3. Sống & Chia Sẻ Lời Chúa

Hồi tâm, đứng dậy, quyết trở về

(" Mừng vui lên … - Lætare) là chủ đề của Chúa nhật  IV Mùa Chay. Từ phụng vụ lễ ca cho đến màu sắc phụng vụ, tím chuyển sang hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm Phục Sinh. Nghỉ để cảm tạ Chúa vì những gì ta đã làm, xin Chúa ban thêm nghị lực để bước tiếp những chặng cuối.

Lời ca nhập lễ : ("Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành !... Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa") (Tv 121,1). Niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn : "Con chiên lạc" (x. Lc 15, 4-7); "Đồng bạc đánh mất" (x. Lc 15, 8-10). Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn "Tình phụ tử " (x. Lc 15, 11-32). Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thế cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người ta cũng có thể tìm lại được chiên lạc, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người con thứ sau thời gian bỏ đi nay trở về được cha mở cỗ mừng vui, là hình ảnh người tội lỗi trở về, Chúa Cha mở khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta như thế.

Cả thiên đang vui mừng khi ta tội lỗi trở về với Chúa. Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn : "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi" (Lc 15,18). Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và sự hoán cải của người con tìm thấy được tình yêu trìu mến của cha.

Chúng ta nhớ lại Logo của Năm Thánh Lòng Thương Xót do Cha Marko I. Rupknik S.I họa vẽ Chúa Giêsu đang vác con người lầm lạc trên vai, là một minh hoạ tuyệt vời về lòng thương xót Chúa.

Lòng Thương Xót đã trở nên người, mặt Chúa và mặt người giống hệt nhau. Khi vác con người trên vai, Thiên Chúa và con người hướng về nhau, đến nỗi có chung một con mắt. Như thế, Thiên Chúa nhìn con người bằng chính mắt con người, để cảm thông, yêu thương và hoán cải con người. Từ nay con người nhìn vũ trụ vạn vật bằng đôi mắt của Thiên Chúa, mà hiểu được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa, để sống trong vũ trụ theo chương trình ban đầu của Thiên Chúa là đem lại hạnh phúc cho con người.

Con người bỏ Chúa ra đi, lầm đường lạc lối, đi vào ngõ cụt, bị thương tích. Thiên Chúa vẫn yêu thương mang về. Logo diễn tả, Chúa tay chân vẫn còn mang thương tích vì bị con người đóng đinh. Nhưng Chúa không quan tâm đến vết thương đau đớn của chính mình, vẫn vội vã, chân thấp chân cao đi tìm con người. Tìm được rồi, Chúa không lên án lỗi lầm, Chúa vác con người trên vai mang về mở tiệc ăn mừng. Đó là tình yêu thương vô biên, yêu thương đến tha thứ những phản bội, yêu thương đến quên mình, dám chết vì người mình yêu. Tình thương của Chúa thật cao cả, không ai hiểu thấu, không lý luận nào có thể cắt nghĩa.

Chúa Giêsu đồng bàn với người tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tệ hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.

Người cha là hình ảnh của Thiên Chúa Giầu Lòng Thương Xót, người con thứ là thân phận bi đát của con người tội lỗi, cần phải trở về với Chúa. Hình ảnh người con trở về cho chúng ta thấy bản chất xấu xa của tội lỗi, và thái độ cần phải có để ra khỏi tình trạng tội lỗi là sám hối, nhận mình là kẻ tội lỗi, quyết tâm trở về với Chúa như đứa con thứ đã làm.

Có người nghi ngờ về lòng thương xót ấy mới nói : Tôi tội lỗi lắm, vào xưng tội, sợ cha mắng, và cho dù cha có tha, thi không biết Chúa có tha cho tôi không ?

