏ giờ ra cầu nguyện và suy niệm sách thánh, chúng ta có thể nói từ tận đáy lòng mình, nhờ đó mới chạm đến cõi lòng của những ai nghe chúng ta, khi chuyển đạt những gì thiết yếu có khả năng sinh hoa kết trái. Chớ gì chúng ta đừng bao giờ thôi giành giờ cho Thánh Kinh và cầu nguyện với Thánh Kinh, nhờ đó Thánh Kinh được đón nhận "không phải như là lời của loài người mà là như lời Chúa thực sự" (1 Thess 2:13).

Cả thành phần giáo lý viên nữa, trong thừa tác vụ của mình giúp dân chúng lớn lên theo đức tin của họ, cần phải cảm thấy nhu cầu khẩn trương trong việc canh tân đổi mới bản thân mình, nhờ làm quen với, và học hỏi từ, Thánh Kinh. Điều này sẽ giúp cho họ nuôi dưỡng nơi thành phần nghe họ một cuộc đối thoại thực sự với lời Chúa.

6- Trước khi gặp gỡ các môn đệ của mình, qui tụ lại ở đằng sau những cánh cửa khép kín, và trước khi mở tâm trí của các vị ra để các vị hiểu được các lời Thánh Kinh (cf. Lk 24:44-45), Vị Chúa phục sinh đã hiện ra với hai người trong các vị trên đường từ Giêrusalem về Emmau (cf. Lk 24:13-35). Trình thuật của Thánh Luca ghi nhận rằng lần hiện ra này vào chính ngày phục sinh của Người, tức Chúa Nhật. Hai người môn đệ này đang bàn bạc với nhau về các biến cố mới xẩy ra, liên quan đến cuộc khổ nạn và tử nạn của Chúa Giêsu. Cuộc hành trình của họ mang tính chất sầu thương và thất vọng trước cái chết thảm thương của Người. Họ đã hy vọng rằng Người phải là Đấng Thiên Sai giải phóng họ, thế nhưng, trái lại họ lại phải đối diện với cái tai họa thập tự giá. Chính Vị Chúa phục sinh đã nhẹ nhàng đến gần và bước đi với họ, nhưng họ không nhận ra Người (cf. v. 16). Trên đường đi, Người hỏi han họ, và khi thấy rằng họ không nắm bắt được ý nghĩa của cuộc khổ nạn và tử nạn của mình, Người đã than lên rằng: "Ôi những con người đần độn và chậm tin" (v. 25). Thế rồi, "bắt đầu từ Moisen và tất cả các tiên tri, Người đã cắt nghĩa cho họ những điều về bản thân Người trong tất cả Thánh Kinh" (v. 27). Chúa Kitô là nhà dẫn giải thánh kinh đầu tiên! Chẳng những Cựu Ước đã tiên báo những gì Người phải hoàn thành, mà chính bản thân mình, Người cũng muốn trung thực với những lời Thánh Kinh nữa, để chứng tỏ cho thấy một lịch sử cứu độ duy nhất  được nên trọn nơi Chúa Kitô.

7- Như thế, Thánh Kinh, với tư cách là Sách thánh, nói về Chúa Kitô và loan báo Người như là Đấng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang (cf. v. 26). Không phải chỉ phần nào mà là toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Kitô. Tách khỏi Thánh Kinh thì cuộc tử nạn và phục sinh của Người không thể nào hiểu cho đúng được. Đó là lý do tại sao một trong những lời tuyên xưng cổ xưa nhất đã nhấn mạnh rằng "Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi của chúng ta theo lời Thánh Kinh, Người đã được mai táng, Người đã sống lại vào ngày thứ ba theo lời Thánh Kinh, và Người đã hiện ra với Phêrô" (1Cor 15:3-5). Vì khắp Thánh Kinh nói về Chúa Kitô ở mọi nơi mà Thánh Kinh giúp chúng ta có thể tin rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người không phải là chuyện hoang đường mà là lịch sử, và là tâm điểm cho đức tin của thành phần môn đệ của Người.

Có một liên hệ sâu xa gắn bó giữa Thánh Kinh với đức tin của tín hữu. Vì đức tin xuất phát từ việc nghe, và những gì nghe thấy là ở nơi lời của Chúa Kitô (cf Rm 10:17), thành phần tín hữu buộc phải chuyên chú lắng nghe lởi Chúa, cả trong việc cử hành phụng vụ, lẫn trong việc cầu nguyện cùng suy niệm riêng.

8- Cuộc hành trình mà Vị Chúa Phục Sinh thực hiện với các môn đệ đi về Emmau đã chấm dứt ở một bữa ăn. Người lữ khách bí mật chấp nhận lời yêu cầu tha thiết của họ: "Xin ở lại với chúng tôi, vì trời đã gần tối và ngày sắp tàn" (Luca 24:29). Các vị ngồi vào bàn, và Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh, chúc lành, bẻ ra và trao cho họ. Bấy giờ mắt của họ mở ra và họ nhận ra Người (cf v. 31).

