4. Bánh Sự Sống

BÁNH SỰ SỐNG - CN5MC-A- NGUYỄN CH. KẾT

CHIA SẺ TIN MỪNG HÀNG TUẦN

Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay

(29-3-2020)

Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người

ĐỌC LỜI CHÚA

  • Ed 37,12-14:(13) Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. (14) Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm.

 

  • Rm 8,8-11:(11) Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.

 

  • TIN MỪNG: Ga 11,3-7.17.20-27.33b-45

 

Anh Ladarô sống lại


(3) Hai cô Mácta và Maria cho người đến nói với Ðức Giêsu: Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng. (4) Nghe vậy, Ðức Giêsu bảo: Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.

(5) Ðức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô. (6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê!

(17) Khi đến nơi, Ðức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (20) Vừa được tin Ðức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mácta nói với Ðức Giêsu: Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy. (23) Ðức Giêsu nói: Em chị sẽ sống lại! (24) Cô Mácta thưa: Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. (25) Ðức Giêsu liền phán: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. (26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không? (27) Cô Mácta đáp: Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng phải đến thế gian.

(33b) Ðức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: Các người để xác anh ấy ở đâu? Họ trả lời: Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem. (35) Ðức Giêsu liền khóc. (36) Người Dothái mới nói: Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy! (37) Có vài người trong nhóm họ nói: Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư? (38) Ðức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Ðức Giêsu nói: Ðem phiến đá này đi. Cô Mácta là chị người chết liền nói: Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày. (40) Ðức Giêsu bảo: Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Ðức Giêsu ngước mắt lên và nói: Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con. (43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ! (44) Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Ðức Giêsu bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.

(45) Trong số những người Dothái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Ðức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

 

Câu hỏi gợi ý:

  1.  Ðức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại, điều đó chứng tỏ điều gì? Phải là ai mới có thể thực hiện được điều ấy? 2.   Bạn còn nhớ nội dung các bài Tin Mừng Chúa Nhật mùa Chay vừa qua không? Loạt bài Tin Mừng mùa Chay muốn chứng tỏ điều gì về Ðức Giêsu?  3.   Ðức Giêsu xúc động và khóc trước mộ Ladarô cho thấy tình yêu và tình cảm của Ngài thế nào? Ta có cần biểu lộ tình yêu của mình đối với tha nhân một cách cụ thể như thế không?

Suy tư gợi ý:


  1. Ðức Giêsu có khả năng làm cho kẻ chết sống lại

    Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người bệnh nan y được khỏi bệnh thì có khá nhiều người làm được. Nhưng làm cho người đã chết sống lại thì chỉ những người có sứ mạng đặc biệt của Thiên Chúa mới thực hiện được nhờ quyền năng vô biên của Ngài. 

    Trong Cựu Ước ta thấy ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (xem 1Vua 17,17-24), và ngôn sứ Êlisa cũng làm như thế cho đứa con trai của bà Sunêm (xem 2Vua 4,32-37). Trong Tân Ước, ngoài Ðức Giêsu ra, ta thấy có Phêrô cũng đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (xem Cv 9,39-42). Còn Ðức Giêsu, Ngài đã làm cho người chết sống lại ít nhất 3 lần: cho con trai bà góa thành Nain (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại (x. Ga 11,34-45).

    Nơi những trường hợp được hồi sinh vừa kể, việc sống lại ‒hầu tiếp tục sự sống ở trần gian ít lâu nữa để rồi cũng lại chết‒ chỉ là một hình ảnh hay dấu chỉ của sự sống lại vĩnh viễn để sống sự sống đời đời. Sự sống lại để sống đời đời này chính Ðức Giêsu đã thực hiện cho chính mình (x. Mt 28,1-8; Mc 16,1-8; Lc 24,1-7; Ga 20,1-10). Ðó chính là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào sự sống lại của chính chúng ta để hưởng sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, «nếu Ðức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta là vô ích» (1 Cr 15,14), là hoàn toàn vô căn cứ, không dựa trên một nền tảng nào. Và việc phục sinh của Ngài cũng chính là bằng chứng để ta tin Ngài là Con Thiên Chúa, đồng thời cũng là Thiên Chúa. Vì trong lịch sử nhân loại, sống lại để sống vĩnh cửu như thế ‒nghĩa là hiện nay, sau 2000 năm, Ngài vẫn đang sống, và sẽ còn sống mãi‒ thì chỉ có một mình Ðức Giêsu mà thôi.



