4. Bánh Sự Sống

BÁNH SỰ SỐNG - NGÀY 02-4-2020

  •  
    Tinh Cao
     
    Wed, Apr 1 at 3:41 PM
     
     

    Thứ Năm CN5MC-A

     

    BỮA TIỆC Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: St 17, 3-9

    "Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".

    Trích sách Sáng Thế.

    Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".

    Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9

    Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

    Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

    2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

    3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.

     

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14

    Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các ngươi.

     

    Phúc Âm: Ga 8, 51-59

    "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"

    Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

    Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".

    Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.

    Ðó là lời Chúa.

     

     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ

     

     

      nguồn gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do Thái bấy giờ cho Người là "bị quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở chỗ Người biết Thiên Chúa 

     

      

    Hôm nay, Thứ Năm Tuần V Mùa Chay, chỉ còn đúng 3 ngày nữa là hết Mùa Chay, Chúa Nhật Lễ Lá, thời điểm bắt đầu Tuần Thánh cũng gọi là Tuần Thương Khó.
     
    Đúng như hôm qua đã cảm nhận "chúng ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này của họ, và vì vậy, trong khi họ được Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai)".
     
    Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối, chúng ta đã thấy phản ứng dữ dội đầu tiên của người Do Thái đối với Người, như Thánh ký Gioan cho biết: "Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ". 
     
    Phải chăng trong Tuần V Mùa Chay xẩy ra sự kiện "Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ" này mà kể từ Chúa Nhật V Mùa Chay đầu tuần, các nhà thờ Công giáo, cách riêng ở Hoa Kỳ, đã che phủ các ảnh tượng và Thánh Giá lại, cho đến sau cử hành nghi thức khổ nạn của Chúa Kitô Thứ Sáu Tuần Thánh mới bỏ khăn che Thánh Giá ra và cho tới Lễ Vọng Phục Sinh mới mở các tấm che các ảnh tượng khác ra?
     
    Sự kiện theo truyền thống của Giáo Hội che đi các ảnh tượng và Thánh Giá vào thời điểm này còn có thể hiểu, hay tự nó mang một dụng ý là mầu nhiệm về Chúa Kitô, một mầu nhiệm thần linh liên quan đến cuộc khổ nạn tử giá của Người và đạt tới tột đỉnh của mình nơi biến cố Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm thần linh con người nói chung và dân Do Thái nói riêng tự mình không thể nào hiểu được, dù có nghe thấy chính lời tự chứng của Chúa Kitô.
     
    Tuy nhiên, mầu nhiệm thần linh vô cùng siêu việt về Chúa Kitô ấy sẽ hoàn toàn được tỏ hiện ở chính vào lúc con người, qua dân Do Thái bấy giờ, "treo Con Người lên cao" (Gioan 8:28) - đó là lý do tấm che Thánh Giá được mở ra sau nghi thức Thương Khó Thứ Sáu Tuần Thánh, nhất là cho đến khi Người từ trong kẻ chết sống lại là lúc Người hoàn toàn tỏ mình ra cho thấy tất cả sự thật về Người là "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16) - đó là lý do các ảnh tượng được che đi sẽ hoàn toàn lộ ra vào đêm Vọng Phục Sinh. 
     
    Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được lý do tại sao dân Do Thái đã không còn chịu được Chúa Giêsu nữa, họ đã tiến từ chỗ nói rằng "ông bị quỷ ám" sang hành động bạo lực là "lượm đá ném Ngài". Hành động "lượm đá ném Ngài" này cũng chưa nặng bằng hành động "họ tìm cách bắt Ngườiở bài Phúc Âm ngày mai. Bởi vì, ở bài Phúc Âm hôm nay, Người mới nói đụng đến tổ phụ Abraham đáng kính của họ, còn ở bài Phúc Âm ngày mai, Người thậm chí còn dám nói chạm tới cả chính Thiên Chúa tối cao đáng tôn thờ của họ. 
     
    Thế nhưng, Chúa Kitô đã nói gì trong bài Phúc Âm hôm nay đụng đến tổ phụ đáng kính Abraham mà thành phần thính giả đại diện dân Do Thái bấy giờ nghe thấy đã không thể nào chịu nổi, đến độ đã ném đá Người như thế. Sau đây là nguyên văn câu Người nói được thánh ký Gioan ghi lại đã quả thực không thể nào không gây chấn động toàn thể con người của những ai nghe người nói, cả bên trong (tức giận) lẫn bên ngoài (ném đá):
     
    "'Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng'. Người Do-thái liền nói: 'Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?' Chúa Giêsu trả lời: 'Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi'".
     