Cảnh tượng này rõ ràng cho thấy mối liên hệ bất khả phân ly giữa Thánh Kinh và Thánh Thể. Như Công Đồng Chung Vaticanô II đã dạy: "Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như Giáo Hội tôn kính thân mình của Chúa, ở chỗ Giáo Hội không bao giờ ngưng, nhất là nơi phụng vụ, tham phần vào bánh sự sống và cống hiến bánh này cho tín hữu từ bàn duy nhất lời Chúa và mình Chúa" (Dei Verbum, 21).

Việc thường xuyên đọc Thánh Kinh và việc cử hành Thánh Thể làm cho chúng ta có thể thấy được bản thân chúng ta như thuộc về nhau. Là Kitô hữu, chúng ta là một dân duy nhất, khi thực hiện cuộc hành trình của chúng ta qua dòng lịch sử, được hỗ trợ bởi Chúa là Đấng hiện diện giữa chúng ta, nói với chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta. Ngày giành cho Thánh Kinh không được coi như là một biến cố hằng năm, mà là một biến cố suốt năm, vì chúng ta rất cần phải gia tăng kiến thức và lòng yêu chuộng của chúng ta đối với Thánh Kinh cũng như với Vị Chúa phục sinh, Đấng tiếp tục nói lời của Người và bẻ bánh trong cộng đồng tín hữu. Vì lý do này mà chúng ta cần phải khai triển một mối liên hệ chặt chẽ hơn với Thánh Kinh; bằng không, tâm can của chúng ta sẽ vẫn lạnh lùng và mắt chúng ta nhắm lại, như thể chúng ta bị bưng bít bởi quá nhiều hình thức mù tối.

Thế nên Thánh Kinh và các bí tích là những gì bất khả phân ly. Khi các bí tích được lời Chúa dẫn nhập và soi chiếu thì các bí tích càng trở nên sáng tỏ hơn đích điểm của một tiến trình nhờ đó Chúa Kitô mở tâm trí của chúng ta ra để nhận biết công cuộc cứu độ của Người. Chúng ta luôn phải nhớ rằng giáo huấn trong Sách Khải Huyền, đó là Chúa đứng ở cửa mà gõ. Nếu ai nghe được tiếng của Người mà mở cho Người, thì Người sẽ vào mà ăn với họ (cf. 3:20). Chúa Giêsu Kitô đang gõ cửa chúng ta bằng những lời này của Thánh Kinh, Nếu chúng ta nghe thấy tiếng của Người mà mở cửa tâm trí của chúng ta, thì Người sẽ tiến vào đời sống của chúng ta mà ở với chúng ta.

9- Trong Thư thứ 2 gửi cho Timôthêu, một bức thư được coi như là chúc thư thiêng liêng của ngài ở một nghĩa nào đó, Thánh Phaolô đã thôi thúc con người đồng nghiệp trung thành của ngài ấy hãy liên lỉ sử dụng Thánh Kinh. Vị Tông đồ này đã xác tín rằng: "Tất cả Thánh Kinh được Thiên Chúa linh ứng, có lợi cho việc giảng dạy, trách cứ, sửa sai và huấn luyện nên công chính" (3:16). Lời huấn dụ của Thánh Phaolô cho Timôthêu này là những gì thiết yếu cho giáo huấn của Hiến Chế công đồng Lời Chúa Dei Verbum, về một đề tài quan trọng là việc linh ứng thánh kinh, một vấn đề nhấn mạnh đến mục đích cứu độ của Thánh Kinh, chiều kích thiêng liêng của Thánh Kinh và nguyên tắc thể hiện sẵn có của Thánh Kinh.

Trước hết, khi nhắc lại lời phấn khích của Thánh Phaolô với Timôthêu, Hiến chế Lời Chúa Dei Verbum nhấn mạnh rằng "chúng ta cần phải nhìn nhận các sách Thánh Kinh đều mạnh mẽ, trung thực và không sai lầm dạy rằng chân lý mà Thiên Chúa, vì phần rỗi của chúng ta, muốn thấy được ủy thác cho Thánh Kinh" (khoản 11). Vì Thánh Kinh dạy theo chiều hướng cứu độ nhờ đức tin vào Chúa Kitô (cf. 2Tim 3:15) mà các chân lý được chất chứa trong đó đều có lợi cho phần rỗi của chúng ta. Thánh Kinh không phải là thứ tổng hợp các loại sách về lịch sử hay là một cuốn biên niên ký, nhưng hoàn toàn nhắm đến phần rỗi toàn vẹn của con người. Khung cảnh lịch sử rõ ràng của các cuốn sách Thánh Kinh không được làm cho chúng ta coi nhẹ đích điểm chính yếu của Thánh Kinh là phần rỗi của chúng ta. Hết mọi sự đều hướng đến mục đích này và đều thiết yếu cho chính bản chất của Thánh Kinh, một Thánh Kinh được hình thành như là một lịch sử cứu độ, trong đó Thiên Chúa nói năng và tác hành để gặp gỡ tất cả con người nam nữ hầu cứu họ khỏi sự dữ và sự chết.

