4. Bánh Sự Sống

BÁNH SỰ SỐNG - SƯ HUYNH BRENDAN CN2PS-A

  •  
    Mo Nguyen
     
    Sat, Apr 18 at 5:32 AM
     
     

    SECOND SUNDAY OF EASTER – YEAR A           19 APRIL 2020

                      

     

    hinh.jpg

     

            Blessed are those who have not seen 

                           and yet believe  

                        REFLECTIONS ON THE GOSPEL (John 20: 19 – 31)

                               STILL BEARING THE WOUND OF LOVE

    Thomas is one of the most clearly defined characters in the Gospels. Born loser, realist, pessimist, he has missed out on the Easter night appearance of Jesus. He won’t believe that Jesus has been raised simply on the other disciples’ claim: ‘We have seen Lord’. He insists on seeing, touching, hearing for himself.

    Eight days later, with divine ‘courtesy’, Jesus meets Thomas’ conditions exactly. But, at the sight of his risen Lord, Thomas abandons these conditions, He, the late-comer, the obtuse one, goes on to make the most exalted act of faith contained in the gospel: ‘My Lord and my God!’ It is Thomas, the hesitant, the doubter, who brings out the full identity of Jesus.

    Moreover, Thomas’ demand to see and touch the wounds shows that the risen Lord continues to bear these badges of vulnerable love. Presumably that is why Pope John Paul II chose this Second Sunday: Jesus is someone to whom we can go and find understanding and mercy in a divine degree.

    Jesus adds a comment that brings us into the picture too: ‘Blessed are those who have not seen and yet believe’. Succeeding generations of believers will not have the privilege of seeing the risen Lord. We have to believe simply the testimony handed down in the Church: ‘We have seen the Lord’. We are not at a disadvantage. We are in fact ‘blessed’ because from us a faith greater than that of Thomas’ will be drawn. And it is faith that lets God’s power into the world.

    Brendan Byrne, SJ

     

    #798.1- Jesus Appears To Thomas - (John 20:19-29):

    https://www.youtube.com/watch?v=uIuIjas6NGw

     

    sing.jpg

    Không Thấy Mà Tin:

    https://www.youtube.com/watch?v=JHbUWomyA8A

     
     

BÁNH SỰ SỐNG - THỨ SÀU CN2PS-A

  •  
    Tinh Cao
     
    Thu, Apr 16 at 3:21 PM
     
     

    Thứ Sáu Bát Nhật PHỤC SINH

    BẠN VÀ TÔI CÙNG THAM DỰ BỮA TIỆC LỜI CHÚA

     

    Bài Ðọc I: Cv 4, 1-12

    "Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác".

    Trích sách Tông đồ Công vụ.

    Trong những ngày ấy, đang lúc Phêrô và Gioan giảng cho dân chúng (sau khi chữa lành người què), thì các tư tế, vị lãnh binh cai đền thờ và các người thuộc nhóm Sađốc áp tới, bực tức vì các ngài giảng dạy dân chúng và công bố việc Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại. Họ ra tay bắt các ngài và đem tống giam vào ngục cho đến hôm sau, vì lúc đó đã chiều tối rồi. Nhưng trong số những kẻ nghe giảng, có nhiều người tin, và nguyên số đàn ông cũng đã tới năm ngàn người. Ðến hôm sau, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ ở Giêrusalem, có cả Anna thượng tế, Caipha, Gioan, Alexanđê, và tất cả những người thuộc dòng tư tế, nhóm họp. Họ cho điệu hai ngài ra giữa mà chất vấn rằng: "Các ông lấy quyền hành và danh nghĩa nào mà làm điều đó?"

    Lúc bấy giờ Phêrô được đầy Thánh Thần đã nói: "Thưa chư vị thủ lãnh toàn dân và kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị tất cả, và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ Danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng tôi, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để nhờ vào Danh đó mà chúng ta được cứu độ".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 117, 1-2 và 4. 22-24. 25-27a

    Ðáp: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).

    Hoặc đọc: Alleluia.

    Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". - Ðáp.

    2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Ðáp.

    3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. - Ðáp.

     

    Alleluia: Tv 117, 24

    Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Ga 21, 1-14

    "Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Ðiđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

    Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách.

    Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

    Ðó là lời Chúa.

     

     

     BẠN VÀ TÔI CẦN LÀ TẤM BÁNH BẺ RA TRAO CHO ANH EM

     

    Con số "lưới đầy cá lớn - 153 con " được kể đến ở đây nghĩa là gì? Tại sao phải có chi tiết nhỏ nhặt con số rõ ràng như thế? "Cá lớn" chứ không phải cá nhỏ, và nhiều cá chứ không phải ít cá.

     

    "Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến". Theo thứ tự thời gian, như được các bài Phúc Âm trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh thuật lại, thì đây là lần hiện ra thứ 6 của Chúa Giêsu sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết: lần 1 với các phụ nữ (Phúc Âm Thứ Hai); lần 2 với một mình Chị Mai Đệ Liên (Phúc Âm Thứ Ba); lần 3 với hai môn đệ về làng Emmau (Phúc Âm Thứ Tư); lần 4 với chung các môn đệ nhất là các tông đồ (Phúc Âm Thứ Năm); lần 5 với chung các môn đệ một lần nữa vào ngày thứ tám (Bài Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Lòng Thương Xót Chúa kết thúc Tuần Bát Nhật Phục Sinh); lần 6 với 7 tông đồ ở bờ biển Tibêria (Phúc Âm Thứ Sáu).