    Lời khẳng định và công khai tuyên bố này của Chúa Kitô về nguồn gốc thần linh của Người, đúng như Người biết mình là Đấng "bởi trời", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này, cũng là Đấng biết mình "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này, nhưng đối với dân Do Thái, Người chỉ là một con người thuần túy như họ đã tỏ ra ngạo mạn hỗn láo, không thể nào chấp nhận được.
     
    "Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi" chẳng những là câu Chúa Kitô đã tỏ nguồn gốc thần linh của Ngài ra, đồng thời cũng là câu Người trả lời cho họ khi họ hạch Người ở đầu Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?". 
     
    Như thế, Người là ai và nguồn gốc thần linh của Người có một liên hệ bất khả phân ly, Người là ai chính ở nơi nguồn ngốc thần linh của Người, và nguồn gốc thần linh của Ngài đã chứng tỏ cho thấy Người là ai. Cũng trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người là ai có liên hệ mật thiết với nguồn gốc thần linh của Người, một nguồn gốc thần linh cho dù tổ phụ Abraham xưa kia cũng không bằng Người hay như Người. Tại sao? Nếu không phải tại vì: 
     
    "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài. Nếu Ta nói Ta không biết Ngài, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài, và Ta giữ lời Ngài. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
     
    Đúng vậy, nguồn gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do Thái bấy giờ cho Người là "bị quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở chỗ Người biết Thiên Chúa: "Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài". Kiến thức thần linh siêu việt này không phải là người ai cũng có, thậm chí tổ phụ Abraham cũng chẳng có, mà chỉ được mạc khải cho biết mà thôi. Thế nên, Chúa Kitô đã nói về vị tổ phụ này rằng: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
     
    Nghĩa là, Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh được Thiên Chúa tỏ ra trong suốt giòng lịch sử cứu dộ của dân Do Thái, bắt đầu từ tổ phụ Abraham, chính là đối tượng chính yếu duy nhất của tất cả những gì tổ phụ Abraham tin tưởng hay hướng về, qua hình ảnh của lòng mong đợi "được thấy ngày của Ta", và chính nhờ đức tin mà quả thực "Ông đã thấy và đã vui mừng" cho dù Chúa Kitô là giòng dõi của ông chưa sinh ra. 


    "Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây, vì có liên quan đến nguồn gốc thần linh của Chúa Kitô, Đấng có trước tổ phụ Abraham và vai trên của Abraham, nên có thể hiểu về vị thượng tế Melchizedek là vị thượng tế đã có một nguồn gốc hoàn toàn siêu phàm bí mật, đóng vai chúc lành cho Abraham và được Anbraham dâng chiến lợi phẩm của mình cho (xem Do Thái 7:1-10, nhất là câu 3:) "Không cha không mẹ hay tổ tiên gì hết, như Con Thiên Chúa, ông muôn đời là tư tế", và Con Thiên Chúa, trong thân phận làm người, được Thiên Chúa chứng nhận: "Con là linh mục đời đời theo giòng Melchizedek" (Do Thái 7:21).

    Ngoài ra, "Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây còn liên quan đến người con được sinh ra theo lời hứa cho ông. Thật vậy, Chúa Kitô đã hiện diện nơi Isaac con ông, người con duy nhất theo lời hứa Thiên Chúa đã ban cho ông khiến ông vui mừng, nhưng Ngài lại muốn ông sát tế nó cho Ngài, để nhờ đó ông vui mừng thấy được người con ông không tiếc cùng Thiên Chúa ấy, như chính Thiên Chúa đã không tiếc Con Một của Ngài (xem Roma 8:32), trở thành mầm mống cho một dân tộc bao gồm vô số muôn dân, đông như sao trời nhiều cát biển, không thể nào đếm được, là thành phần miêu duệ xuất phát từ ông là cha của tất cả những ai tin tưởng, thành phần được cứu chuộc bởi Chúa Kitô, đối tượng đức tin của ông và của giòng dõi như sao trời cát biển này của ông.
     
    Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên, cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã có ý định muốn sử dụng nhân vật Abram là tổ phụ của một giòng dõi bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới, một giòng dõi tin tưởng được Chúa Kitô cứu độ, Đấng xuất thân từ dân tộc Do Thái, như Vị Thiên Sai của họ và là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại. Chính Thiên Chúa đã tự động thiết lập giao ước với nhân vật Abram này bằng những lời lẽ bao gồm và mở đầu cho mạc khải thần linh của Ngài trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho tới khi mạc khải thần linh này lên tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4):
     
    "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
     
    Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời kêu gọi dân Do Thái là "miêu duệ Abrahamđược Thiên Chúa "kén chọn" "hãy luôn tìm kiếm thiên nhan Chúa" là Đấng "muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước... Ngài đã ký cùng Abraham", như Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại, và được chính Chúa Giêsu kín đáo nhắc lại trong Bài Phúc Âm cùng ngày: 
     
    1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.
     