Để đạt được mục đích cứu độ này, Thánh Kinh, bởi hoạt động của Thánh Linh, biến những ngôn từ loài người được viết ra theo kiểu cách của loài người thành lời Chúa (cf. Dei Verbum, 12). Vai trò của Thánh Linh trong Thánh Kinh là vai trò thiết yếu. Không có hoạt động này của Thần Linh thì bao giờ cũng có nguy cơ vốn chất chứa ở nơi chính bản văn. Điều này mở đường cho một thứ đọc thánh kinh có tính cách cực đoan, cần phải tránh, kẻo chúng ta phản bội tính chất linh ứng, năng động và thiêng liêng của sách thánh. Thánh Tông đồ đã nhắc nhở chúng ta rằng: "Chữ nghĩa thì giết chết, còn Thần Linh thì ban sự sống" (2Cor 3:6). Bởi vậy, Thánh Linh là Đấng làm cho Thánh Kinh trở thành lời hằng sống của Thiên Chúa, được cảm nghiệm và truyền đạt theo đức tin của dân thánh Ngài.

10- Hoạt động của Thánh Linh không chỉ liên quan đến việc hình thành Thánh Kinh; hoạt động này còn tác động nơi những ai nghe lời Chúa nữa. Những lời của các Nghị phụ Công Đồng có tính cách hướng dẫn như sau: Thánh Kinh cần phải được "đọc và dẫn giải theo ánh sáng của cùng một Thần Linh là Đấng nhờ Ngài Thánh Kinh được viết lên" (Dei Verbum, 12). Mạc khải của Thiên Chúa đạt đến chỗ viên trọn nơi Chúa Giêsu Kitô; tuy nhiên, Thánh Linh vẫn không thôi tác động. Thật sự là giảm thiểu nếu giới hạn hoạt động của Vị Thần Linh này vào việc linh ứng viết Thánh Kinh và các tác giả khác nhau của Thánh Kinh. Chúng ta cần phải tin tưởng vào hoạt động của Thánh Linh, vì Ngài tiếp tục đường lối của Ngài trong việc "linh ứng" bất cứ khi nào Giáo Hội giảng dạy Thánh Kinh, bất cứ khi nào Huấn Quyền dẫn giải Thánh Kinh một cách chân thực (cf. ibid.,10), và bất cứ khi nào mỗi một tín hữu lấy Thánh Kinh làm tiêu chuẩn cho đời sống thiêng liêng của họ. Theo chiều hướng ấy, chúng ta có thể hiểu được những lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi các vị nói với Người rằng bấy giờ họ đã hiểu được ý nghĩa của các dụ ngôn Người dạy: "Bất cứ vị kinh sư nào mà được học hỏi về nước trời thì giống như một gia chủ kia biết lấy ra từ kho tàng của mình cả những gì là mới và những gì là cũ" (Mt 13:52).

11- Sau hết, Hiến chế Lời Chúa Dei Verbum làm sáng tỏ là "các lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn từ loài người, thì giống như lời phát biểu của loài người mọi đàng, giống như Ngôi Lời của Thiên Chúa Cha hằng hữu, khi mặc lấy nơi bản thân mình xác thịt yếu đuối của loài người, thì cũng trở nên tương tự như họ" (khoản 13). Chúng ta có thể nói rằng việc nhập thể của Lời hằng hữu là những gì làm nên và mang lại ý nghĩa cho mối liên hệ giữa lời Chúa và ngôn ngữ loài người chúng ta, nơi tất cả tính chất ngẫu nhiên về lịch sử và văn hóa của mối liên hệ này. Biến cố này phát sinh ra Truyền Thống, cũng là lời Chúa (cf. ibid., 9). Chúng ta thường có nguy cơ phân cách Thánh Kinh và Thánh Truyền, mà không hiểu rằng cả hai cùng nhau là một nguồn Mạc Khải duy nhất. Tính chất văn tự của Thánh Kinh không lấy đi bất cứ một sự gì từ sự kiện Thánh Kinh là một thứ lời hằng sống; cũng thế, Truyền Thống sống động của Giáo Hội, một truyền thống tiếp tục truyền đạt lời hằng sống đó qua các thế kỷ, từ đời nọ đến đời kia, đã lấy sách thánh làm "qui luật tối thượng cho đức tin của mình" (ibid., 21). Hơn nữa, trước khi trở thành một bản văn tự, Thánh Kinh được truyền đạt bằng lời nói, và được tồn tại nhờ đức tin của một dân tộc, một dân tộc ở giữa nhiều dân khác, đã nhìn nhận Thánh Kinh như là lịch sử của mình và là nguồn mạch làm nên căn tính của họ. Bởi vậy, đức tin Thánh Kinh dựa vào lời hằng sống chứ không phải dựa vào một cuốn sách.

12- Khi Thánh Kinh được đọc theo chiều hướng của cùng Vị Thần Linh đã linh ứng viết ra mình thì Thánh Kinh vẫn hằng là những gì mới mẻ. Cựu Ước không bao giờ cũ kỹ, một khi Cựu Ước vẫn là một phần của Tân Ước, bởi tất cả đều được biến đổi nhờ cùng Vị Thần Linh đã linh ứng viết Cựu Ước. Toàn thể bản văn sách thánh đóng vai trò ngôn sứ không phải liên quan tới tương lai mà là hiện tại của bất cứ ai được nuôi dưỡng bởi lời này. Chính Chúa Giêsu đã minh nhiên nói điều này vào lúc khởi đầu cho thừa tác vụ của Người: "Hôm nay đoạn Thánh Kinh này đã được nên trọn như quí vị nghe thấy" (Luca 4:21). Những ai kín múc của dinh dưỡng hằng ngày từ lời Chúa thì trở nên, như Chúa Giêsu, một con người hiện đại của tất cả những ai họ gặp gỡ: họ không liều mình rơi vào tình trạng nhung nhớ cằn cỗi về quá khứ, hay mơ màng về một lý tưởng vời vợi chưa tới.