     

    Chính Thánh ký Gioan trong bài Phúc Âm hôm nay thuật lại lần hiện ra thứ 6 này của Chúa Kitô Phục Sinh, nhưng ngài xác định "đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại". Lần thứ hai Người "hiện ra với môn đệ" được Giáo Hội chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật thứ 1 Phục Sinh, kết Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Lễ Trọng Kính Lòng Thương Xót Chúa. Còn lần thứ nhất Người "hiện ra với môn đệđã được Giáo Hội chọn đọc trong bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho Lễ Phục Sinh Ban Ngày.

    Trong lần hiện ra thứ 3 với chung các môn đệ chính yếu là các tông đồ này, cho dù chỉ có 7 vị, vẫn được kể là với chung các vị, một lần hiện ra ít là có hai điều khác lạ: trước hết là không phải xẩy ra ở trong Nhà Tiệc Ly kín mít nữa, mà là ở ngoài trời, ở trên bờ hồ Tibêria, và vì thế, sau nữa, Người cũng không còn chúc "bình an cho các con" như lần đầu nữa, bởi các vị đã tin rằng Người đã sống lại nên mới dám lò mò đi ra ngoài sinh hoạt đánh cá trở lại. 

     

    Thế nhưng hình như vào buổi chiều tối thôi, cũng có vẻ còn lén lút chứ chưa hoàn toàn công khai trước mặt dân chúng. Bởi thế, thâu đêm các vị cũng chẳng bắt được con nào, cho đến "lúc rạng đông", nghe lời của một vị đứng trong bờ bảo sao làm vậy thì nhóm 7 vị tông đồ, hầu như toàn là những tay lành nghề đánh cá, mới bắt được một mẻ cá lạ lùng, nhờ đó các vị (mà đầu tiên là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu") đã nhận ra Đấng Phục Sinh: "Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: 'Ông là ai?' Vì mọi người đã biết là Chúa".

     

    Biến cố những tay lành nghề đánh cá như các tông đồ đã từng hành nghề trước khi theo Chúa Kitô mới 3 năm trước đó, như thành phần các môn đệ được Thánh ký Gioan liệt kê trong bài Phúc Âm hôm nay, bao gồm Phêrô, Giacôbê và Gioan, Toma và Nathanael (hay Botholomew) cùng "hai môn đệ nữa" không được kể đích danh, song có thể đoán được là môn đệ Anrê là em của Phêrô và Philiphê là bạn của Nathanael (xem Gioan 1:40-50), nhưng thâu đêm cả 7 vị vẫn chẳng bắt được gì, như đã từng xẩy ra hầu như 3 năm trước, khi 2 cặp anh em thuyền chài thân hữu là Phêrô - Anrê + Giacôbê - Gioan nhờ mẻ cá lạ lần thứ nhất ấy đã bỏ mọi sự mà theo Chúa (xem Luca 5:1-11).

     

    Cũng như lần đầu, mẻ cá lạ đã tái diễn một lần nữa, và chính mẻ cá lạ ấy là dấu hiệu khiến cho "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" là Gioan, vị môn đệ tiêu biểu cho đức mến, bén nhậy nhất trong việc nhận ra Chúa Kitô: "Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: 'Chính Chúa đó'. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay".

     

    Con số "lưới đầy cá lớn - 153 con " được kể đến ở đây nghĩa là gì? Tại sao phải có chi tiết nhỏ nhặt con số rõ ràng như thế? "Cá lớn" chứ không phải cá nhỏ, và nhiều cá chứ không phải ít cá. Nếu "cá" liên quan đến con người ta hay phần rỗi của con người, và bắt cá hay chài lưới người đây là mang ơn cứu độ của Chúa Kitô Vượt Qua đến cho phần rỗi của nhân loại, thì "cá lớn" đây tiêu biểu cho quyền năng phục sinh của Chúa Kitô (xem Mathêu 28:18), Đấng đã làm cho tử thi Lazarô chết đã xông mùi (tiêu biểu cho thứ "cá lớn" là thành phần đại tội nhân) hồi sinh (xem Gioan 11:39-44).

     

    Con số "153" đây phải chăng tiêu biểu cho 1 Thiên Chúa chân thật duy nhất là Cha ở trên trời (theo ý nghĩa những lời Chúa Kitô Phục Sinh đã nói với các phụ nữ ở bài Phúc Âm Thứ Hai và với Chị Mai Đệ Liên ở bài Phúc Âm Thứ Ba), 5 Dấu Thánh của Chúa Kitô khổ nạn và tử giá (như Chúa Kitô Phục Sinh đã tỏ cho các tông đồ thấy khi hiện ra với các vị ở bài Phúc Âm hôm qua Thứ Năm hay trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật II Phục Sinh sắp tới), và 3 Ngôi Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần (như Chúa Kitô Phục Sinh truyền cho các tông đồ rửa tội cho muôn dân trong Bài Phúc Âm Thăng Thiên Năm A)?