    2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. 
     
    3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. 
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHqPKYej2rAdiXgMXXpUuWOqzQ-m2powVxNPLiNK5EPh8w%
     
     

BÁNH SỰ SỐNG -THỨ BA CN5MC-A

  •  
    Tinh Cao
     
    Mon, Mar 30 at 3:24 PM
     
                                                CÙNG THAM DỰ TIỆC LỜI CHÚA
                                           Thứ Ba CN5MC-A

    Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9

    "Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".

    Trích sách Dân Số.

    Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về phía Biển Ðỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này".

    Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn". Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 101, 2-3. 16-18. 19-21

    Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa (c. 2).

    Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. - Ðáp.

    2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.- Ðáp.

    3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.

     

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

    Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

     

    Phúc Âm: Ga 8, 21-30

    "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được".

    Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"

    Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông".

    Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".

    Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người.

    Ðó là lời Chúa.

     

     

     

    TÔI ĂN-NHAI VÀ NUỐT LỜI CHÚA

     

     

       Chúa Giêsu đã chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu Người

    mà còn cho họ biết nguyên do phạm tội chính khi họ "tìm kiếm" Người nữa   

     

    Chủ đề chung cho Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng rõ nét trong phụng vụ lời Chúa hôm nay, Thứ Ba trong Tuần V Mùa Chay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.
     
    Ở Bài Phúc Âm, "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi", ở chỗ, như Chúa Giêsu đã báo trước cho "những người biệt phái rằng": "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao", nghĩa là khi nào quí vị hô hoán đòi "đóng đanh nó vào thập giá, đóng đanh nó vào thập giá" (Luca 23:21; Marco 15:13-15). 
     
    Nhưng "Tôi lấy nó lại", ở chỗ, chính khi quí vị thách đố Tôi xuống khỏi thập tự giá Tôi cũng không xuống (xem Matthew 27:39-43; Mark 15:29-32; Luke 23:35-36) thì lại là lúc quí vị bấy giờ mới biết Tôi thật sự là Đấng Thiên Sai, như Tôi đã nói, Tôi xuống thế gian này là để làm theo ý Cha là Đấng sai Tôi chứ không phải làm theo ý của Tôi (xem Gioan 6:38).
     
    Ở Bài Đọc 1 cũng thế, chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lạiđược báo trước ngay trong lời Thiên Chúa phán với Moisen rằng: "'Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống'. Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành".
     
    Hình ảnh "con rắn bằng đồng" có thể chữa lành cho những ai bị "rắn lửa cắn" khi họ nhìn lên con rắn treo lên được đúc bằng đồng ấy ám chỉ Chúa Kitô tử giá, và thành phần bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn bằng đồng được treo lên ấy ám chỉ thành phần tội nhân tin tưởng ("nhìn lên") vào Đấng chịu đóng đanh, bao gồm cả dân ngoại: "Người này quả là một con người vô tội" (Luca 23:47) lẫn dân Do Thái: "Khi đám đông qui tụ lại trước cảnh tượng ấy nhìn thấy những gì đã xẩy ra thì trở về đấm ngực" (Luca 23:48). 
     
    Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, tại sao con rắn vốn tiêu biểu cho những gì là độc dữ, đã từng bị chính Thiên Chúa nguyền rủa ngay từ ban đầu sau khi nó là tác nhân gây ra nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:14; Gioan 8:44), mà trong Bài Đọc 1 trích từ Sách Dân Số hôm nay, lại ám chỉ Chúa Kitô tử giá? Phải chăng là vì Thiên Chúa muốn "lấy của độc giải độc", ở chỗ, thương đau và chết chóc gây ra bởi rắn thì chữa lành và sống còn cũng bởi rắn? 
     
    Thật ra, tự bản thân của mình, Chúa Kitô là chính Con Thiên Chúa, là Đấng vô cùng thánh hảo, không có một chút hèn hạ và xấu xa nhơ nhớp nào, thế nhưng, vì Người cũng chính là Đấng Cứu Thế mà Người đã cần phải "trở nên" "Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), để nhờ đó có thể cứu nhân loại nhiễm lây nguyên tội bởi rắn quỉ cắn trong vườn địa đường khỏi tội lỗi và sự chết do chính rắn quỉ gây ra cho bản tính của họ, bằng cách chính Người đã phải "trở thành tội lỗi(2Corinto 5:21) và "bị nguyền rủa" như một tử tội trên thập tự giá (Galata 3:13), nghĩa là Người đã trở nên như một con rắn bằng đồng thôi, chứ không phải rắn thật, một hình tượng tiêu biểu cho tội lỗi và chết chóc.  
     