    2.  Ðức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Ðấng Mêsia, và cũng là con người như chúng ta

    Các bài Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay muốn chứng tỏ Ðức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ngài chính là Ðấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã hứa, mà người Do Thái trông chờ hàng mấy trăm năm.

    Việc Ðức Giêsu chịu cám dỗ (Chúa Nhật thứ 1 mùa Chay) cho thấy Ðức Giêsu là người đích thực, Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối của con người.

    Việc Ðức Giêsu hiển dung (CN 2 mùa Chay) cho thấy thần tính của Ngài, cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa, được chính Chúa Cha giới thiệu.

    Câu chuyện về nước hằng sống với người phụ nữ Samari (CN 3 mùa Chay) cho thấy Ngài có khả năng đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người, và Ngài tự xác nhận mình là đấng Mêsia mà mọi người trông đợi.

    Việc làm sáng mắt người mù từ khi mới sinh (CN 4 mùa Chay) cho thấy quyền năng đặc biệt của Ngài và cách Ngài hành xử theo tình yêu hơn là theo lề luật.

    Quyền năng ấy lại còn đặc biệt hơn nữa với bài tường thuật Ngài làm cho kẻ chết đã 4 ngày sống lại trong bài Tin Mừng hôm nay (CN 5 mùa Chay). Trong bài Tin Mừng này, Ngài còn tự xác nhận mình chính là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời đời (x. Ga 11,25-26).

    Cuối cùng, Chúa Nhật kế tiếp (CN Phục Sinh) thuật lại việc sống lại của chính Ngài sau khi chịu tử nạn làm hy tế đền tội cho nhân loại. Sự sống lại này là dấu chứng vĩ đại và chắc chắn nhất chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Ðấng Mêsia.

    Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh một cách tổng hợp Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người, một con người đúng là con người, hết sức nhân bản. Ngài là Thiên Chúa, vì có khả năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người, vì khi đến nhà người mình yêu thương đã chết, Ngài cũng «thổn thức trong lòng và xao xuyến» (câu 33b), Ngài đã khóc (câu 35) khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Ngài đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đấy đã phải thốt lên: «Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!» (câu 36).

    Như vậy, Ngài không chỉ yêu thương chúng ta bằng thứ tình yêu đầy tính thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, rộng rãi, và triệt để: «Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng» (Ga 13,1b). «Ðến cùng» ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai ‒kể cả Ngài‒ có thể yêu hơn được nữa: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13).



    3.  Hãy yêu thương như Ðức Giêsu đã yêu thương

    Ðức Giêsu đã yêu thương ta và yêu thương mọi người bằng trái tim con người thế nào, Ngài cũng mời gọi ta yêu thương nhau, yêu thương tha nhân y như vậy: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 15,12). Có yêu thương như thế, ta mới chứng tỏ mình theo Ngài: «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,35).

    Tình yêu nhân bản của Ðức Giêsu được biểu lộ ra bên ngoài bằng sự xúc động mãnh liệt như trường hợp đối với Ladarô, nhất là bằng những hy sinh đến chết cho nhân loại. Tình yêu tuy ẩn sâu kín trong lòng con người không ai thấy được, nhưng nếu là tình yêu đích thực thì nó luôn luôn được biểu lộ ra ngoài thành những ánh mắt trìu mến, cử chỉ yêu thương, lời nói dịu dàng, và nhất là bằng sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho người mình yêu. 