Thánh Kinh hoàn thành công việc ngôn sứ của mình trước hết nơi những ai lắng nghe Thánh Kinh. Thánh Kinh mang tính chất vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Chúng ta nhớ đến những lời của tiên tri Êzêkiên khi tuân theo lệnh của Chúa mà ăn cuộn sách thì ngài nói cho chúng ta biết rằng: "Miệng của tôi thì ngọt ngào như mật ong" (3:3). Thánh ký Gioan cũng vậy, trên đảo Patmos, đã tái diễn cảm nghiệm ăn cuộn sách của tiên tri Êzêkiên, thế nhưng còn thêm rằng: "Miệng tôi thì ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi ăn vào rồi thì dạ dày của tôi cảm thấy đắng cay" (Khải Huyền 10:10).

Tính chất ngọt ngào của lời Chúa khiến chúng ta muốn chia sẻ lời Chúa với tất cả những ai chúng ta gặp gỡ trên đời này và muốn loan báo niềm hy vọng vững chắc được chất chứa nơi lời Chúa (cf. 1Pet 3:15-16). Tính chất đắng cay của lời Chúa, ngược lại, thường xuất phát từ việc chúng ta nhận thức thấy cái khó khăn liên lỉ sống lời Chúa biết bao, hay cảm nghiệm riêng tư của chúng ta khi thấy lời Chúa bị loại trừ như thể chẳng có nghĩa lý gì cho cuộc sống. Chúng ta không bao giờ được coi thường lời Chúa, trái lại, chúng ta hãy bổ dưỡng bằng lời Chúa, để nhận biết và sống trọn vẹn mối liên hệ của chúng ta với Ngài, cũng như với anh chị em của chúng ta.

13- Tuy nhiên, một thách đố khác được đặt ra bởi Thánh Kinh liên quan đến yêu thương. Lời Chúa liên lỉ nhắc nhở chúng ta về tình yêu nhân hậu của Chúa Cha, Đấng kêu gọi con cái của mình sống yêu thương. Đời sống của Chúa Giêsu đầy những thể hiện trọn hảo về tình yêu thần linh này, một tình yêu không giữ lại bất cứ cái gì, mà trọn vẹn hiến mình cho tất cả mọi người. Trong dụ ngôn về Lazaro, chúng ta thấy một giáo huấn đáng giá. Khi cả Lazarô lẫn người phú hộ qua đời, thì người phú hộ, thấy con người nghèo khổ Lazarô ở trong lòng của Abraham, thì xin sai Lazarô đến với anh chị em của hắn để cảnh báo họ hãy yêu thương tha nhân, kẻo họ cũng bị cực hình như hắn. Câu trả lời chua chát của Abraham là: "Chúng đã có Moisen và các tiên tri; chúng hãy nghe các vị" (Luca 16:29). Nghe Thánh Kinh rồi thực hành thương xót: đó là một thách đố cả thể đối với chúng ta trong đời sống. Lời Chúa có mãnh lực mở mắt chúng ta ra, và giúp chúng ta có thể loại trừ đi chủ nghĩa vị kỷ ngột ngạt và cằn cỗi, trái lại dấn thân vào con đường mới mẻ của việc chia sẻ và liên kết.

14- Một trong những giây phút quan trọng nhất nơi mối liên hệ của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người là ở trình thuật về biến cố Biến Hình. Người lên núi với Phêrô, Giacôbê và Gioan để cầu nguyện. Vị thánh ký nói cho chúng ta biết rằng dung nhan và y phục của Chúa Giêsu đã trở nên trắng xóa, có 2 người đàm đạo với Người là Moisen và Elia, tiêu biểu cho Lề Luật và các Tiên Tri; nói cách khác, tiêu biểu cho Thánh Kinh. Phản ứng của Thánh Phêrô trước cảnh tượng này là một phản ứng bàng hoàng và hân hoan: "Lạy Thày, chúng con được ở đây thật là tốt quá; xin để chúng con làm 3 lều, một cho Thày, một cho Moisen và một cho Elia" (Luca 9:33). Bấy giờ có một đám mây bao phủ các vị, và các môn đệ cảm thấy sợ hãi.

Biến cố Biến Hình nhắc nhở chúng ta về Lễ Lều Tạm, khi Ezra và Nehemiah đọc sách thánh cho dân chúng sau khi họ lưu đầy trở về. Đồng thời biến cố Biến Hình này cũng báo trước vinh quang của Chúa Giêsu, như một cách thức dọn mình cho các môn đệ trước tai họa Khổ Nạn: vinh quang thần linh này cũng được gợi lên bởi đám mây bao phủ các môn đệ như biểu hiệu của việc Thiên Chúa hiện diện. Một sự biến hình tương tự cũng xẩy ra với Thánh Kinh, một Thánh Kinh tự biến hình bất cứ khi nào Thánh Kinh nuôi dưỡng đời sống của người tín hữu. Như Tông Huấn Verbum Domini nhắc nhở chúng ta: "Trong việc tái khám phá ra mối tương giao giữa những ý nghĩa khác nhau của Thánh Kinh, thì cần phải nắm bắt được vấn đề vượt qua từ chữ nghĩa đến thần trí. Đây không phải là một cuộc vượt qua tự động, tự phát; mà là chữ nghĩa cần phải được siêu vượt hóa" (khoản 38).