     

    Như thế, có thể nói, con số "153" con cá trong mẻ cá lạ mà các tông đồ bắt được theo lời chỉ dẫn của Chúa Kitô Phục Sinh đây là tiêu biểu cho thành phần các linh hồn tin vào chứng từ của Giáo Hội qua các phần tử tông đồ của Giáo Hội, bắt đầu từ các vị tông đồ chứng nhân tiên khởi, thành phần chài lưới người hay đánh cá người, tức làm cho con người nhận biết và tin tưởng mà được sự sống đời đời, được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, một con số 153 tượng trưng cho Ba Ngôi Thiên Chúa: Ngôi Cha ở nơi số 1 - một Thiên Chúa chân thật duy nhất, Ngôi Con ở nơi số 5 - năm dấu thánh của Chúa Kitô tử giá cứu chuộc, và Ngôi Thánh Thần ở nơi con số 3 - Ngôi Ba là chính mối hiệp thông thần linh Cha - Con, cũng là Đấng làm cho con người được hiệp thông thần linh "như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Gioan 17:21).

     

    Con số "153" huyền diệu này là tóm kết tiêu biểu cho câu định nghĩa của Chúa Kitô kết Bữa Tiệc Ly về "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất (được tiêu biểu nơi số 1) và Giêsu Kitô Cha sai (số 5 tiêu biểu cho Đấng Thiên Sai tử giá vì vâng lời cho đến chết trên thập giá và vì thể đã mang 5 dấu thánh)" (Gioan 17:3), một sự sống được thông ban cho những ai tin nhờ Thánh Thần Ngôi Ba (được tiêu biểu nơi số 3) "là Đấng ban sự sống".

     

    Nếu suy đoán này không sai thì có nghĩa là những ai lãnh nhận Phép Rửa (thường vào Lễ Vọng Phục Sinh) là thành phần được "ban cho quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), một Thiên Chúa chân thật duy nhất đã tỏ tất cả mình ra qua Lời Nhập Thể của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tỏ Cha là Đấng đã sai Người ra trên Thánh Giá với 5 Dấu Thánh, để nhờ đó chẳng những cứu chuộc con người khỏi tội lỗi và sự chết còn thông ban cho con người, qua cuộc phục sinh của Người, sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần.

     

    Lần đầu tiên khi Chúa Kitô hứa biến 2 cặp anh em môn đệ đầu tiên là Phêrô - Anrê và Giacôbê - Gioan thành những tay bắt "cá người" xẩy ra vào buổi sáng và trên bờ biển thế nào thì lần cuối cùng này cũng vào: "Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển", thế nhưng lại vào thời điểm sau khi Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng hiện đến với các vị để dọn sẵn món ăn cho các vị ở trên bờ: "Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh... Chúa Giêsu bảo rằng: 'Các anh hãy lại ăn'.... Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế".

     

    Mẻ cá lạ lần thứ hai này đã xẩy ra sau khi Chúa Kitô Phục Sinh hỏi các môn đệ: "Các anh có gì ăn không?" và được các vị trả lời là "thưa không", chứ không phải "các con có bắt được gì không" và các vị "thưa không". Tại sao vào chính lúc các môn đệ không có gì ăn Chúa Giêsu lại chỉ chỗ cho các vị  bắt được mẻ cá lạ lùng như thế, nếu không phải "" là món ăn chính của các vị, và các vị cần phải đói khát "" là con người ta thì các vị mới "trở thành những tay bắt cá người" (Luca 5:10) và mới có thể bắt được nhiều "" người như mẻ cá lạ trong bài Phúc Âm hôm nay.

     

    Và tại sao Chúa Giêsu bảo các môn đệ '"các anh hãy mang cá mới bắt được lại đây" , rồi sau khi các môn đệ làm theo như thế thì Chúa Giêsu mới mời các vị ăn và còn tận tay mang đến tận nơi cho các vị nữa: "Chúa Giêsu bảo rằng: 'Các anh hãy lại ăn'... Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế", nếu không phải là sau khi các vị đã tận lực hoàn thành sứ vụ bắt "cá người" được úy thác cho các vị, các vị được chính Người khoản đãi chính món "" do Người đích thân nướng cho các vị thưởng thức. Chính Người đã khẳng định về thành phần đầy tớ khôn ngoan tỉnh thức và trung thành của Người rằng: "phúc cho đầy tớ ấy... chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ" (Luca 12:37).

     

    "Bánh" và "" ở đây là hai thứ đã được chính Chúa Kitô sử dụng trong hai lần Người hóa bánh ra nhiều để đám đông nuôi dân chúng (lần đầu 5 ngàn lần sau 4 ngàn) theo nghe Người giảng dạy (xem Mathêu 14:17-21 với 5 chiếc bánh và 2 con cá & 15:34-38 với 7 chiếc bánh và ít cá). Nếu "" biểu hiệu cho con người hay phần rỗi của con người, thì "bánh" biểu hiệu cho Chúa Kitô, cho Thánh Thể, cho sự sống thần linh Thiên Chúa muốn thông ban cho nhân loại qua Con Ngài là Chúa Kitô, Lời Nhập Thể Vượt Qua.