Xin thưa : Để lãnh ơn tha thứ, cần phải có tội, và cho dù tội có đỏ như son Chúa vẫn tha thứ, vì Chúa là Đấng tha thứ không biết mệt mỏi. Thứ tha là việc của Chúa, lỗi lầm là của con người chúng ta. Con người tha cho nhau còn nhớ lại. Thiên Chúa tha thứ là xóa sạch tội khiên. Nếu xưng tội xong lại phạm, hãy đến tòa giải tội để lĩnh ơn tha thứ. Con nếu sợ cha mắng, xin bật mí là các cha luôn giữ ấn tín tòa giải tội, nghe xong quên luôn là việc các cha phải làm.

Có người còn hỏi : Khi ta phạm tội, ta xin Chúa tha thứ, Ngài thứ tha, vậy cần gì phải đến xưng tội với cha cho mất thời gian và thêm phiền toái ?

Quả thật, sau khi phạm tội chúng ta thật lòng hối cải ăn năn cách trọn thì đã được Thiên Chúa tha thứ rồi, nhưng nếu ta không đến tòa giải tội ta không lĩnh nhận được cách trực tiếp ơn tha thứ ấy. Cũng như anh chàng con thứ bỏ nhà ra đi, cha anh ở nhà đã sắm cho anh nhẫn vàng, áo đẹp và giầy sang, những thứ đó là của anh, nhưng nếu anh không về thì anh chưa nhận được trực tiếp.

Mùa chay còn mời gọi chúng ta trở về với chính mình, trở về với tha nhân. Người con trưởng tuy ở hằng ở cùng cha, nhưng anh đã đánh mất chính mình, tự nhận mình là kẻ làm tôi "con đã làm tôi cha ", đánh mất em, em mình mà anh gọi là "thằng con của cha kia". Đạo của chúng ta không phải là đạo ghen tị, được thua mà là đạo của tình thương. Chúng ta buồn vì anh em thành công, được ưu đãi hơn mình, tìm cách hạ bệ, thậm trí đối xử với đồng loại, cả đồng đạo, tệ hơn nữa là coi cha mẹ, anh em ruột thịt mình như kẻ thù, không bằng người dưng nước lã. Nếu ai trong chúng ta đang ở trong tình trạng ấy thì sám hối trở về là cần thiết, để tìm lại mình là con với Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh là em với ta, chứ không phải người xa lạ.

Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh.

Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Người cha nhân hậu

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.

Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.

Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

MÀN 1: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.

Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!

Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.

Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.

Người cha hoàn toàn quên mình vì con.

Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.

Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.

Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.

“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.

“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.

“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.

Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ

Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn. Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.

Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.

Cha đi tìm con. Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.

Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!

Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.

Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.

Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?
  2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
  3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
  4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?

TGM. Ngô Quang Kiệt

CHẾT CHẬM

“Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi!”.

Người La Mã, đôi khi, xích tù nhân cạnh một xác chết cho đến khi mùi thối của tử thi hủy hoại họ. “Người sống và kẻ chết ‘tay trong tay’ cho đến nghẹt thở vì tử khí; họ kéo dài cuộc sống thê lương cho đến chết! Không có Chúa Kitô, chúng ta bị cùm vào tội lỗi như người tù bị cùm vào xác chết! Chỉ ăn năn sám hối thực lòng mới giải thoát chúng ta, vì cuộc sống bấy giờ, không chỉ là một sự tồn tại vô sinh nhưng còn là một cái ‘chết chậm!’.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay tiết lộ, Thiên Chúa không những không chấp nhận cái chết, mà Ngài càng không chấp nhận một sự tồn tại vô sinh - ‘chết chậm’ - nơi con cái Ngài!

Thiên Chúa không chấp nhận kiếp nô lệ đọa đày của Israel trên đất Ai Cập, Ngài sai Môsê đi giải thoát dân - bài đọc một. Với bài Tin Mừng, hình ảnh cây vả không sinh trái mang ý nghĩa tương tự, nó biểu tượng cho linh hồn mỗi người! Cũng có thể nó đang nô lệ - vô sinh - không có khả năng cho đi, không có khả năng làm điều lành! Và Chủ vườn quyết định chặt nó. May thay, người làm vườn - Chúa Giêsu - can thiệp, xin Chủ cho thêm một năm nữa. Và tất cả những gì Ngài làm bộc lộ cách hiển nhiên lòng thương xót của Thiên Chúa - “Đấng từ bi nhân hậu” - Thánh Vịnh đáp ca, cũng là Đấng không chấp nhận một cái ‘chết chậm’ ở con cái Ngài. Đấng luôn cho con người một cơ hội thứ hai, để mỗi người có đủ thời gian hoán cải.