15- Dọc theo con đường đón nhận lời Chúa vào cõi lòng của chúng ta, Mẹ của Chúa là Đấng hỗ trợ chúng ta. Mẹ là một vị được gọi là diễm phúc vì Mẹ đã tin vào việc hoàn tất những gì Chúa đã nói với Mẹ (cf. Luca 1:45). Mối phúc đức riêng của Mẹ Maria có trước tất cả mọi mối phúc đức được Chúa Giêsu công bố về người nghèo và những ai tham khóc, người hiền lành, những ai kiến tạo hòa bình và những ai bị bách hại, vì nó là điều kiện cần thiết cho hết mọi thứ phúc đức khác. Người nghèo không được chúc phúc vì họ nghèo; họ được chúc phúc nếu, như Mẹ Maria, họ tin vào việc hoàn trọn lời Chúa. Thánh Âu Quốc Tinh, một đại môn đệ của Thánh Kinh và là vị sư phụ về Thánh Kinh đã từng viết rằng: "Có người ở giữa đám đông đã cảm kích kêu lên: 'Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Ngài', và Chúa Giêsu đã trả lời: 'Đúng hơn, phúc cho những ai nghe lời Chúa mà giữ lấy'. Người như thể nói rằng: Mẹ của tôi, vị mà chị đã khen là có phúc, thật sự là diễm phúc, vì Mẹ đã giữ lời Chúa. Không phải vì nơi Mẹ Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, mà vì Mẹ giữ chính lời Chúa đã tạo dựng nên Mẹ, và là lời đã hóa thành nhục thể trong cung dạ của Mẹ" (Tractates on the Gospel of John, 10, 3).

Chớ gì Chúa Nhật Lời Chúa giúp cho dân Ngài gia tăng mối thân tình đạo hạnh và nghĩa thiết với Thánh Kinh. Vì như vị tác giả sách thánh đã dạy: "Lời này rất gần với anh em: Lời ấy ở trong miệng của anh em và ở trong lòng của anh em để anh em tuân giữ" (Dt 30:14).

Ban hành tại Roma, ở Đền Thờ Thánh Gioan Laterano, ngày 30/9/2019, Lễ Nhớ Thánh Giêrônimô, kỷ niệm 1600 năm ngày ngài qua đời.

Phanxicô

http://w2.vatican.va/content/francesco/en/motu_proprio/documents/papa-francesco-motu-proprio-20190930_aperuit-illis.html

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu  

 

Theo tiểu sử của Thánh Giêrônimô thì ngài đã sống ở Belem 35 năm cuối đời,

trong 1 hang động gần Hang Giáng Sinh, để chuyển dịch Kinh Thánh.

Hang động của ngài còn di tích ở dưới hầm Nhà Thờ Thánh Catarina,

nhà thờ Công giáo của cộng đoàn tín hữu Công giáo ở Belem,

nơi hằng năm phát hình Thánh Lễ Giáng Sinh Đêm khắp thế giới.

Nhà Thờ Thánh Catarina này ở sát ngay bên cạnh Nhà Thờ Giáng Sinh thuộc Giáo Hội Chính Thống,

nơi có Hang Giáng Sinh của Chúa Kitô dưới hầm.

 

Tiến vào nhà thờ này để xuống Hang Động Thánh Giêrônimô, vị Thánh Giáo Phụ Tiến Sĩ Hội Thánh về Thánh Kinh

 

Thánh Giêrônimô ở hang động này để chuyển dịch Thánh Kinh từ tiếng Hy Lạp và Do Thái sang tiếng Latinh,

trong thời khoảng từ 386 đến năm 404.

Và bản dịch của ngài là bản dịch được Giáo Hội coi là bản dịch chính thức của mình và gọi là Bản Vulgata.

Ngoài ra, ngài còn diễn giải Thánh Kinh một cách rất kỹ lưỡng đâu vào đó nữa.

Ngài là vị thánh học giả thánh kinh uyên bác và tiên khởi của thế giới Kitô giáo,

nên được tôn kính bởi tất cả các Giáo Hội Kitô giáo (Công giáo và Chính Thống) và giáo phái Kitô giáo (Anh giáo và Tin Lành)

Thật ra Thánh Giêrônimô là một nhà trí thức tìm kiếm chân lý và đã trở lại Kitô giáo như Thánh Âu Quốc Tinh vậy.

Ở Roma, ngài được quen biết bởi một số phụ nữ thế giá và học thức,

như các bà góa Lea, Marcella và Paula cùng với 2 con gái của bà Paula là Blaesilla và Eustochium.

Vào Tháng 8/385, ngài rời Roma và cuối cùng ở Thánh Địa với em trai của mình là Paulinian cùng Paula và Eustochium.