    Đó là một mầu nhiệm vô cùng thâm sâu con người không thể nào thấu hiểu. Vì theo lập luận của loài người thì Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh hảo và toàn năng không thể nào lại trở thành một con người hay không thể nào làm người vô cùng thấp hèn, bất toàn và bất lực được, chứ chưa nói đến lại còn "trở thành tội lỗi" và "bị nguyền rủa" vô cùng khốn nạn như thế. 
     
    Bởi vậy mà trong bài Phúc Âm hôm nay chính Chúa Giêsu đã vừa khẳng định vừa tiên báo cho "những người biệt phái rằng: 'Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được'", tức loài người như họ không thể nào hiểu được, chứ chưa nói gì đến việc chấp nhận được.
     
    Ngay câu Người nói ấy mà họ chưa hiểu nổý nghĩa sâu xa huyền nhiệm của những gì Người muốn nói huống chi khi họ tận mắt chứng kiến thấy sự thật xẩy ra, do đó"Người Do-thái nói với nhau rằng: 'Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta đi các ông không thể tới được?"
     
    Mà thật, lý do con người bất khả thấu hiểu mầu nhiệm Chúa Kitô này là vì tầm mức chênh lệnh giữa tạo hóa với tạo vật, và tạo vật không thể nào bằng tạo hóa cùng hiểu được như tạo hóa, khoảng cách biệt hơn trời với đất. Thế nên, Chúa Giêsu đã chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu Người mà còn cho họ biết nguyên do phạm tội chính khi họ "tìm kiếm" Người nữa, đó là: 
     
    "Quí vị thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Quí vị thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Vì, nếu quí vị không tin Ta, quí vị sẽ chết trong tội của quí vị". 
     
    Thật sự là thế, chính vì "quí vị không tin Ta" mà "quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", đúng như Người đã quả quyết và cảnh báo: "quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", ở chỗ, chính khi họ "tìm kiếm" Người bằng cách cuối cùng "nhân danh Thiên Chúa hằng sống", qua vị thượng tế Caipha của họ, hỏi Người một cách chính thức và hết sức trịnh trọng có phải là "Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hay chăng?" (xem Mathêu 26:63) thì họ, sau khi nghe Người cho họ biết tất cả sự thật về Người, lại "chết trong tội" của họ: "Hắn lộng ngôn... Hắn đáng chết... Họ bắt đầu nhổ vào mặt Người" (Mathêu 26:66-67). 
     
    Và sở dĩ họ không tin Người hay tin lời Người nói là vì họ chưa nắm bắt được tất cả sự thật về Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho biết, qua câu họ hỏi Người: "Ông là ai?" Bấy giờ Người chưa tỏ hết mình ra như khi Người phải đối diện với toàn thể Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và được thẩm quyền cao nhất của họ hạch hỏi, như trên đây, mà chỉ mới tỏ mình ra một cách xa xa nhưng rất chính xác về Người rằng: "Là Nguyên thủy đang nói với các ông đây!" 
     
    Thế nhưng, Người càng nói, càng tỏ mình ra, họ càng "không hiểu". Bởi vậy, chỉ còn một cách duy nhất là bằng chính cái chết của Người mà thôi: "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao, quí vị sẽ nhận biết Ta là ai". Bởi vì, chỉ có cách ấy mới có thể chứng thực một cách sống động rằng Người quả thực là Đấng Thiên Sai, ở chỗ: "Tôi không tự mình làm điều gì. Ðiều Tôi nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Tôi. Ðấng đã sai Tôi đang ở với Tôi; Ngài không để Tôi một mình, bởi vì Tôi luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài".
     
    Đúng thế, khi Người nói những gì liên quan đến Chúa Cha: "Tôi có nhiều điều phải nói và đoán xét về quí vị, nhưng Ðấng đã sai Tôi là Ðấng chân thật, và điều Tôi nói ra trong thế gian đây, chính là điều Tôi đã nghe biết ở Ngài", thì "họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha", nhưng khi Người nói về chính bản thân Người liên hệ với Chúa Cha, ở chỗ làm theo ý Cha, "thì có nhiều kẻ tin vào Người".
     
    Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu của một tâm hồn phiền muộn, tiêu biểu cho những ai bị rắn lửa cắn trong Bài Đọc 1 hay thành phần những người biệt phái dầu sao cũng có thiện chí tìm hiểu về Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm hồn tìm kiếm Chúa là Vị Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, tỏ mình ta cho con người và muốn cứu độ con người nói chung cùng những ai tin tưởng cậy trông nơi Ngài nói riêng:
     
    1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. 
     
    2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.
     
    3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. 
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    MC.V.3.mp3  

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHqUt2Z%3D8MuhKLoXL%3DtE%3DAfxyDuT%2BP2c%2BMdGDAEmUtZ0fA%40mail.gmail.com.
     