    Tình yêu không thể dấu kín. Tình yêu dấu kín trong lòng là tình yêu đáng nghi ngờ. Nếu đức «tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26), thì một cách tương tự, tình yêu không được biểu lộ cụ thể bằng hành động là tình yêu giả hiệu. Chính «Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại» (Tt 3,4), và Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: «Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống» (1Ga 4,9). Vì thế, chúng ta hãy biểu lộ tình yêu của mình đối với mọi người bằng những cử chỉ, lời nói và hành động cụ thể.



    CẦU NGUYỆN


Lạy Cha, Cha đã tỏ tình yêu của Cha một cách cụ thể cho nhân loại qua việc sai Ðức Giêsu là hiện thân của Cha đến thế gian chịu chết để cứu chuộc họ. Ðức Giêsu cũng biểu lộ tình yêu của Ngài một cách rất cụ thể qua việc khóc thương Ladarô, và qua việc hiến mình đến chết cho nhân loại. Xin giúp con cũng biết thật sự yêu thương những người chung quanh con, và biểu lộ tình yêu thương ấy thật cụ thể qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói và hành động. Amen.

 

Nguyễn Chính Kết


Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ/để đọc bài đào sâu: 

(https://chiasethanhuu.blogspot.com/2020/03/chay5b.html). 

----------------------------------------

BÁNH SỰ SỐNG -THỨ SÁU CN4MC-A

  •  
    Tinh Cao
    Thu, Mar 26 at 3:56 PM
     
     

    Thứ Sáu CN4MC-A

     

    THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

    Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22

    "Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".

    Trích sách Khôn Ngoan.

    Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" Chúng nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên cũng chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh dự của những tâm hồn thánh thiện.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23

    Ðáp: Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).

    Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

    2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.

    3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

     

    Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

    Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

     

    Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30

    "Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

    Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.

    Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".

    Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.

    Ðó là lời Chúa.

     

    SỐNG VÀ CHIA SẺ

     

      cho dù Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa,

    dân chúng vẫn không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ

     

    Mùa Chay cho tới hôm nay đã ở vào ngày Thứ Sáu trong Tuần thứ IV, phụng vụ lời Chúa nói chung và Phúc Âm nói riêng cho thấy phản ứng tiêu cực của bóng tối lòng người bị chói lòa trước ánh sáng mạc khải thần linh.
     
    Thật vậy, ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, ở đoạn đầu tiên trong ba đoạn, Thánh ký Gioan đã ghi nhận tình hình căng thẳng đến nghẹt thở giữa bóng tối và ánh sáng như sau: 
     
    "Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo".
     
    Hai bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Năm, và hôm kia, Thứ Tư, Thánh ký Gioan ở cùng đoạn 5 cho chúng ta thấy chứng từ của Chúa Giêsu chứng thực về bản thân Người và nguồn gốc của Người ở giáo đô Giêrusalem. Sau đó, ở đoạn 6 của cùng Phúc Âm, Người về Galilêa và đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để từ đó mạc khải về Người là Bánh Sự Sống. 
     
    Câu đầu tiên mở đầu đoạn 7 của bài Phúc Âm hôm nay là câu chuyển tiếp cho việc Người đang ở Galilêa và lý do Người không muốn xuất hiện ở Giuđêa: "Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người". 
     
    Thật ra, không phải là Người sợ chết cho bằng chưa tới giờ của Người. Nguyên sự kiện Người tạm lánh mặt đi như thế này thôi cũng đủ cho thấy Người quả thực là Đấng Thiên Sai như Người đã nói và làm bao giờ cũng chỉ theo ý Cha là Đấng đã sai Người mà thôi.
     