Thông điệp thật rõ ràng, tất cả chúng ta cần thay đổi! Sự kiên nhẫn và lòng thương xót Chúa đồng hành với chúng ta, bất chấp sự cằn cỗi đang có ở đó. Hãy nhớ, Chúa Giêsu luôn làm tất cả những gì có thể để chúng ta hướng thiện. Việc xin hoãn lại của người làm vườn với kỳ vọng cây vả sẽ sinh trái, cho thấy tính cấp thiết của việc biến đổi! Hãy lưu ý, cây vả được trồng giữa vườn; nghĩa là được ưu tiên! Đó chính là linh hồn bạn và tôi. Đất chúng ta được trồng là ‘đất xót thương’ - ‘đất giàu nhất’ - để có thể sản sinh những hoa trái vốn được kỳ vọng. Mùa Chay, mùa sám hối, mùa cải tà quy chánh; đừng để mình ‘chết chậm’, tồn tại mà vô sinh!

Anh Chị em,

“May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi!”. “Thời gian và khả năng hoán cải không phải là vô hạn; do đó, cần phải nắm bắt ngay lập tức; nếu không, khả năng đó có thể mất mãi mãi. Lời Chúa mời gọi chúng ta tự hỏi, tôi phải làm gì để hoán cải, để đến gần Chúa hơn, để “cắt bỏ” những điều không tốt?” - Phanxicô. Chúa Giêsu nhẫn nại biết bao với hy vọng chúng ta sẽ sớm sinh trái. Mỗi ngày, Ngài “cắt tỉa” chúng ta bằng Lời, “bón” chúng ta bằng Thịt Máu Thánh, “sưởi” chúng ta bằng lửa Thánh Thần, và “tưới” chúng ta bằng ân sủng. Cứ thế, Ngài chờ đợi và tiếp tục chăm bón; bởi lẽ, Ngài không chấp nhận một cuộc sống mà như đã chết nơi linh hồn mỗi người. Vậy còn chần chờ gì nữa, bạn và tôi hãy nắm bắt cơ hội - hôm nay - trở về với Chúa khi còn kịp!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con chặt đứt mọi xích xiềng chết chóc thối tha, thật lòng sám hối, cắm rễ sâu vào ‘đất xót thương’ của Chúa để sinh trái, hầu Chúa không còn mỏi mắt!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 

TÔI PHẢI VỀ CÙNG CHA TÔI

Ba điều cần phải làm trong mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và thực hành bác ái. Đây là những việc sẽ dẫn chúng ta tiến tới mối tương quan gần gũi hơn với Thiên Chúa, đón nhận ánh sáng Phục Sinh. Nhưng để được gần gũi, thân mật với Ngài, con người phải biết thống hối và trở về với Ngài. Và để diễn tả thái độ “thống hối và trở về”, Giáo Hội đã dùng dụ ngôn người con hoang đàng trở về làm minh họa và đề tài để suy niệm. Theo Thánh Luca thì cả hai người con đều không tốt, đã làm cho cha họ phải khổ tâm, nhưng mỗi người lại có những hành động thống hối khác nhau (Luca 15:11-32). 

Trong câu chuyện người con thứ với trái tim vô cảm và vị kỷ đã đòi được chia phần gia tài thuộc về mình: “Xin cha chia gia tài thuộc về tôi cho tôi” (12). Người anh tuy không đến nỗi lạnh lùng, bất hiếu, nhưng lại không tỏ ra hiểu cha mình. Anh sống bên cha mà lòng tràn đầy toan tính, ghen tương với em.  