     

    Cử chỉ Chúa Kitô Phục Sinh đích thân sửa soạn và mang đến tiếp cho các tông đồ ở đây có nghĩa là chính Người (biểu hiệu nơi "bánh") đã hy mình làm giá chuộc cho nhiều người được rỗi (biểu hiệu nơi ""), như Người đã khẳng định trong Phúc Âm Thánh Mathêu (20:28), giờ đây, Người trao tất cả ("bánh" là bản thân Người hay sự sống thần linh của Người đã phục sinh, lẫn "" là phần rỗi các linh hồn) cho các tông đồ là thành phần thừa tác viên chính thức của Người để các vị có thẩm quyền và năng quyền thực sự thay Người (nhân danh Người) mà ban phát cho thế gian với tư cách là "những tay chài lưới người" (Luca 5:10) cho đến khi Người lại đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

     

     

     

     

     

     


     

     

     Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    PS-BatNhat.6.mp3  

     

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHpbyju1RAi3rEih4JAT99_r5fgus4icvgHti8Gk2EMchw%40mail.gmail.com.
     

BÁNH SỰ SỐNG - CHÚA GIESU KHÓ THỞ

 

  •  
    nguyenthi leyen
    Fri, Apr 10 at 1:30 AM
     
     ---------------------------------------------------
     MỜI QUÝ VỊ ĐỌC THÊM NỘI DUNG# 21 TRONG TRANG WEB: www.ChiaseLoiChua.com
     
    ĐỂ THẤY HƠI THỞ CẦN THIẾT THẾ NAO???!!!
    ----------------------------
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

    SUY NIỆM THỨ SÁU TUẦN THÁNH TRONG MÙA DỊCH COVID-19

    Đức Giêsu khó thở trên thập giá

     

     

     

    Trong chiều ngày Thứ Sáu này, Đức Giêsu cũng đang khó thở vì chịu đóng đinh vào thập giá. Tới khoảng 3 giờ chiều, Ngài đã tắt thở. Đó là buổi chiều tang tóc thê lương mà chúng ta muốn thông phần đau khổ với Ngài.

     

    Người bị treo trên thập giá thì sức nặng toàn thân ép lồng ngực gây khó thở. Người ta đánh dập ống chân để không rướn lên được mà lấy hơi thì sẽ chết mau. (Ga 19,31–32) 

     

    1. Đức Giêsu chia sẻ với bệnh nhân

     

    Các nhà nghiên cứu đều khẳng định sức khỏe của Đức Giêsu trước cuộc thương khó là bình thường. Một thanh niên đủ sức để rao giảng Tin Mừng từ làng này qua làng khác. Tuy vậy, ngay tại vườn Cây Dầu, Đức Giêsu đã bị đổ mồ hôi máu. Đây là một hiện tượng rất hiếm gặp, nhưng nó có thể xẩy ra trong tình trạng xúc động cao độ. Sau lần đó, Đức Giêsu lại bị quân lính bắt và điệu về nhà thượng tế Cai–pha. Họ giam cầm, tra tấn và đánh đập Ngài ở đó. Tờ mờ sáng, Đức Giêsu bị điệu đến gặp tổng trấn Philatô. Chính nơi đây, Đức Giêsu chịu những đòn roi của quân lính. Chắc chắn Ngài bị mất máu nhiều.

     

    Theo truyền thống hành quyết của đế quốc Rôma, người ta phải vác một thanh ngang đến chỗ tử nạn. Nơi đó có thanh dọc đã đặt sẵn. Hoặc tử tội phải vác khúc gỗ hình chữ T, đến nơi hành quyết, họ chịu đóng đinh và treo lên cây đã dựng sẵn ở đó. Theo nhiều nhà nghiên cứu, tại đồi Canvê, cổ tay của Đức Giêsu bị đinh đóng vào cây ngang; và sau khi cây ngang bị nâng lên cây dọc, thì hai bàn chân của Ngài bị đinh đóng vào cây dọc. Trong tình trạng đó, người ta tin rằng cái chết của Ngài chủ yếu phát sinh từ cơn sốc giảm thể tích máu và nghẹt thở. Đức Giêsu đã khó thở khi tay giang rộng, treo trên thập giá[1].

     

    Chiêm ngắm Ngài như thế để thông phần nỗi đau với Ngài. Chính Ngài cũng đã và đang chung phần nỗi đau cụ thể với nhân loại. Trên thập giá lúc này, Ngài cũng đang nhìn xuống biết bao người phải chống chọi với con virus khiến người ta khó thở. Nhất là những ai đã có những căn bệnh trước đó, virus lại khiến họ suy hô hấp nhanh hơn. Nhiều người hỏi Thiên Chúa ở đâu trong khi con người đang chiến đấu với căn bệnh này? Ngày hôm nay, chiều Thứ Sáu Tuần Thánh này, Chúa đang cho chúng ta câu trả lời: trên thập giá. Hóa ra, để cứu ta khỏi chết, Thiên Chúa đã thực hiện một sứ mạng nguy hiểm: hiến tế con của Người trên thập giá.