(Trong 4 nhân vật 2 nữ và 2 nam vừa được kể đến trong hình trên đây, nhân vật có hình sáng là Thánh Jeronimo)

 

(3 tấm hình chụp trên đây, kèm theo lời dẫn giải, của TĐCTT cao tấn tĩnh,

dịp cùng với Nhóm TĐCTT Hành Hương Thánh Địa - Tuần Thánh Vượt Qua 2019, sáng Thứ Năm 18/4)

 

 ---------------------------------

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - GIỚI TRẺ HIỆN NAY

  •  
    Chi Tran
    Oct 2 at 1:04 AM
     
     
     

    MỘT VÀI LỜI KHUYÊN VỀ ĐỨC TIN VÀ TÔN GIÁO

    CHO THẾ HỆ CHÚNG TA HIỆN NAY

     

    Chúng ta đừng bỏ nhà thờ quá nhanh. Chúng có lỗi thực sự; bạn không sai về điều đó, nhưng đó luôn là GPS tốt nhất hiện nay để giúp bạn tìm ra con đường của mình.

     

     

    Đây là vấn đề không còn bí mật với ai, chúng ta đang chứng kiến một sự suy giảm khổng lồ về việc đi lễ và song song với việc này là bây giờ người dân không còn quan tâm gì đến tôn giáo. Trong suy nghĩ mà chúng ta lo lắng như trước đây, đôi khi chúng ta còn bị ám ảnh về tội lỗi, về đi nhà thờ, về thiên đàng, về hỏa ngục, các ám ảnh này dường như chẳng còn tác động gì với hàng triệu người. Một phụ huynh, lo lắng về tình trạng tôn giáo của các con mình đã chia sẻ với tôi gần đây: “Các mối quan tâm tôn giáo cũ của chúng tôi chưa bao giờ làm hoen mờ suy nghĩ của chúng”. Chúng ta phải nói gì khi đối diện với điều này?

    Chắc chắn tôi không phải là người phù hợp nhất để đưa ra lời khuyên. Tôi đã hơn 70 tuổi. Tôi là nhà văn thiêng liêng, trọng tâm chính hiện nay của tôi là nghiên cứu và giảng dạy, chú ý đến tâm linh của sự lão hóa, và tôi là linh mục công giáo la mã, là tu sĩ, người bị cho là người bán hàng cho tôn giáo và cho nhà thờ.

    Nhưng dù vậy, đây là một số lời khuyên của tôi về đức tin và tôn giáo cho thế hệ ngày nay.

    Thứ nhất: Tìm sự trung thực. Mối quan tâm đầu tiên của Chúa không phải là chúng ta có đi nhà thờ hay không, nhưng chúng ta có trung thực trong việc tìm sự thật và ý nghĩa của nó không. Khi Thánh Tôma tông đồ nghi ngờ về thực tế của sự sống lại, Chúa Giêsu không quở mắng nhưng chỉ xin Thánh Tôma đưa tay ra và tiếp tục tìm, tin rằng nếu Tôma trung thực đi tìm, cuối cùng Tôma sẽ tìm thấy sự thật. Điều này cũng đúng với chúng ta. Tất cả những gì chúng ta phải làm là trung thực, không nói dối, thừa nhận sự thật khi sự thật đến. Trong Phúc âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu chỉ đưa ra một điều kiện để đến với Chúa: Hãy trung thực và không bao giờ từ chối nhận biết cái gì là thật, dù nó có phiền hà như thế nào. Nhưng quan trọng là phải trung thực! Nếu chúng ta trung thực, cuối cùng chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa và điều đó sẽ dẫn chúng ta đến nơi chúng ta cần đến – thậm chí có thể đến một cánh cửa nhà thờ ở đâu đó. Nhưng ngay cả khi không phải như vậy, Chúa cũng sẽ tìm ra chúng ta. Mầu nhiệm của Chúa Kitô lớn hơn chúng ta hình dung.

    Thứ hai: Lắng nghe những gì sâu sắc nhất bên trong tâm hồn mình. Tâm hồn là thứ hàng hóa quý giá. Chúng ta phải chắc chắn là mình tôn quý tâm hồn mình. Tôn vinh tiếng nói bên trong tâm hồn. Tiếng nói này sâu xa hơn các tiếng nói lôi cuốn mà chúng ta nghe thế giới mời gọi tứ phía, đó là tiếng nói bên trong tâm hồn, giống như khi chúng ta gặp phải cơn khát khủng khiếp, tiếng nói này luôn nhắc chúng ta nhớ sự thật lời cầu nguyện của Thánh Âugutinô: Chúa đã tạo chúng con ra cho Chúa và tâm hồn chúng con khắc khoải mãi cho đến khi nó được nghỉ an trong Chúa. Chúng ta giữ liên lạc với tiếng nói khát khao này. Chúng ta sẽ nghe tiếng nói này trong sự bồn chồn thao thức của mình và như lời của thần học gia Karl Rahner, tiếng nói này sẽ dạy cho chúng ta một điều mà mới đầu chúng ta khó có thể chịu đựng được, nhưng cuối cùng thì nó lại giải thoát chúng ta: Trong dằn vặt của những gì chưa trọn, cuối cùng chúng ta cũng học được một điều, cuộc sống không có bản giao hưởng kết thúc trọn vẹn.