Cơ hội đã đến với hai người để thống hối và trở về với cha mình. Với người con thứ là nạn đói nơi anh đang ở, sự nhục nhã mà anh đang phải chịu. Đây không chỉ là đói khát tâm linh mà còn là sự đói khổ vật chất. Hình ảnh huy hoàng trước và sau khi đã ăn chơi phung phí được thánh Luca mô tả: “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho” (14-16). Trong khi cơ hội thống hối và làm hòa của người con cả là sự vui mừng với cha khi em anh trở về. 

Người em trong câu chuyện này đã biết nắm bắt cơ hội. Anh đã không phiền trách số phận, vì số phận là do anh tạo ra. Anh cũng không ghen tỵ với anh mình, vì anh biết mình đã tự tách ra khỏi bầu khí yêu thương của cha và của anh mình. Anh chấp nhận và đối diện với sự thật, rồi bằng thái độ tự hối, anh cương quyết về lại với cha mình: “Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy’” (17-19). Và “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha” (20). Đối với người anh thì khác, khi biết cha làm tiệc mừng em anh trở về thì “liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ” (28).

 Con đã đắc tội với trời và với cha 

Cả hai anh em trong câu chuyện đều làm phật lòng cha mình. Cả hai đã không sống đúng với thân phận làm con đối với người cha rất mực khoan nhân, rộng lượng, và yêu thương. Nhưng sự khác biệt là một người biết lỗi, nhận lỗi mình, xin lỗi và sửa lại lỗi, còn người kia thì không. Thánh Luca đã diễn tả thái độ sám hối và trở về của người em như sau: “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha… Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...’” (20-21). Ngược lại, người anh cả chỉ biết giận dỗi, so đo và ghen tỵ.  

“Hãy trở về với ta bằng tất cả con tim các người” (Joel 2:12). Người em trong Phúc Âm của Thánh Luca sau khi nhận ra mình, nhận ra lỗi phạm của mình, đã tự nhủ phải đứng dậy, dứt khoát với quá khứ, và chấp nhận về xin lỗi cha. Cha anh không những không trách phạt mà còn phục hồi mọi phẩm tước, và quyền lợi cho anh khi bảo các gia nhân: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (22-24). 

Thái độ tự nhận và khiêm tốn của người con thứ tuy không phải là yếu tố quan trọng để cha anh cho lại danh phận và đón nhận anh, nhưng nó là một điều kiện cần thiết. Bởi nếu anh không nhận lỗi và can đảm trở về thì người cha sẽ không bao giờ vui mừng, hạnh phúc nhìn thấy anh “ đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (24). Người cha vui mừng vì thấy con đã trở về, và người con hạnh phúc bên tấm lòng của người cha. 

“Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (18). Đó là thân phận sau cùng của người con thứ từ nơi xa xôi, nơi đã bóc lột tất cả những gì mà anh đã có trước khi rời khỏi nhà: một kẻ chăn heo, một tên nô lệ! Đây cũng là thân phận của chúng ta sau mỗi lần bỏ Chúa, mỗi lần phạm tội. Mỗi lần như vậy, chúng ta giống như người con thứ kia đã tiêu phí tất cả số vốn ân sủng mà chúng ta lãnh nhận được từ Cha trên trời, đã đánh mất danh phận của mình, và vì thế, chúng ta cần phải trở về tìm lại. Từ bỏ quá khứ tội lỗi và lao mình vào tình yêu Thiên Chúa sẽ đem lại cho chúng ta ơn tha thứ và phẩm giá làm con Cha trên Trời mà chúng ta đã đánh mất vì phạm tội. 

Cha và con 

“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Luca 15: 20). 

Làm sao mà người cha này có thể thấy con ông từ đàng xa nếu như ông ngồi trong nhà? Hoặc nếu như ông bỏ rơi con ông, và mất hy vọng mà coi như anh ta đã chết? Chắc hẳn ông hàng ngày vẫn có sự chờ đợi, có niềm hy vọng. Ông chắc phải héo hon, phải canh cánh trong lòng ông, khiến vừa thoạt nhìn từ xa xa ông đã nhận ra con mình, dù lúc này nó có tiều tụy, bạc nhược, và tơi tả, rách rưới. Điều này cũng nhắc nhở về Chúa Cha trên Trời, để chúng ta can đảm trở về sau chuỗi ngày đi hoang, hoặc sau mỗi lần sa ngã, phạm tội. Vì chúng ta biết người Cha ấy vẫn hằng luôn thao thức, chờ đợi. Ngài đang mòn mỏi mong nhìn thấy chúng ta trở về để vui mừng và tha thứ. 