    Nếu Người không phải là Đấng Thiên Sai đích thực, mà chỉ tìm vinh quang trần thế, như Người cảnh báo dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm qua, chắc chắn Người sẽ làm theo ý của Người, ở chỗ, một khi thấy rằng mình đã được bao nhiêu là người hậu thuẫn, thậm chí muốn tôn Người lên làm vua (xem Gioan 6:15) sau phép lạ Người hóa bánh ra nhiều để nuôi cả năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít, Người sẽ hô hào họ theo Người và cùng Người kéo xuống Giuđea để tiến về Giêrusalem hầu cho cả giáo quyền Do Thái lẫn chính quyền Roma thấy được quyền lực cùng thanh thế hùng mạnh đáng sợ của Người. 
     
    Thế nhưng, vì là chính Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên sai đích thực, mà Thánh ký Gioan đã thuật lại về Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo".
     
    Tuy nhiên, cho dù lên Giêrusalem một cách kín đáo, ở tại giáo đô này, trong khu vực đền thờ, Người vẫn công khai tỏ mình ra bằng chứng từ của Người, không sợ, vì đó là giờ của Người, là lúc và là nơi Cha của Người là Đấng đã sai Người đến, bằng thúc động của Thánh Linh hằng ngự nơi Người và là Đấng luôn tác động mọi lời nói và việc làm của Người theo đúng ý muốn của Cha. Việc công khai xuất hiện của Người tuy làm cho đám đông ngạc nhiên nhưng họ vẫn không chấp nhận Người:
     
    "Có một số người ở Giêrusalem nói: 'Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu'".
     
    Đúng thế, cho dù Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa, dân chúng vẫn không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ, bởi vì, căn cứ vào nguồn gốc trần gian của Người, một tên Giêsu xuất thân từ Nazarét xứ Galilêa: "ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu", nghĩa là ông ta chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai, bởi theo suy luận của họ thì nếu họ biết rõ về thân thế và xuất xứ của Người tất nhiên những gì cần phải xẩy ra đó là Đấng Thiên Sai phải là một nhân vật hoàn toàn bí mật: "khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".
     
    Trước những nhận định của dân chúng không sai về xuất xứ ở trần gian này của Người: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu"; Chúa Giêsu lại tiếp tục tỏ mình ra cho họ một cách chính xác hơn nữa, để nhờ đó họ có thể thấy được tất cả sự thật về Người mà được sự sống, khi Người cho họ biết rằng: "Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta".
     
    Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô chỉ mới đi vòng vòng ở ngoài khi nói đến các việc Người làm được Cha Người trao phó để chứng thực về Người: "công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta", thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã bắt đầu tiến vào vòng trong, khi tuyên bố rõ hơn và mạnh hơn về vai trò Thiên Sai của Người: "Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta".
     
    Ánh sáng càng sáng tỏ càng chói lòa bóng tối và càng xua tan bóng tối, tuy nhiên, thành phần "chuộng tối tăm hơn ánh sáng... sợ bị phơi bày ra ánh sáng" (Gioan 3:19-20), sợ chính ánh sáng, nên chỉ muốn tìm hết cách để dập tắt ánh sáng. Thánh ký Gioan đã cho thấy phản ứng của dân chúng trước mạc khải thần linh tràn đầy sự thật càng ngày càng rạng ngời hơn về Chúa Giêsu như sau: "Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người". 
     
    Hành động và phản ứng đầy tính chất tối tăm của dân Do Thái trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước mạc khải thần linh của Chúa Kitô về bản thân Người, là những hành động và phản ứng theo tâm lý tự nhiên của con người ở mọi thời đại, như đã được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay vạch trần cho thấy tất cả những âm mưu gian ác của họ như sau: 
     
    "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!" 
     
    Tuy nhiên, lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử cứu độ của dân Do Thái nói riêng đã cho thấy, như nơi trường hợp Giuse bị 10 người anh thay vì sát hại đã bán Giuse sang Ai Cập để phá hủy mộng mị của đứa em Giuse đáng ghét của họ không ngờ lại làm trọn những gì bị họ cho mà mộng mị ấy (xem Khởi Nguyên 37:20; 50:19-20), vì họ chỉ là loài người thiển cận, như cóc ngồi đáy giếng, đúng như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết: "nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa".
     
    Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những nhận thức hoàn toàn phản lại với tâm tưởng đen tối của thành phần gian ác trong Bài Đọc 1 cùng ngày, những nhận thức hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng làm chủ mọi sự và quan phòng mọi sự theo ý định vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Ngài:
     
    1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. 
     
    2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. 
     
    3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. 
     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    MC.IV-6.mp3  

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHquYCav8oRGFE%2BS%3DvWdZ_bA%3DUr5kXSc0w454EhoPNenoA%40mail.g
     
     

BÁNH SỰ SỐNG-CN4MC-A -NOI NGUYEN

  •  
    Jerome Nguyen Van Noi
    Thu, Mar 19 at 8:57 PM
     
     

    BÁNH SỰ SỐNG: PHÚC ÂM GIOAN 9, 1-41

    ----oooOooo----

    CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM A (22/03/2020)

     

    CHÚA GIÊ-SU KHAI SÁNG NGƯỜI MÙ

    "Chúa Giê-su liền nói:

    "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian

    hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy,

    và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù"

     

    I. DẨN VÀO LỜI CHÚA

    Là người công giáo, chúng ta đều biết là mỗi câu truyện Thánh Kinh là một  mạc khải của Thiên Chúa, của Chúa Giê-su vì Thiên Chúa mạc khải cho loài người không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động, bằng nhân vật, bằng câu truyện. Nếu câu truyện Chúa Giê-su xin người phụ nữ Sa-ma-ri một ngụm nước bên bờ giếng Gia-cóp thuộc thành Sy-kar (Ga 4,5-42) là một câu truyện nhiều ý nghĩa thì câu truyện Chúa Giê-su chữa lành mắt cho người mù từ lúc mới sinh trong hành lang đền thờ Giê-ru-sa-lem (Ga 9,1-41) còn nhiều ý nghĩa hơn nữa.

    Chúng ta sẽ không uổng công nếu dành thời gian cho việc đọc và tìm hiểu bài Phúc âm Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm A hôm nay.

    II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 9,1-41: Khi ấy, Chúa Giê-su đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giê-su đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Đấng đã sai Ta. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian". Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ê mà rửa" (chữ Si-lô-ê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.

    Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn!" Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây". Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?" Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giê-su đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Si-lô-ê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy". Họ lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết".

    Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giê-su hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sab-bat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sab-bat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một tiên tri".

    Nhưng người Do-thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng: "Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy". Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".

    Lúc ấy người Do-thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi". Anh ta trả lời: "Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy". Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Mô-sê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến". Anh đáp: "Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.

    Chúa Giê-su hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giê-su đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giê-su liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù". Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giê-su đáp: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói 'Chúng tôi xem thấy', nên tội các ngươi vẫn còn".


    III. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 9,1-41:

    3.1 Chúa Giê-su là Đấng chữa lành, là Đấng khai sáng thể lý và tâm linh cho anh mù từ lúc mới sinh: Chúa Giê-su chủ động chữa lành cho anh mù từ lúc mới sinh: đó là nét độc đáo đầu tiên của câu truyện.

    Chúa Giê-su phản bác quan niệm sai lệch của các môn đệ gắn liền tình trạng mù với tội lỗi, đó là điều đặc biết thứ hai mà Chúa Giê-su làm.

    Nhưng công việc chính mà Chúa Giê-su làm cho anh chàng mù từ lúc mới sinh là làm cho anh nhìn thấy cảnh vật và con người xung quanh. Đó là chữa lành thể lý (sáng mắt thể lý).

    Hơn nữa Chúa Giê-su còn làm cho anh mù từ lúc mới sinh tin nhận Người là Đấng Mê-si-a, là Con Thiên Chúa. Đó là chữa lành tâm linh (sáng mắt tâm linh).