    Thứ ba: Coi chừng đám đông! Trong các Tin mừng, từ ngữ “đám đông” luôn gần như không tốt. Vì lý do chính đáng: Các đám đông không có tinh thần và năng lực của đám đông thường nguy hiểm. Vì vậy, hãy cẩn thận với những gì nhà văn Milan Kundera gọi là cuộc “diễu hành vĩ đại”, cụ thể là xu hướng được dẫn dắt bởi ý thức hệ, suy nghĩ theo nhóm, theo xu hướng mới nhất, theo người hay theo chuyện phổ biến, cảm giác sai lầm cho là đúng, vì phần lớn mọi người cảm thấy rằng cách, và áp lực xã hội đến từ cả cánh tả cũng như cánh hữu. Hãy thẳng thắn với chính mình. Hãy là nhà tiên tri đơn độc không sợ ở một mình bên ngoài. Hãy ước mơ. Hãy là người có lý tưởng. Hãy bảo vệ tâm hồn mình. Đừng bán tâm hồn mình với giá rẻ.

    Thứ tư: Đừng nhầm lẫn đức tin với nhà thờ – nhưng đừng bỏ nhà thờ nhanh quá. Khi hỏi những người không dính gì với tôn giáo ngày nay, tại sao họ không đi nhà thờ, câu trả lời bất di bất dịch của họ là: “Tôi không tin vào điều đó nữa”. Nhưng “điều” họ không tin đó là điều gì? Những gì họ không tin nữa, đó không phải là sự thật về Chúa, về đức tin và tôn giáo, nhưng đúng hơn là những gì họ nghe về Chúa, về đức tin và tôn giáo. Chúng ta sắp xếp lại và sẽ thấy chúng ta có đức tin. Thêm nữa chúng ta đừng bỏ nhà thờ quá nhanh. Chúng có lỗi thực sự; bạn không sai về điều đó, nhưng đó luôn là GPS tốt nhất hiện nay để giúp bạn tìm ra con đường của mình. Đó là lộ trình được hàng triệu nhà thám hiểm đã đi trên con đường này trước bạn. Bạn có thể phớt lờ họ, nhưng bạn hãy chăm chú nghe tiếng nói dịu dàng của Chúa, Ngài hay nói: “Con xem lại đi”. Chúa sẽ đưa bạn về nhà, nhưng các nhà thờ cũng có thể giúp đỡ bạn.

    Thứ năm: Bạn đừng quên người nghèo. Khi bạn chạm vào người nghèo, bạn đã chạm vào Chúa và, như Chúa Giêsu nói, vào ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét qua cách chúng ta phục vụ người nghèo. Bãn hãy tặng cho mình món quà của lòng vị tha, biết rằng, như Chúa Giêsu đã nói, không phải những người cứ nói Chúa, Chúa mà người đó lên thiên đàng, nhưng là  những người phục vụ người khác. Trong hành trình tìm kiếm của bạn, bạn cần nhận thư giới thiệu của người nghèo.

    Thứ sáu: Hãy tìm một vị bảo trợ  trong số những người đương thời để họ có thể truyền cảm hứng cho bạn. Jean Vanier, Henri Nouwen, Thomas Merton, Dorothy Day, Oscar Romero, Dietrich Bonhoeffer, Simone Weil, Etty Hillesum và Dag Hammarskjold… còn nữa, tất cả đã từng đi qua con đường của bạn.

    Ronald Rolheiser

    Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

     

ĐÀO TẠO MÔN ĐỆ - CỘNG ĐOÀN HIỆP THÔNG

 

  •  
    Chi Tran

     
     

    ĐIỀU GÌ TẠO NÊN SỰ HIỆP THÔNG KITÔ GIÁO?

     

    Điều gì làm cho tín hữu kitô chúng ta hiệp nhất? Khi nào chúng ta là một gia đình trong đức tin?

     

     

    Vấn đề quan hệ qua về giữa các giáo hội chúng ta ngày nay là một vấn đề quan trọng, quan trọng và đau đớn. Tôi khá lớn tuổi để có thể nhớ lại một lần khác, thật ra là hai lần khác.

    Đầu tiên khi còn là một cậu bé lớn lên trước Công đồng Vatican II, việc liên lạc giữa các kitô hữu không phải là công giáo la mã với nhau là chuyện cấm kỵ. Chuyện này không thể có. Một người không theo quy tắc có thể dám liều, nhưng họ sẽ được nhắc nhở nếu chuyện này được biết đến. Rồi mọi sự đã thay đổi. Trong những năm sứ vụ đầu tiên, tôi làm việc ở nhiều giáo phận và trong các dịp đặc biệt như đám cưới, đám tang, các buổi gặp mặt giữa các giáo hội thì việc liên lạc với nhau là phổ biến, ngay cả còn được khuyến khích. Là linh mục chủ sự trong các buổi gặp gỡ này, trong tinh thần tích cực, tôi được phép mời những người không công giáo nhận bí tích Thánh Thể, trong chừng mực đức tin riêng và cảm nhận của họ cho phép.