Chúa Cha nhân từ vẫn luôn chờ đợi các tội nhân biết sám hối trở về để tha thứ, và mặc lại cho họ chiếc áo ân sủng, chiếc áo sang trọng của ơn gọi làm con Thiên Chúa. Trước những cám dỗ, yếu đuối và sa ngã, như người con thứ, tin tưởng vào tình thương Cha trên trời, chúng ta cũng hãy mạnh dạn nói với mình rằng: “Tôi phải đứng lên, đi về cùng cha tôi!” (Luca 15:18) 

Mùa Chay 2025

Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt

HỐI CẢI DẪN ĐẾN SỰ SỐNG

Bài đọc Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai thảm kịch. Một là tổng trấn Philatô sử dụng quyền lực sai quân lính giết những người Galilê đang dâng lễ vật trong Đền thờ: “Có mấy người đến kể lại cho Chúa Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng” (Lc 13: 1). Thảm kịch thứ hai là một tai nạn đáng tiếc khi một tòa tháp ở Silôác đổ xuống và làm chết mười tám người: “Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết” (Lc 13: 4). Ngày nay cả hai loại thảm kịch này vẫn xảy ra. Mọi người tiếp tục bị giết vì sự lạm dụng quyền lực tàn bạo và nhiều người mất mạng vì những tai nạn bất ngờ. Chúa Giêsu cảnh báo những người đương thời của mình không nên nghĩ rằng những người mất mạng trong hai thảm kịch này là do tội của họ lớn hơn tội của những người khác: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lc 13: 2). Chúa Giêsu bác bỏ cách qui kết đơn giản và sai lầm rằng ai gặp tai ương khốn khổ là vì người ấy tội lỗi: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu” (Lc 13:3).  

  1. Chúng ta đều là tội nhân và cần phải ăn năn tội lỗi của mình.

Qua hai sự việc này, Chúa Giêsu muốn nhắc người ta cần suy ngẫm về sự dễ bị tổn thương và mong manh của cuộc sống con người. Cuộc sống thể lý của con người có thể bị mất đi mà không có bất cứ cảnh báo nào trước. Vì lý do này, Chúa Giêsu khuyên răn người ta cần trân trọng mỗi biến cố trong cuộc sống như một cơ may để xét lại con người mình, bỏ đi những ham muốn ích kỷ và hướng về Thiên Chúa nhiều hơn. Ngài nói với chúng ta qua tất cả những sự kiện của cuộc sống, nhất là qua những sự kiện bi thảm. Ngài khiển trách chúng ta không nhìn ra trong mọi sự kiện chính mình cũng là tội nhân, không sinh ra nhân đức nào, nhằm quyết tâm ăn năn sám hối trở về cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương nhẫn nại. Ngài muốn chúng ta tự xét chính bản thân mình, thay vì cứ để mình bị cuốn đi theo khuynh hướng xấu soi mói người khác, nhưng lại không nhận ra lòng dạ mình cũng chất chứa đầy nghĩ suy tội lỗi, như Ngài đã từng khiển trách: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (Lc 6; 41). Hôm nay, theo trình thuật của thánh sử Luca, Chúa Giêsu không chỉ khiển trách mà còn cảnh cáo, thậm chí đến hai lần liên tục: “Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13: 3 và 5).