     

    2. Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng

     

    Nếu những ai tham dự chặng đàng thánh giá, trước khi chết, Đức Giêsu chịu đóng vào thập giá. Nơi đó, dưới chân thập giá có Đức Mẹ và người môn đệ Chúa yêu mến đã ghi lại cho chúng ta một chi tiết: “Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Người nói: Tôi khát!” Đó không chỉ là khát nước sau chặng đường thập giá. Trên hết, Ngài đang khát khao chu toàn thánh ý Chúa Cha.

     

      Theo Tin Mừng thánh Luca, câu nói cuối cùng của Đức Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.” (Lc 23,46). Vậy là Đức Giêsu đã trút hơi thở cuối cùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng. Thần khí Ngài trở về với Thiên Chúa Cha. Với hầu hết người hiện diện ngày hôm đó, Đức Giêsu đã thất bại ê chề. Tuy vậy, nhờ biến cố phục sinh, Giáo Hội tin rằng ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa, Ngài cũng cho được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

     

    Lúc này đây thật tốt để chiêm ngắm Chúa trong thinh lặng. Trước cái chết, mọi diễn tả của ngôn từ sẽ không đủ. Mỗi người cùng sầu buồn với Mẹ Maria và “người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến”, đại diện cho mỗi chúng ta, bởi vì “Chúa đã yêu tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2, 20) trong bài thánh ca: Mẹ Nhân Loại:

     

    3. Cầu nguyện cho những nạn nhân Covid–19

     

     Cùng với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, chúng ta xin Thiên Chúa xót thương đón nhận những linh hồn đã chết trong đại dịch này vào vòng tay nhân từ của Người. Xin cho những ai đang trong giờ lâm tử cũng được Chúa đoái thương. Linh hồn của họ cần được thập giá của Đức Giêsu cứu thoát. Hy vọng những lời cầu nguyện của mỗi người giúp cho họ giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa trong thời khắc đau thương này. 

     

    Chắc không ai sầu buồn bằng Đức Mẹ khi chứng kiến người con thân yêu của mình qua đời. Lúc này một lưỡi gươm “đâm thâu” tâm hồn Mẹ. Mẹ chấp nhận tất cả và đứng vững trong nỗi đau này. Bởi Mẹ tin Con của Mẹ sẽ sống lại như những lời Ngài đã nói năm xưa. Cùng với Mẹ, chúng ta cầu nguyện xin Chúa nâng đỡ người thân của những ai đã qua đời, những ai trong cơn nguy kịch.  

     

    Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đầy quyền năng và giàu lòng thương xót, xin đoái nhìn đến nỗi thống khổ của gia đình nhân loại trong cơn đại dịch, xin cứu chuộc những người đã qua đời, chữa lành các bệnh nhân, an ủi những gia đình đang đau khổ, nâng đỡ các bác sĩ, nhân viên y tế và những anh chị em thiện nguyện. Xin thương nghe lời Hội Thánh Chúa đang tha thiết khẩn cầu, cho cơn dịch bệnh mau chấm dứt, và cho chúng con cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa  để biết luôn chân thành liên kết với nhau. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen[2].

    Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

    Nguồn: Truyền thông HĐGMVN 
     
     
     

     


    [1] X. Joseph Ratzinger, Đức Tin Kitô Giáo hôm qua và hôm nay.

    [2] Theo đề nghị của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích tại Sắc lệnh trong thời gian dịch bệnh Covid–19 (II), Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam gợi ý  lời cầu nguyện này trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.

     
     
     

 

BÁNH SỰ SỐNG -TỨ TƯ TUẦN PHỤC SINH

 

  •  
    Tinh Cao
    Tue, Apr 14 at 3:07 PM
     
     
     

    Thứ Tư Bát Nhật Phục Sinh

    BÁNH SỰ SỐNG LỜI CHÚA

    Bài đọc 1
    Cv 3,1-10

     

    Cái tôi có, tôi cho anh đây : Nhân danh Đức Giê-su, anh hãy đứng dậy mà đi.

    Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.

    1 Một hôm, ông Phê-rô và ông Gio-an lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. 2 Khi ấy, người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ. Ngày ngày họ đặt anh ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí. 3 Vừa thấy ông Phê-rô và ông Gio-an sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. 4 Hai ông nhìn thẳng vào anh, và ông Phê-rô nói : “Anh nhìn chúng tôi đây !” 5 Anh ta chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì. 6 Bấy giờ ông Phê-rô nói : “Vàng bạc thì tôi không có ; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây : nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi !” 7 Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh trỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. 8 Anh đứng phắt dậy, đi lại được ; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. 9 Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. 10 Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh.

    Đáp ca
    Tv 104,1-2.3-4.6-7.8-9 (Đ. c.3b) 

    Đ.Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.

    1Hãy tạ ơn Chúa, cầu khẩn danh Người,
    vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân.
    2Hát lên đi, đàn ca mừng Chúa,
    và suy gẫm mọi kỳ công của Người.

    Đ.Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.

    3Hãy tự hào vì danh thánh Chúa,
    tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.
    4Hãy tìm Chúa và sức mạnh của Người,
    chẳng khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan.

    Đ.Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.

    6Hỡi anh em, dòng dõi Áp-ra-ham tôi tớ Chúa,
    con cháu Gia-cóp được Người tuyển chọn !
    7Chính Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta,
    những điều Người quyết định
    là luật chung cho cả địa cầu.

    Đ.Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.