    Anh chàng mù từ lúc mới sinh sau khi được chữa lành (thể lý và tâm linh) đã trở thành người cao rao công việc và quyền năng của Chúa Giê-su, một cách dũng cảm không sợ sệt trước sự thù nghịch và hăm dọa của những người Do-thái có thế lực trong Đền Thờ (tức trong tôn giáo và xã hội Do-thái lúc bấy giờ).

    3.2 Những người Do-thái có thế lưc trong Đền Thờ cho mình là sáng nhưng thật là mù: Nếu Chúa Giê-su chữa lành anh chàng mù từ lúc mới sinh ở một nơi nào khác không phải là trong khuôn viên Đền Thờ và vào một ngày khác không phải là ngày sa-bát thì có lẽ câu truyện sẽ không có phần phản ứng của những người Do-thái có thế lực trong Đền Thờ. Chính những con người này cho chúng ta thấy một mặt khác hay dúug hơn một hạng người khác của xã hội, của cộng đồng Do-thái lúc bây giờ. Đó là có những người quyền thế cho mình là sáng nhưng thực ra là mủ vì không nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa được gửi đến cho họ Ngài đã làm những phép lạ tỏ tường ngay bên cạnh họ.

     

    IV. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 9,1-41:

    4.1 Chúng ta hãy đến với Chúa Giê-su: Chúa Giê-su luôn chờ đợi mỗi người  chúng ta ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó để gặp gỡ và trò truyện. Nếu chúng ta đang mù lòa không nhìn thấy thì Người sẽ mở mắt cho chúng ta, cả mắt thể lý, cả mắt tâm linh. Chắc chắn là như thế!

    4.2 Chúng ta đừng để mình mù: Có nhiều thứ làm chúng ta mù nên chúng ta phải hết sức cảnh giác đừng để cho mình mù. Mù thể lý đã khổ. Nhưng mù tâm linh còn khổ hơn nhiều. Thành kiến, cố chấp, u-mê, lười biếng không chịu học hỏi (Giáo lý, Thánh Kinh....) đều khiến chúng ta thành những người có mắt cũng như mù.

      

    V. LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN [VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 9,1-41:

    KHAI MỞ:  

    Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ Cha vì Chúa Giê-su, Con Cha, đã dậy cho chúng con biết Người là Đấng Khai Sáng cho con người, cả về mặt thể lý, cả vế mặt tâm linh. Chúng con cảm tạ Cha và xin dâng lên Cha lời cầu xin tha thiết của chúng con.  

     

    Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN:

    1.- «Khi ấy, Chúa Giê-su đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giê-su đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho mọi người biết ăn nàn sám hối về tội lỗi của mình và của người khác để được Thiên Chúa giải thóat khỏi dịch cúm virus corona đang hoành hành khắp các nước.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    2.-«Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Đấng đã sai Ta. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và cho các Tu Sĩ Nam Nữ để các thành phần ấy của Dân Chúa tích cực chu toàn trách nhiệm được giao để cứu vớt  nhân lọai tội lỗi và u mê.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    3.-«Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác để mọi người được Chúa Giê-su mở mắt thể lý và tâm linh cho họ được nhìn thấy cảnh vật con người và tìm ra ý nghĩa cuộc sống.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

    4.- «Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói 'Chúng tôi xem thấy', nên tội các ngươi vẫn còn» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người đang bị thành kiến, chức quyền, danh vọng và địa vị xã hội làm mờ hai con mắt trước những tội lỗi họ đã phạm mà ăn năn sám hối và thay đổi cách sống.

    Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con! 

     

    LỜI KẾT:

    Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Con Cha là Chúa Giê-su Ki-tô đã chỉ dậy cho chúng con biết Người là Đấng chữa lành con mắt thể lý và tâm linh để chúng con chạy đến cầu cứu Người khi chúng con bị mù lòa. Chúng con xin hết lòng cảm tạ Cha và sẽ vâng nghe lời dậy của Con Cha.

    Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con.

     

    Sài-gòn ngày 20 tháng 03 năm 2020

    Giêrônimô Nguyễn Văn Nội  

     

     

     

    --
    Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "SLCHN".
    Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    Để xem cuộc thảo luận này trên web, hãy truy cập https://groups.google.com/d/msgid/slchn/CAMfwAgrUPqWuO-fXbHvsc4XNpxbP4Z-siV2uUGaR6_mYxRA4Fg%40mail.gmail.com.
     

BÁNH SỰ SỐNG - THỨ HAI CN4MC-A

  •  
    Hong Nguyen <This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.>
    Bcc:This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
     
    Sun, Mar 22 at 2:43 PM
     
     

    BỮA TIỆC LỜI CHÚA - THỨ HAI NHẬT IV MC A

    NGÀY 23-03-2020


    Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Gio-an (Ga 4:  43-54)

    43 Sau hai ngày, Đức Giê-su bỏ nơi đó đi Ga-li-lê.44 Chính Người đã quả quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình.45 Khi Người đến Ga-li-lê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã được chứng kiến tất cả những gì Người làm tại Giê-ru-sa-lem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ.46 Vậy Đức Giê-su trở lại Ca-na miền Ga-li-lê, là nơi Người đã làm cho nước hoá thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh tại Ca-phác-na-um.47 Khi nghe tin Đức Giê-su từ Giu-đê đến Ga-li-lê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết.48 Đức Giê-su nói với ông: "Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu! "49 Viên sĩ quan nói: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất! "50 Đức Giê-su bảo: "Ông cứ về đi, con ông sống." Ông tin vào lời Đức Giê-su nói với mình, và ra về.51 Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi.52 Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: "Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt."53 Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó, Đức Giê-su đã nói với mình: "Con ông sống", nên ông và cả nhà đều tin.54 Đó là dấu lạ thứ hai Đức Giê-su đã làm, khi Người từ miền Giu-đê đến miền Ga-li-lê.

     
    SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI  CHÚA

       Sự giới hạn thuộc về bản tính của con người. Thật vậy, con người luôn cảm nghiệm sự bất lực của mình trước cuộc sống. Sự giới hạn đó thường đưa con người đến chỗ thất vọng và sống thoi thóp.
    Sứ điệp Tin Mừng hôm nay giúp cho chúng ta gặp một con người đang rơi vào tình trạng sợ hãi và thất vọng. Chính tình trạng này đã thúc đẩy ông lên đường tìm gặp Đức Kitô để van xin một sự giúp cứu giúp.
    Đó như ánh lửa le lói thắp lên chút hy vọng hầu thoát khỏi những cơn khốn cùng - mà có thể là bệnh tật - hay nỗi sợ hãi về cái chết, về sự bấp bênh của nghề nghiệp, của công ăn việc làm hay là những khủng hoảng của đời sống gia đình, nỗi sợ hãi về những thất bại hay sự trống rỗng trong cuộc sống - ánh lửa hy vọng là bước đi đầu tiên đưa tới sự thay đổi đời sống.
    Chính niềm hy vọng thúc đẩy kẻ trong cơn khốn cùng can đảm bước vào con đường dẫn đến gặp Đức Kitô.

    Đức Kitô đặt ra những yêu cầu đối với viên sĩ quan đến nài xin Người sự trợ giúp: Người để cho ông xin đến hai lần, Người không đi cùng ông, Người để ông trở về với chỉ một lời: “con ông đang sống”. Đức tin luôn luôn là một thử thách. Đức tin đòi hỏi một sự tín thác vào Lời.
    Chính vì tin vào lời của Chúa Giêsu mà viên sĩ quan đã lên đường ra về; vì tin vào lời của Chúa mà ông đã được điều ông xin, đức tin đã khiến cho Đức Kitô hành động theo điều ông van xin: “con ông sống”. Ông và cả nhà đều tin.  Kinh nghiệm đức tin luôn là một hiệu ứng dây chuyền, vì đức tin phải được tiếp tục tỏ bày, được sống và được loan truyền. Đức tin phải được lan tỏa đến người khác.