Không ai có thể nói rằng mình không có tội lỗi, bởi vì tất cả mọi người đều là tội nhân. Như Thánh Gioan viết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1: 8). Mỗi chúng ta đều biết rằng mình có tội: lương tâm chúng ta cho thấy chính mình sai lỗi và phạm tội hàng ngày. Tội lỗi, khởi đi từ tội nguyên tổ, là một phần của thân phận con người mà chúng ta nhiễm phải theo cách bị ảnh hưởng qua sự kế thừa: “Khi nghe theo Tên Cám Dỗ, ông Ađam và bà Evà đã phạm một tội cá nhân, nhưng tội đó ảnh hưởng đến bản tính nhân loại, một bản tính mà họ sẽ lưu truyền trong tình trạng đã sa ngã . Đó là một tội được lưu truyền cho toàn thể nhân loại qua việc sinh sản, nghĩa là qua việc lưu truyền một bản tính nhân loại đã mất sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ. Do đó, tội tổ tông được gọi là “tội” theo nghĩa loại suy: đó là một thứ tội con người bị “nhiễm” chứ không phải đã “phạm”; một tình trạng, chứ không phải một hành vi” (GLHTCG, số 404). Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta không chấp nhận điều đó hoặc để cho những đa đoan hàng ngày che lấp nó đi. Đó là sự thật! Nếu chúng ta không hiểu điều này, sự thật sẽ không ở trong chúng ta.

Chúng ta phạm nhiều tội lỗi trong cuộc sống của mình. Khi tội lỗi xâm nhập vào tâm trí và lòng dạ của mình, chúng ta không hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa và vào tình yêu của Ngài dành cho chúng ta nữa. Lúc ấy chúng ta muốn rời mắt khỏi Ngài, trôi xa khỏi Ngài, bắt đầu lấp đầy cõi lòng mình bằng những thói tục của thế gian, và gánh chịu những hậu quả của chúng, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai “Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta. Anh em đừng trở thành những kẻ thờ ngẫu tượng…Ta đừng gian dâm, như một số trong nhóm họ đã gian dâm: nội một ngày, hai mươi ba ngàn người đã ngã gục. Ta đừng thử thách Chúa, như một số trong nhóm họ đã thử thách Ngài và đã bị rắn cắn chết. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10: 6-12).

Chúng ta biết rằng mình đang chiến đấu với những khuynh hướng chiều theo những ham muốn của xác thịt, thế gian và ma quỷ. Nhưng thật là may mắn cho chúng ta, vì “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Ga 9). Vậy thì chúng ta hãy bỏ đi thói xấu cứ nghĩ người khác tội lỗi, và thay vào đó hãy thường xuyên ăn năn hối cải: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em…”, trông cậy vào ơn Chúa cứu độ, như bài đọc thứ nhất cho thấy: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3: 7-8).

  1. Bài học của cây vả không sinh trái

Đôi khi những sự kiện bi thảm tác động đến chúng ta và khiến chúng ta phải xem xét lại cuộc sống của mình. Thiên Chúa có thể đang nói chúng ta qua những sự kiện như vậy. qua những sự kiện bi thảm này, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về cây vả không sinh hoa trái, chỉ đáng bị chặt bỏ đi, nhưng người chăm sóc cây vả ấy vẫn nhìn thấy hy vọng trong hoàn cảnh dường như vô vọng. Dụ ngôn của Chúa Giêsu khiến chúng ta phải suy nghĩ và chiêm nghiệm trong niềm hy vọng cậy trông. Trong vườn nho có một cây vả dường như đã chết. Nó đã không ra trái trong ba năm liên tiếp. Phản ứng của chủ vườn nho có vẻ khá hợp lý; hãy chặt cây vả đi vì nó chiếm không gian có thể dùng để trồng nho. Tuy nhiên, người làm công cho chủ vườn nho lại có quan điểm khác. Ông nhìn vào cây vả dường như vô dụng và thấy khả năng nó vẫn có thể ra trái. Ông có tầm nhìn rộng lượng hơn về cây vả, một tầm nhìn đầy hy vọng. Ông cảm thấy rằng mọi thứ vẫn chưa mất hết; vẫn còn thời gian để cây vả trở nên tốt đẹp.