    8Giao ước lập ra, muôn đời Người nhớ mãi,
    nhớ lời đã cam kết đến ngàn thế hệ !
    9Đó là điều đã giao ước cùng Áp-ra-ham,
    đã đoan thệ cùng I-xa-ác.

    Đ.Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.

    Tung hô Tin Mừng
    Tv 117,24

    Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.

    Đây là ngày Chúa đã làm ra,

    nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Ha-lê-lui-a.

    Tin Mừng
    Lc 24,13-35

     

    Họ đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh.

    Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

    13 Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ : “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.

    18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời : “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” 19 Đức Giê-su hỏi : “Chuyện gì vậy ?” Họ thưa : “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói ; còn chính Người thì họ không thấy.”

    25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng : “Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.

    28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng : “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau : “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?”

    33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông : “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn.” 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

     

     

     

    Họ đâu có ngờ rằng, chính lúc họ tuyệt vọng và bỏ về như thế 

    họ lại gặp được ngay Đấng họ tưởng rằng họ không bao giờ còn được gặp lại trên trần gian này nữa

     

     

    "Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra". Và tâm tình chia sẻ có vẻ tiêu cực và bi quan của hai vị đã được vị khách lạ trấn an bằng những lý lẽ Thánh Kinh, khiến các ông cảm thấy an lòng và ấm lòng, cho đến khi, qua cử chỉ quen thuộc của Người, họ mới nhận ra vị khách lạ vừa biến khuất khỏi mắt họ đó chính là Chúa Kitô.

     


     

    "Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất". 

     

    Theo thứ tự thời gian thì đây là lần hiện ra thứ ba của Chúa Kitô sau khi Người sống lại từ trong cõi chết. Cả 3 lần, kể cả lần ngày mai là thứ 4, đều xẩy ra vào cùng một ngày, ngày thứ nhất trong tuần. Hình như ba lần đầu, hiện ra có vẻ lẻ tẻ với thành phần môn đệ, cả nữ lẫn nam, không phải là chính các tông đồ, Chúa Kitô như muốn dọn đường hay dọn lòng cho các tông đồ để các vị khỏi quá bỡ ngỡ bàng hoàng khi gặp lại Người ở một dạng thức khác, và nhờ đó dễ tin vào người hơn.

     

    Riêng trong lần hiện ra thứ ba với hai môn đệ đang đi về làng Emmau ở bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn trấn an các vị là thành phần môn đệ nam, thành phần mà, theo phái tính, vốn nghiêng về lý trí hơn tình cảm và trực giác như nữ giới, như hai trường hợp xẩy ra cho phái nữ ở hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia, nên Người cần phải lấy chính Thánh Kinh để nói chuyện với thành phần môn đệ phái nam này.

     

    Tuy nhiên, họ vẫn không nhận ra người khách lạ mặt có vẻ chẳng biết gì về biến cố cả thể xẩy ra làm náo động cả Giêrusalem lên như thế, mà lại là một người khách lạ thông thuộc và nắm vững Thánh Kinh đến độ lấy chính Thánh kinh để chứng thực cho các vị về sự kiện sống lại không thể nào không xẩy ra của Đấng các vị trông đợi như một Đấng Thiên Sai: "Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel".

     

    Đúng thế, chính vì niềm hy vọng không hoàn toàn xác thực này mà các vị nói riêng và của chung thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung đã cảm thấy quá ư là "buồn bã", đến độ chán chường thất vọng hình như hai người môn đệ này đã có ý định bỏ cuộc mà trở về quê quán Emmau của mình. Thật ra, chính vì niềm hy vọng của họ có tính cách chủ quan cố hữu thiên về chính trị mà họ đã không thể nào không tuyệt vọng khi thấy Đấng mà họ đầy lòng tin tưởng và trông mong, nhất là khi Người vinh quang khải hoàn tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, lại chính là Đấng không thể xuống khỏi thập tự giá, đã bị giết chết và được mai táng trong mồ như bất cứ một phàm nhân nào, và đến ngày thứ ba rồi mà vẫn chưa thấy chẳng thấy bóng dáng Người đâu:

     

    "Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".

     

    Để củng cố niềm tin cho hai môn đệ hình như nản chí nhất này, đến độ họ đã dám ra khỏi căn phòng khóa kín là nơi thành phần môn đệ của Đấng đã bị dã mãn tàn ác giết chết đang cùng nhau trú ngụ một cách sợ sệt, họ như không còn biết sợ hãi thành phần sát hại Đấng mà họ theo đuổi nữa, vì nếu họ có bị nhóm này chặn lại thì họ chỉ cần trả lời rằng "chúng tôi không còn thuộc về nhóm của kẻ chết nữa", thế là xong, chắc chắn họ sẽ không bị làm khó dễ hay bách hại.

     

    Thế nhưng, họ đâu có ngờ rằng, chính lúc họ tuyệt vọng và bỏ về như thế họ lại gặp được ngay Đấng họ tưởng rằng họ không bao giờ còn được gặp lại trên trần gian này nữa. Và giây phút họ nhận ra Người là lúc họ thấy được cử chỉ thân quen của Người vẫn làm trước mắt các môn đệ, đó là: "Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông". Rõ ràng là lần hiện ra thứ ba này, mục đích của Chúa Kitô là để củng cố đức tin cho 2 môn đệ ấy: "Mắt họ sáng ra và nhận ra Người".