BÁNH SỰ SỐNG - CN5MC-A- NGUYỄN CH. KẾT

CHIA SẺ TIN MỪNG HÀNG TUẦN

Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay

(29-3-2020)

Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người

ĐỌC LỜI CHÚA

  • Ed 37,12-14:(13) Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. (14) Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm.

 

  • Rm 8,8-11:(11) Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.

 

  • TIN MỪNG: Ga 11,3-7.17.20-27.33b-45

 

Anh Ladarô sống lại


(3) Hai cô Mácta và Maria cho người đến nói với Ðức Giêsu: Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng. (4) Nghe vậy, Ðức Giêsu bảo: Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.

(5) Ðức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô. (6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!

(17) Khi đến nơi, Ðức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (20) Vừa được tin Ðức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mácta nói với Ðức Giêsu: Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy. (23) Ðức Giêsu nói: Em chị sẽ sống lại! (24) Cô Mácta thưa: Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. (25) Ðức Giêsu liền phán: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. (26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không? (27) Cô Mácta đáp: Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng phải đến thế gian.

(33b) Ðức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: Các người để xác anh ấy ở đâu? Họ trả lời: Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem. (35) Ðức Giêsu liền khóc. (36) Người Dothái mới nói: Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy! (37) Có vài người trong nhóm họ nói: Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư? (38) Ðức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Ðức Giêsu nói: Ðem phiến đá này đi. Cô Mácta là chị người chết liền nói: Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày. (40) Ðức Giêsu bảo: Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Ðức Giêsu ngước mắt lên và nói: Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con. (43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ! (44) Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Ðức Giêsu bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.

(45) Trong số những người Dothái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Ðức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

 

Câu hỏi gợi ý:

  1.  Ðức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại, điều đó chứng tỏ điều gì? Phải là ai mới có thể thực hiện được điều ấy? 2.   Bạn còn nhớ nội dung các bài Tin Mừng Chúa Nhật mùa Chay vừa qua không? Loạt bài Tin Mừng mùa Chay muốn chứng tỏ điều gì về Ðức Giêsu?  3.   Ðức Giêsu xúc động và khóc trước mộ Ladarô cho thấy tình yêu và tình cảm của Ngài thế nào? Ta có cần biểu lộ tình yêu của mình đối với tha nhân một cách cụ thể như thế không?

Suy tư gợi ý:


  1. Ðức Giêsu có khả năng làm cho kẻ chết sống lại

    Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người bệnh nan y được khỏi bệnh thì có khá nhiều người làm được. Nhưng làm cho người đã chết sống lại thì chỉ những người có sứ mạng đặc biệt của Thiên Chúa mới thực hiện được nhờ quyền năng vô biên của Ngài. 

    Trong Cựu Ước ta thấy ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (xem 1Vua 17,17-24), và ngôn sứ Êlisa cũng làm như thế cho đứa con trai của bà Sunêm (xem 2Vua 4,32-37). Trong Tân Ước, ngoài Ðức Giêsu ra, ta thấy có Phêrô cũng đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (xem Cv 9,39-42). Còn Ðức Giêsu, Ngài đã làm cho người chết sống lại ít nhất 3 lần: cho con trai bà góa thành Nain (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại (x. Ga 11,34-45).

    Nơi những trường hợp được hồi sinh vừa kể, việc sống lại ‒hầu tiếp tục sự sống ở trần gian ít lâu nữa để rồi cũng lại chết‒ chỉ là một hình ảnh hay dấu chỉ của sự sống lại vĩnh viễn để sống sự sống đời đời. Sự sống lại để sống đời đời này chính Ðức Giêsu đã thực hiện cho chính mình (x. Mt 28,1-8; Mc 16,1-8; Lc 24,1-7; Ga 20,1-10). Ðó chính là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào sự sống lại của chính chúng ta để hưởng sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, «nếu Ðức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta là vô ích» (1 Cr 15,14), là hoàn toàn vô căn cứ, không dựa trên một nền tảng nào. Và việc phục sinh của Ngài cũng chính là bằng chứng để ta tin Ngài là Con Thiên Chúa, đồng thời cũng là Thiên Chúa. Vì trong lịch sử nhân loại, sống lại để sống vĩnh cửu như thế ‒nghĩa là hiện nay, sau 2000 năm, Ngài vẫn đang sống, và sẽ còn sống mãi‒ thì chỉ có một mình Ðức Giêsu mà thôi.



    2.  Ðức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Ðấng Mêsia, và cũng là con người như chúng ta

    Các bài Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay muốn chứng tỏ Ðức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ngài chính là Ðấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã hứa, mà người Do Thái trông chờ hàng mấy trăm năm.