Dụ ngôn có thể muốn nói rằng Thiên Chúa là chủ vườn nho, Chúa Giêsu là người người chăm sóc khu vườn đó, còn chúng ta chính là cây vả. Chúa Giêsu sẵn sàng  xin Thiên Chúa là chủ vườn nho đừng loại bỏ con người chúng ta, vì Ngài hy vọng mỗi người chúng ta vẫn còn có thể sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa, ngay cả lâu nay chúng ta không sinh ra trái nào. Chúa Giêsu thấy mỗi “tội nhân đều có một tương lai”. Ngài nhìn chúng ta bằng đôi mắt hy vọng. Đây là cách Chúa Giêsu nhìn chúng ta. Khi nhìn chúng ta, Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy những gì chúng ta đã không làm được trong quá khứ mà còn nhìn thấy những gì chúng ta có khả năng làm được trong tương lai. Ngài nhìn chúng ta bằng đôi mắt rộng lượng và đầy hy vọng.

Đó là cách chúng ta thực sự nên có khi nhìn nhau, cần phải nhìn vào mọi hoàn cảnh của từng người trong cuộc sống. Giống như người làm vườn nho, chúng ta cần phải kiên nhẫn, sẵn sàng chờ đợi và có khả năng nhìn thấy những dấu hiệu dù mờ nhạt của sự sống mới ẩn chứa bên dưới bề mặt không mấy hứa hẹn. Người làm vườn nho đã dành mọi cơ hội có thể cho cây vả, không chỉ thời gian, mà còn cả sự chăm sóc yêu thương dịu dàng: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó” (Lc 13: 8).

Đó là cách Chúa Giêsu đối xử với chúng ta. Ngài không vội vã từ bỏ chúng ta ngay cả khi chúng ta đã có những dấu hiệu không hứa hẹn gì. Ngài tiếp tục đổ ân sủng của Ngài vào cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ làm mọi sự có thể để đảm bảo rằng cuộc sống của chúng ta đơm hoa kết trái phong phú của Chúa Thánh Thần. Chúng ta có một phần cần góp phần vào; Chúa không thể làm gì trong cuộc sống của chúng ta nếu không có sự đồng ý của chúng ta. Dụ ngôn đảm bảo với chúng ta rằng khi chúng ta cố gắng thì những gì Chúa giơ tay giúp chúng ta thực hiện sẽ luôn vượt xa bất cứ nỗ lực nào của chúng ta. Như thánh Phaolô nói: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).

Chúa Giêsu đối xử với tất cả chúng ta y như thế. Người tiếp tục hy vọng và đổ công sức vào chúng ta, đặc biệt là vào những lúc chúng ta bị cám dỗ bỏ cuộc. Chúa Giêsu không bao giờ từ bỏ chúng ta và tất cả những gì Ngài cần là chúng ta mở lòng một chút để công khó của Ngài nơi chúng ta sinh hoa trái dồi dào. Chúng ta cứ nghĩ tự bản thân mình phải đổ công sức ra để được cứu độ. Tuy nhiên Thánh Phaolô có cách nhìn khác: “Họ không nhận biết rằng chính Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính tự sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính” (Rm 10: 1-3).

Chúng ta đang sống trong thời đại có phần thiếu kiên nhẫn. Nhưng Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn với những người đang chiến đấu, giống như cây trong dụ ngôn. Ngài kiên nhẫn với chúng ta trong sự yếu đuối của mình; Ngài cho chúng ta thời gian. Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ tận dụng được thời gian và cơ hội mà sự kiên nhẫn của Ngài dành cho chúng ta.

Chúa Giêsu mong chờ chúng ta mau mắn ăn năn, nghĩa là quay lưng lại với bất cứ những gì là tội lỗi. Vậy thì giống như người làm vườn, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta thêm một chút thời gian để sinh hoa trái, nghĩa là ngày càng tiến xa hơn vào thế giới của lòng tốt và tình yêu, của ánh sáng và chân lý của Thiên Chúa. Rồi thì chúng ta có thể chung lời với bài đáp ca hôm nay rằng: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi… Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103: 2-3, 8).

Phêrô Phạm Văn Trung

Subcategories