     

    Để rồi, cho dù Người không sai phái các vị phải trở về loan báo tin vui cho các tông đồ, như hai lần hiện ra trước với thành phần nữ giới, nhưng một khi đã gặp được Người thì tác dụng thần linh bất khả chống cưỡng của cuộc gặp gỡ thần linh bao giờ cũng thúc đẩy con người phải loan truyền tất cả sự thật liên quan đến những gì họ đã thấy và đã nghe: "Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. ...Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào".

     

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    PS.BatNhat-4.mp3  

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHrs5uUyZC5TLi%2Bx-Q%2BXoYXWUSMK37WBn_pyRV1Gq8Nxww%40mail.gmail.com.
     

 

BÁNH SỰ SỐNG - NGÀY 02-4-2020

  •  
    Tinh Cao
     
    Wed, Apr 1 at 3:41 PM
     
     

    Thứ Năm CN5MC-A

     

    BỮA TIỆC Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: St 17, 3-9

    "Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".

    Trích sách Sáng Thế.

    Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".

    Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9

    Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

    Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

    2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

    3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.

     

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14

    Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các ngươi.

     

    Phúc Âm: Ga 8, 51-59

    "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"

    Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

    Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".

    Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.

    Ðó là lời Chúa.

     

     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ

     

     

      nguồn gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do Thái bấy giờ cho Người là "bị quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở chỗ Người biết Thiên Chúa 

     

      

    Hôm nay, Thứ Năm Tuần V Mùa Chay, chỉ còn đúng 3 ngày nữa là hết Mùa Chay, Chúa Nhật Lễ Lá, thời điểm bắt đầu Tuần Thánh cũng gọi là Tuần Thương Khó.
     
    Đúng như hôm qua đã cảm nhận "chúng ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này của họ, và vì vậy, trong khi họ được Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai)".
     
    Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối, chúng ta đã thấy phản ứng dữ dội đầu tiên của người Do Thái đối với Người, như Thánh ký Gioan cho biết: "Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ". 
     
    Phải chăng trong Tuần V Mùa Chay xẩy ra sự kiện "Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ" này mà kể từ Chúa Nhật V Mùa Chay đầu tuần, các nhà thờ Công giáo, cách riêng ở Hoa Kỳ, đã che phủ các ảnh tượng và Thánh Giá lại, cho đến sau cử hành nghi thức khổ nạn của Chúa Kitô Thứ Sáu Tuần Thánh mới bỏ khăn che Thánh Giá ra và cho tới Lễ Vọng Phục Sinh mới mở các tấm che các ảnh tượng khác ra?
     
    Sự kiện theo truyền thống của Giáo Hội che đi các ảnh tượng và Thánh Giá vào thời điểm này còn có thể hiểu, hay tự nó mang một dụng ý là mầu nhiệm về Chúa Kitô, một mầu nhiệm thần linh liên quan đến cuộc khổ nạn tử giá của Người và đạt tới tột đỉnh của mình nơi biến cố Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm thần linh con người nói chung và dân Do Thái nói riêng tự mình không thể nào hiểu được, dù có nghe thấy chính lời tự chứng của Chúa Kitô.
     
    Tuy nhiên, mầu nhiệm thần linh vô cùng siêu việt về Chúa Kitô ấy sẽ hoàn toàn được tỏ hiện ở chính vào lúc con người, qua dân Do Thái bấy giờ, "treo Con Người lên cao" (Gioan 8:28) - đó là lý do tấm che Thánh Giá được mở ra sau nghi thức Thương Khó Thứ Sáu Tuần Thánh, nhất là cho đến khi Người từ trong kẻ chết sống lại là lúc Người hoàn toàn tỏ mình ra cho thấy tất cả sự thật về Người là "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16) - đó là lý do các ảnh tượng được che đi sẽ hoàn toàn lộ ra vào đêm Vọng Phục Sinh. 
     
    Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được lý do tại sao dân Do Thái đã không còn chịu được Chúa Giêsu nữa, họ đã tiến từ chỗ nói rằng "ông bị quỷ ám" sang hành động bạo lực là "lượm đá ném Ngài". Hành động "lượm đá ném Ngài" này cũng chưa nặng bằng hành động "họ tìm cách bắt Ngườiở bài Phúc Âm ngày mai. Bởi vì, ở bài Phúc Âm hôm nay, Người mới nói đụng đến tổ phụ Abraham đáng kính của họ, còn ở bài Phúc Âm ngày mai, Người thậm chí còn dám nói chạm tới cả chính Thiên Chúa tối cao đáng tôn thờ của họ. 
     
    Thế nhưng, Chúa Kitô đã nói gì trong bài Phúc Âm hôm nay đụng đến tổ phụ đáng kính Abraham mà thành phần thính giả đại diện dân Do Thái bấy giờ nghe thấy đã không thể nào chịu nổi, đến độ đã ném đá Người như thế. Sau đây là nguyên văn câu Người nói được thánh ký Gioan ghi lại đã quả thực không thể nào không gây chấn động toàn thể con người của những ai nghe người nói, cả bên trong (tức giận) lẫn bên ngoài (ném đá):
     
    "'Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng'. Người Do-thái liền nói: 'Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?' Chúa Giêsu trả lời: 'Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi'".
     