    Chúng ta hãy khởi sự với đức tin – nghĩa là với niềm trông cậy, với lời khẩn cầu, với sự lắng nghe – tuy đức tin này còn non yếu. Hãy khám phá trong cuộc sống của chúng ta dấu vết của Thiên Chúa với sự tín tín thác và cậy trông qua lời của Chúa.
    Hãy tiếp tục trao ban lời này cho người khác, để cùng nhau tiến bước đến gần với Thiên Chúa là Cha yêu thương hằng quan tâm đến những nỗi khốn khó của chúng ta. 

    Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con luôn luôn chạy đến với Chúa trong sự tín thác, cậy trông. Dù chúng con tội lỗi thấp hèn, chúng con KHÔNG ngại ngùng chạy đến với Chúa, vì Chúa là Cha yêu thương.
     
    NHỜ ƠN CHÚA chúng con sự tín thác trọn vẹn vào Lời Chúa nói với chúng con qua Tin Mừng, qua giáo huấn của Giáo Hội. Amen.

    GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
    KÍnh chuyển:
    Hồng
     

BÁNH SỰ SỐNG - THỨ SÁU CN3MC-A

  •  
    Hong Nguyen
     
    Thu, Mar 19 at 5:00 PM
     
     


    THỨ SÁU SAU CHÚA NHẬT III MÙA CHAY A
          CÙNG THAM DỰ TIỆC LỜI CHÚA

    NGÀY 20-03-2020



    Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Mác-cô (Mc 12: 28-34)

    28 Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu? "29 Đức Giê-su trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.31 Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó."32 Ông kinh sư nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác.33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ."34 Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu! " Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.

     
    TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT LỜI CHÚA

    “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi... Yêu mến người thân cận... Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”.

    Câu trả lời của Chúa Giêsu dành cho vị kinh sư thật ra đã có trong lề luật của người Do Thái. Điều mới mẻ trong giáo huấn của Chúa Giêsu chính là: Chúa Giêsu đã liên kết chặt chẽ lòng yêu mến Thiên Chúa và tình thương đối với tha nhân. Giới răn yêu thương này trở nên điều cốt lõi không thể thiếu trong đời sống của người môn đệ Đức Kitô.

    Là người Kitô hữu, chúng ta cần phải xác định rõ ràng đâu là giá trị đã định hình và chi phối đời sống của mình! Mến Chúa yêu người có phải là kim chỉ nam cho mọi hoạt động đời sống của chúng ta! Thật ra, chúng ta yêu mến Thiên Chúa vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước và ban cho chúng ta khả năng để yêu thương. Vì thế, cách duy nhất để thăng tiến trong tình yêu là cảm nhận, phản chiếu sự thiện hảo và tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày. Chính tình yêu và lòng thương xót của Chúa sẽ thúc đẩy chúng ta trở nên những nhân chứng của tình yêu. Ở một khía cạnh khác, tình yêu dành cho tha nhân lại là dấu chỉ minh chứng cho việc chúng ta muốn đáp đền tình yêu Chúa dành cho chúng ta, vì không ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình bao giờ. 

    Trong giờ cầu nguyện này chúng ta, một lần nữa, hãy cảm nhận và cùng dâng lời tạ ơn Chúa vì tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng xin ơn biến đổi để mỗi ngày trở nên khí cụ mang tình yêu Chúa đến cho mọi người.

    Lạy Chúa Giêsu chí ái, Chúa chính là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa mỗi ngày, để cuộc sống và sự hiện hữu của chúng con cũng mang lại yêu thương, bình an đến cho anh chị em chung quanh mình. Amen.


     

    GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

    Kính chuyển:
    Hồng