    Việc Ðức Giêsu chịu cám dỗ (Chúa Nhật thứ 1 mùa Chay) cho thấy Ðức Giêsu là người đích thực, Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối của con người.

    Việc Ðức Giêsu hiển dung (CN 2 mùa Chay) cho thấy thần tính của Ngài, cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa, được chính Chúa Cha giới thiệu.

    Câu chuyện về nước hằng sống với người phụ nữ Samari (CN 3 mùa Chay) cho thấy Ngài có khả năng đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người, và Ngài tự xác nhận mình là đấng Mêsia mà mọi người trông đợi.

    Việc làm sáng mắt người mù từ khi mới sinh (CN 4 mùa Chay) cho thấy quyền năng đặc biệt của Ngài và cách Ngài hành xử theo tình yêu hơn là theo lề luật.

    Quyền năng ấy lại còn đặc biệt hơn nữa với bài tường thuật Ngài làm cho kẻ chết đã 4 ngày sống lại trong bài Tin Mừng hôm nay (CN 5 mùa Chay). Trong bài Tin Mừng này, Ngài còn tự xác nhận mình chính là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời đời (x. Ga 11,25-26).

    Cuối cùng, Chúa Nhật kế tiếp (CN Phục Sinh) thuật lại việc sống lại của chính Ngài sau khi chịu tử nạn làm hy tế đền tội cho nhân loại. Sự sống lại này là dấu chứng vĩ đại và chắc chắn nhất chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Ðấng Mêsia.

    Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh một cách tổng hợp Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người, một con người đúng là con người, hết sức nhân bản. Ngài là Thiên Chúa, vì có khả năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người, vì khi đến nhà người mình yêu thương đã chết, Ngài cũng «thổn thức trong lòng và xao xuyến» (câu 33b), Ngài đã khóc (câu 35) khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Ngài đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đấy đã phải thốt lên: «Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!» (câu 36).

    Như vậy, Ngài không chỉ yêu thương chúng ta bằng thứ tình yêu đầy tính thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, rộng rãi, và triệt để: «Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng» (Ga 13,1b). «Ðến cùng» ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai ‒kể cả Ngài‒ có thể yêu hơn được nữa: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13).



    3.  Hãy yêu thương như Ðức Giêsu đã yêu thương

    Ðức Giêsu đã yêu thương ta và yêu thương mọi người bằng trái tim con người thế nào, Ngài cũng mời gọi ta yêu thương nhau, yêu thương tha nhân y như vậy: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 15,12). Có yêu thương như thế, ta mới chứng tỏ mình theo Ngài: «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,35).

    Tình yêu nhân bản của Ðức Giêsu được biểu lộ ra bên ngoài bằng sự xúc động mãnh liệt như trường hợp đối với Ladarô, nhất là bằng những hy sinh đến chết cho nhân loại. Tình yêu tuy ẩn sâu kín trong lòng con người không ai thấy được, nhưng nếu là tình yêu đích thực thì nó luôn luôn được biểu lộ ra ngoài thành những ánh mắt trìu mến, cử chỉ yêu thương, lời nói dịu dàng, và nhất là bằng sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho người mình yêu. 

    Tình yêu không thể dấu kín. Tình yêu dấu kín trong lòng là tình yêu đáng nghi ngờ. Nếu đức «tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26), thì một cách tương tự, tình yêu không được biểu lộ cụ thể bằng hành động là tình yêu giả hiệu. Chính «Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại» (Tt 3,4), và Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: «Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống» (1Ga 4,9). Vì thế, chúng ta hãy biểu lộ tình yêu của mình đối với mọi người bằng những cử chỉ, lời nói và hành động cụ thể.



    CẦU NGUYỆN


Lạy Cha, Cha đã tỏ tình yêu của Cha một cách cụ thể cho nhân loại qua việc sai Ðức Giêsu là hiện thân của Cha đến thế gian chịu chết để cứu chuộc họ. Ðức Giêsu cũng biểu lộ tình yêu của Ngài một cách rất cụ thể qua việc khóc thương Ladarô, và qua việc hiến mình đến chết cho nhân loại. Xin giúp con cũng biết thật sự yêu thương những người chung quanh con, và biểu lộ tình yêu thương ấy thật cụ thể qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói và hành động. Amen.

 

Nguyễn Chính Kết


Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ/để đọc bài đào sâu: 

(https://chiasethanhuu.blogspot.com/2020/03/chay5b.html). 

----------------------------------------

BÁNH SỰ SỐNG - THỨ HAI CN5MC-A

  •  
    Hong Nguyen
    Sun, Mar 29 at 2:15 PM
     
     


    THỨ HAI SAU CHÚA NHẬT V MÙA CHAY A

    NGÀY 30- 03 -2020
     

    Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Gio-an (Ga 8: 1-11)
                            THAM DỰ TIỆC LỜI CHÚA

    Khi ấy, Chúa Giêsu đi lên núi Cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến cùng Người một thiếu-phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, thiếu phụ nầy bị bắt quả tảng phạm tội ngoại-tình, mà theo luật Môi sen hạng phụ nữ nầy phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao ?” Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì nọ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo ho : “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị nầy trước đi”. Rồi Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe Người nói thế, họ rút lui tùng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi hơn, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ, Chúa đứng thẳng dậy và bào nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người tố cáo chị đâu cả rồi ? Không ai kết  tội chị ư ?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa !”

    SUY NIỆM/SỐNG VÀ CHIA SẺ

    Khi Chúa Giêsu nói với người đàn bà phạm tội ngoại tình: "Hãy đi, đừng phạm tội nữa!" (Ga 8, 11), Chúa đã muốn cho mọi người thấy: Chúa tha thứ và tin vào con người. Phương pháp của Chúa không phải là vạch trần những điều xấu xa và làm cho người có tội phải cúi đầu nhận mình là tội nhân khốn nạn, nhưng là ban cho tội nhân một cơ hội để họ tự khám phá ra một điều mà trước đó họ chưa hề nghĩ tới, đó là họ có một khả năng tiềm ẩn có thể giúp họ trở nên tốt và trở thành những thánh nhân; đồng thời khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ.

    Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về món nợ to lớn mà chúng ta đã được Chúa tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.
     
    *SUY TƯ VÀ QUYẾT TÂM HÀNH ĐỘNG:  Lạy Chúa, với bản tính con người “nhân vô thập toàn”, chúng con mang trong mình những yếu đuối và lầm lỗi không chỉ đối với Chúa mà còn đối với tha nhân. Thế nên, một khi chúng con đến xin Chúa thứ tha, thì chúng con cũng biết quảng đại tha thứ những lầm lỡ và khiếm khuyết của người khác, trong các mối quan hệ chằng chịt đan xen nhau nơi gia đình, công sở hay học đường.
    Do đó, khởi đi từ việc nhận ra lòng xót thương của Chúa thì chúng con cảm thông, nâng đỡ người khác và xây dựng thế giới xung quanh chúng con được tình người hơn. Amen.


    GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
    Kính chuyển:
    Hồng
     

BÁNH SỰ SỐNG -THỨ SÁU CN4MC-A

  •  
    Tinh Cao
    Thu, Mar 26 at 3:56 PM
     
     

    Thứ Sáu CN4MC-A

     

    THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

    Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22

    "Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".

    Trích sách Khôn Ngoan.

    Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" Chúng nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên cũng chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh dự của những tâm hồn thánh thiện.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23

    Ðáp: Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).

    Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

    2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.

    3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

     

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

    Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

     

    Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30

    "Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.

    Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".

    Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.

    Ðó là lời Chúa.

     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ

     

      cho dù Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa,

    dân chúng vẫn không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ

     

    Mùa Chay cho tới hôm nay đã ở vào ngày Thứ Sáu trong Tuần thứ IV, phụng vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng cho thấy phản ứng tiêu cực của bóng tối lòng người bị chói lòa trước ánh sáng mạc khải thần linh.
     
    Thật vậy, ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, ở đoạn đầu tiên trong ba đoạn, Thánh ký Gioan đã ghi nhận tình hình căng thẳng đến nghẹt thở giữa bóng tối và ánh sáng như sau: 
     
    "Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo".
     
    Hai bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Năm, và hôm kia, Thứ Tư, Thánh ký Gioan ở cùng đoạn 5 cho chúng ta thấy chứng từ của Chúa Giêsu chứng thực về bản thân Người và nguồn gốc của Người ở giáo đô Giêrusalem. Sau đó, ở đoạn 6 của cùng Phúc Âm, Người về Galilêa và đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để từ đó mạc khải về Người là Bánh Sự Sống. 
     
    Câu đầu tiên mở đầu đoạn 7 của bài Phúc Âm hôm nay là câu chuyển tiếp cho việc Người đang ở Galilêa và lý do Người không muốn xuất hiện ở Giuđêa: "Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người". 
     
    Thật ra, không phải là Người sợ chết cho bằng chưa tới giờ của Người. Nguyên sự kiện Người tạm lánh mặt đi như thế này thôi cũng đủ cho thấy Người quả thực là Đấng Thiên Sai như Người đã nói và làm bao giờ cũng chỉ theo ý Cha là Đấng đã sai Người mà thôi.
     
    Nếu Người không phải là Đấng Thiên Sai đích thực, mà chỉ tìm vinh quang trần thế, như Người cảnh báo dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm qua, chắc chắn Người sẽ làm theo ý của Người, ở chỗ, một khi thấy rằng mình đã được bao nhiêu là người hậu thuẫn, thậm chí muốn tôn Người lên làm vua (xem Gioan 6:15) sau phép lạ Người hóa bánh ra nhiều để nuôi cả năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít, Người sẽ hô hào họ theo Người và cùng Người kéo xuống Giuđea để tiến về Giêrusalem hầu cho cả giáo quyền Do Thái lẫn chính quyền Roma thấy được quyền lực cùng thanh thế hùng mạnh đáng sợ của Người. 
     
    Thế nhưng, vì là chính Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên sai đích thực, mà Thánh ký Gioan đã thuật lại về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo".
     
    Tuy nhiên, cho dù lên Giêrusalem một cách kín đáo, ở tại giáo đô này, trong khu vực đền thờ, Người vẫn công khai tỏ mình ra bằng chứng từ của Người, không sợ, vì đó là giờ của Người, là lúc và là nơi Cha của Người là Đấng đã sai Người đến, bằng thúc động của Thánh Linh hằng ngự nơi Người và là Đấng luôn tác động mọi lời nói và việc làm của Người theo đúng ý muốn của Cha. Việc công khai xuất hiện của Người tuy làm cho đám đông ngạc nhiên nhưng họ vẫn không chấp nhận Người:
     
    "Có một số người ở Giêrusalem nói: 'Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu'".
     
    Đúng thế, cho dù Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa, dân chúng vẫn không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ, bởi vì, căn cứ vào nguồn gốc trần gian của Người, một tên Giêsu xuất thân từ Nazarét xứ Galilêa: "ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu", nghĩa là ông ta chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai, bởi theo suy luận của họ thì nếu họ biết rõ về thân thế và xuất xứ của Người tất nhiên những gì cần phải xẩy ra đó là Đấng Thiên Sai phải là một nhân vật hoàn toàn bí mật: "khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".
     
    Trước những nhận định của dân chúng không sai về xuất xứ ở trần gian này của Người: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu"; Chúa Giêsu lại tiếp tục tỏ mình ra cho họ một cách chính xác hơn nữa, để nhờ đó họ có thể thấy được tất cả sự thật về Người mà được sự sống, khi Người cho họ biết rằng: "Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta".
     
    Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô chỉ mới đi vòng vòng ở ngoài khi nói đến các việc Người làm được Cha Người trao phó để chứng thực về Người: "công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta", thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã bắt đầu tiến vào vòng trong, khi tuyên bố rõ hơn và mạnh hơn về vai trò Thiên Sai của Người: "Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta".
     
    Ánh sáng càng sáng tỏ càng chói lòa bóng tối và càng xua tan bóng tối, tuy nhiên, thành phần "chuộng tối tăm hơn ánh sáng... sợ bị phơi bày ra ánh sáng" (Gioan 3:19-20), sợ chính ánh sáng, nên chỉ muốn tìm hết cách để dập tắt ánh sáng. Thánh ký Gioan đã cho thấy phản ứng của dân chúng trước mạc khải thần linh tràn đầy sự thật càng ngày càng rạng ngời hơn về Chúa Giêsu như sau: "Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người". 
     
    Hành động và phản ứng đầy tính chất tối tăm của dân Do Thái trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước mạc khải thần linh của Chúa Kitô về bản thân Người, là những hành động và phản ứng theo tâm lý tự nhiên của con người ở mọi thời đại, như đã được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay vạch trần cho thấy tất cả những âm mưu gian ác của họ như sau: 
     
    "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" 
     
    Tuy nhiên, lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử cứu độ của dân Do Thái nói riêng đã cho thấy, như nơi trường hợp Giuse bị 10 người anh thay vì sát hại đã bán Giuse sang Ai Cập để phá hủy mộng mị của đứa em Giuse đáng ghét của họ không ngờ lại làm trọn những gì bị họ cho mà mộng mị ấy (xem Khởi Nguyên 37:20; 50:19-20), vì họ chỉ là loài người thiển cận, như cóc ngồi đáy giếng, đúng như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết: "nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa".
     
    Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những nhận thức hoàn toàn phản lại với tâm tưởng đen tối của thành phần gian ác trong Bài Đọc 1 cùng ngày, những nhận thức hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng làm chủ mọi sự và quan phòng mọi sự theo ý định vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Ngài:
     
    1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. 
     
    2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. 
     
    3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. 
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    MC.IV-6.mp3  

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHquYCav8oRGFE%2BS%3DvWdZ_bA%3DUr5kXSc0w454EhoPNenoA%40mail.g