    Lời khẳng định và công khai tuyên bố này của Chúa Kitô về nguồn gốc thần linh của Người, đúng như Người biết mình là Đấng "bởi trời", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này, cũng là Đấng biết mình "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này, nhưng đối với dân Do Thái, Người chỉ là một con người thuần túy như họ đã tỏ ra ngạo mạn hỗn láo, không thể nào chấp nhận được.
     
    "Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi" chẳng những là câu Chúa Kitô đã tỏ nguồn gốc thần linh của Ngài ra, đồng thời cũng là câu Người trả lời cho họ khi họ hạch Người ở đầu Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?". 
     
    Như thế, Người là ai và nguồn gốc thần linh của Người có một liên hệ bất khả phân ly, Người là ai chính ở nơi nguồn ngốc thần linh của Người, và nguồn gốc thần linh của Ngài đã chứng tỏ cho thấy Người là ai. Cũng trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người là ai có liên hệ mật thiết với nguồn gốc thần linh của Người, một nguồn gốc thần linh cho dù tổ phụ Abraham xưa kia cũng không bằng Người hay như Người. Tại sao? Nếu không phải tại vì: 
     
    "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài. Nếu Ta nói Ta không biết Ngài, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài, và Ta giữ lời Ngài. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
     
    Đúng vậy, nguồn gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do Thái bấy giờ cho Người là "bị quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở chỗ Người biết Thiên Chúa: "Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài". Kiến thức thần linh siêu việt này không phải là người ai cũng có, thậm chí tổ phụ Abraham cũng chẳng có, mà chỉ được mạc khải cho biết mà thôi. Thế nên, Chúa Kitô đã nói về vị tổ phụ này rằng: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
     
    Nghĩa là, Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh được Thiên Chúa tỏ ra trong suốt giòng lịch sử cứu dộ của dân Do Thái, bắt đầu từ tổ phụ Abraham, chính là đối tượng chính yếu duy nhất của tất cả những gì tổ phụ Abraham tin tưởng hay hướng về, qua hình ảnh của lòng mong đợi "được thấy ngày của Ta", và chính nhờ đức tin mà quả thực "Ông đã thấy và đã vui mừng" cho dù Chúa Kitô là giòng dõi của ông chưa sinh ra. 


    "Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây, vì có liên quan đến nguồn gốc thần linh của Chúa Kitô, Đấng có trước tổ phụ Abraham và vai trên của Abraham, nên có thể hiểu về vị thượng tế Melchizedek là vị thượng tế đã có một nguồn gốc hoàn toàn siêu phàm bí mật, đóng vai chúc lành cho Abraham và được Anbraham dâng chiến lợi phẩm của mình cho (xem Do Thái 7:1-10, nhất là câu 3:) "Không cha không mẹ hay tổ tiên gì hết, như Con Thiên Chúa, ông muôn đời là tư tế", và Con Thiên Chúa, trong thân phận làm người, được Thiên Chúa chứng nhận: "Con là linh mục đời đời theo giòng Melchizedek" (Do Thái 7:21).

    Ngoài ra, "Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây còn liên quan đến người con được sinh ra theo lời hứa cho ông. Thật vậy, Chúa Kitô đã hiện diện nơi Isaac con ông, người con duy nhất theo lời hứa Thiên Chúa đã ban cho ông khiến ông vui mừng, nhưng Ngài lại muốn ông sát tế nó cho Ngài, để nhờ đó ông vui mừng thấy được người con ông không tiếc cùng Thiên Chúa ấy, như chính Thiên Chúa đã không tiếc Con Một của Ngài (xem Roma 8:32), trở thành mầm mống cho một dân tộc bao gồm vô số muôn dân, đông như sao trời nhiều cát biển, không thể nào đếm được, là thành phần miêu duệ xuất phát từ ông là cha của tất cả những ai tin tưởng, thành phần được cứu chuộc bởi Chúa Kitô, đối tượng đức tin của ông và của giòng dõi như sao trời cát biển này của ông.
     
    Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên, cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã có ý định muốn sử dụng nhân vật Abram là tổ phụ của một giòng dõi bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới, một giòng dõi tin tưởng được Chúa Kitô cứu độ, Đấng xuất thân từ dân tộc Do Thái, như Vị Thiên Sai của họ và là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại. Chính Thiên Chúa đã tự động thiết lập giao ước với nhân vật Abram này bằng những lời lẽ bao gồm và mở đầu cho mạc khải thần linh của Ngài trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho tới khi mạc khải thần linh này lên tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4):
     
    "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
     
    Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời kêu gọi dân Do Thái là "miêu duệ Abrahamđược Thiên Chúa "kén chọn" "hãy luôn tìm kiếm thiên nhan Chúa" là Đấng "muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước... Ngài đã ký cùng Abraham", như Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại, và được chính Chúa Giêsu kín đáo nhắc lại trong Bài Phúc Âm cùng ngày: 
     
    1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.
     
    2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. 
     
    3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. 
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHqPKYej2rAdiXgMXXpUuWOqzQ-m2powVxNPLiNK5EPh8w%