    Rồi thời gian đó đã kết thúc. Trong vòng mười năm, vào giữa những năm 1990, những người trong chúng tôi chủ sự các buổi lễ công giáo la mã được yêu cầu không được mời các người công giáo không theo la mã nhận bí tích Thánh Thể dù trong bất cứ dịp nào. Lý do đưa ra, bí tích Thánh Thể giữa tín hữu chúng ta là một hành vi mật thiết, chúng ta chỉ có thể chia sẻ với nhau, và sự chia sẻ mật thiết này, cũng như trong hôn nhân là phải trung thực và có ý nghĩa, đòi hỏi chúng ta phải hiệp thông với nhau; các khác biệt về giáo điều, giáo hội học, về một số vấn đề đạo đức đơn giản là chúng ta không hiệp thông trọn vẹn. Hơn nữa, lập luận cho rằng nỗi đau không thể nhận được sự hiệp thông với các giáo hội khác sẽ là động lực thúc đẩy chúng ta cố gắng hơn nữa để cùng nhau học hỏi chung quanh giáo điều, giáo hội và đạo đức của chúng ta.

    Vậy cần phải nói thêm gì về điều này? Trước hết, đó là sự thật và nó có giá trị của nó, ngoại trừ một ý tưởng được gợi ra, phải loại ra khỏi lập luận và phải được xem xét kỹ lưỡng, cụ thể là phải hiểu khái niệm chúng ta chưa hiệp thông đủ với người khác để chia sẻ bí tích Thánh Thể vì các khác biệt về giáo điều, giáo hội học và một số vấn đề đạo đức.

    Là tín hữu kitô, hiệp thông với nhau trong đức tin có nghĩa là gì, ít nhất là đủ hiệp thông để nhận bí tích Thánh Thể ở bàn của người khác? Điều gì tạo nên sự mật thiết đích thực trong đức tin?

    Về mặt thần học, rõ ràng bí tích rửa tội làm cho chúng ta cùng ở trong một gia đình. Tất cả tín hữu kitô đều nắm vững điều này và cả Tin Mừng. Thánh Phaolô thừa nhận thêm một phẩm chất liên quan đến việc rước lễ. Tuy nhiên ngoài vấn đề thần học, còn có vấn đề về giáo hội học: nếu cộng đồng kitô hữu chúng ta chia sẻ với nhau qua phép rửa tội, thì chúng ta thuộc về các giáo hội khác nhau và các gia đình sẽ có khuynh hướng ăn riêng trong nhà của họ. Đúng thêm một lần nữa. Nhưng sau đó một câu hỏi khác được đặt ra: khi nào thì chúng ta ăn ở một gia đình khác và khi nào thì không?

    Câu hỏi sâu sắc hơn cần đặt ra là, điều gì tạo nên được sự mật thiết trong đức tin và điều gì tạo nên sự mật thiết để biện minh cho việc cùng nhận bí tích Thánh Thể chung, trước hết, không phải là sự liên kết trong giáo điều hay trong giáo hội nhưng trong sự hiệp nhất với Thần Khí. Điều gì làm cho tín hữu kitô chúng ta hiệp nhất? Khi nào chúng ta là một gia đình trong đức tin?

    Có lẽ không có bản văn nào rõ hơn là chương 5 của thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Ga-lát. Ngài bắt đầu bằng cho chúng ta biết điều gì không đem lại sự nên một trong Chúa Thánh Thần. Chúng ta không sống trong Thần Khí cũng không kết hiệp với nhau, nếu chúng ta sống trong xung đột, ghen tương, giận hờn, cãi vã, bất đồng, phe phái, ghen tị, thờ ngẫu tượng, theo phù thủy hoặc ngoại tình. Đó là những dấu hiệu không thể sai lầm làm cho chúng ta không hiệp thông với nhau.

    Nhưng nếu chúng ta sống hiệp thông đích thực, mật thiết trong đức tin, trong cùng một gia đình thì khi đó chúng ta sống trong niềm vui, đức ái, kiên nhẫn, tốt lành, đau khổ, trung thành, dịu dàng và khiết tịnh. Sống bên trong những điều này là những gì tạo nên sự hiệp thông kitô giáo, tạo thành một đơn vị, tạo tình mật thiết với nhau. Các khác biệt về một vài vấn đề liên quan đến giáo điều, giáo hội và đạo đức trên thực tế chỉ là thứ yếu.

    Điều quan trọng nhất là liệu quả tim chúng ta có đầy lòng bác ái hay giận dữ, tốt lành hay bè phái, bình an hay xung đột, thiếu kiên nhẫn hay khiết tịnh. Chúng ta hiệp thông nhiều hơn, kết hiệp trong đức tin nhiều hơn với người khác giáo phái nhưng có quả tim được nung nấu bởi đức ái, có lòng kiên nhẫn, có lòng tốt hơn là với người trong cùng giáo hội nhưng họ có quả tim giận dữ, ghen tị và phán xét. Sự khác biệt về giáo hội không phải là tiêu chí thực sự.

    Điều gì tạo nên sự mật thiết biện minh cho việc rước lễ liên hiệp thông? Tôi không phải là giám mục và quyết định mục vụ về vấn đề này không thuộc thẩm quyền của tôi. Là người con trung thành với giáo hội, tôi tin tưởng Chúa Thánh Thần hoạt động qua những người, qua các văn phòng được ủy thác để đưa ra quyết định này. Tuy nhiên là thần học gia, tôi cũng có một nhiệm vụ phải làm. Công việc của tôi là xem xét các vấn đề này và mang đến các tài liệu thần học và Thánh Kinh.

    Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch