2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

CẢM NGHIỆM SỐNG- CHA BRIAN - EASTER

  •  
    Mo Nguyen
     
    Sun, Apr 12 at 3:20 AM
     
     

     

    hinh.jpg

     

    EASTER LIGHT AND JOY, HOPE AND CHALLENGE  

                             

                               EASTER LIGHT AND JOY, HOPE AND CHALLENGE

     

    When the Easter Vigil starts it tends to be totally dark, except for the light coming from the fire burning at the entrance to the church. One year a little girl grasped her mother’s hand tightly, looked up and said: ‘Mummy, why is it so dark?’ Her mother thought for a while and then she answered: ‘To remind us what the world would have been like if Jesus had not been raised from the dead.’

     

    Just two days ago you and I were remembering the sufferings and death of Jesus our Saviour. As we looked at his crucified body with sorrow, love and gratitude, we came face to face with the dark side of human nature that led his enemies to torture and humiliate him before killing him on the rough wood of a cross. On that black day in Jerusalem, the capacity of human beings to hate, hurt and harm one another went completely out of control.

     

    Good Friday found us wondering over and over again: Why was this good man, this innocent man, this man with so much humanity and compassion, so much honesty and integrity, so much warmth and generosity, violated, humiliated, tortured and murdered?

     

    The motives which led his enemies to persecute and destroy him are those which have always influenced human beings to hurt and harm one another - arrogance and pride, power-seeking and ambition, envy and jealousy, anger and fear, hatred and revenge. Good Friday reminded us of the dark side of human nature and of its associated evils - poverty, ignorance, crime, malnutrition, hunger and disease.

     

    Fortunately, however, this is not the whole truth. In fact, it is far from it. For if we experience so much evil, we also experience an abundance of goodness. The crops keep producing food for our tables. The summer heat gives way to cooling autumn breezes. Most diseases are now curable. Tyrants are sometimes overthrown. Social reforms like pensions for the needy are here to stay. Conflicts end in reconciliation. Shaky marriages get patched up. Love survives misunderstandings, thoughtlessness, and indifference. Wars come to an end. Enemies become friends. We forgive others and are forgiven. In a word, there is goodness everywhere, more goodness than evil. Clearly the influence of the Risen Christ, which is to say the light of Easter, keeps shining upon us.

    Yet there can be no doubt that one mighty struggle goes on between good and evil. It goes on in the material universe, in human societies, and within our own personalities. Evil even seems stronger than good. But it has not yet finally triumphed. Good is remarkably resilient. Though too often it seems to be in danger of being crushed, it manages to survive, and even to win many victories. The words of Mahatma Gandhi, Father of Independent India, are so true: 'When I despair, I remember that all through history the way of truth and love has always won. There have been tyrants and murderers, and for a time they can seem invincible, but, in the end, they always fall.' Words from our Easter Vigil Service express the same truth in an even more appealing way: 'The power of this holy [Easter] night dispels all evil, washes guilt away, restores lost innocence, brings mourners joy. It casts out hatred, brings us peace, and humbles earthly pride.'

     

    Our celebration of the resurrection of Jesus reminds us that evil will not have the last say ether in us or in our world. It leaves us in no doubt about the ultimate triumph of goodness, not only in ourselves but everywhere around us.

     

    Jesus was buried at sunset, to all appearances a victim and a failure. But on the third day the sun came up on him alive and powerful, influential and victorious. It will be the same for us who celebrate Easter above all by renouncing and rejecting anything and everything dark and evil in our lives, and by renewing our determination to always walk with Jesus in his light. That’s why we are renewing our baptismal promises today, and renewing them with conviction, commitment, and enthusiasm.

     

    Remember! We are turning our backs on evil and sin in every shape and form, and we are promising to keep following Jesus in a life of goodness and love, one shaped by his own shining example, and one sustained by his powerful presence and influence.

     

    So, we ask ourselves:

     

    Do you reject sin, so as to live in the freedom of God’s children?

    Do you reject the glamour of evil, and refuse to be mastered by sin?

    Do your reject Satan, father of sin and prince of darkness?

     

    Fr Brian Gleeson

     

    Songs for Holy Week and Easter # 16 Jump For Joy:

    https://www.youtube.com/watch?v=pOQdbuBZFaw

     

     

    hat.jpg

     

    Đường Thập Tự Hôm Nay (Bản đầy đủ):

     

    youtube.com/watch?v=Tc95

     

     
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ BẢY TUẦN THÁNH

  •  
    Hong Nguyen
     
    Fri, Apr 10 at 10:34 AM
     
     

    Suy niệm thứ Bảy Tuần Thánh A - Ngôi Mộ Trống

     
    Đức Giêsu đã đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn Ngài trong mộ đá, nhưng rồi sáng ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài nữa.
    SUY NIỆM TIN MỪNG

    THỨ BẢY TUẦN THÁNH - NĂM A

    LỄ VỌNG PHỤC SINH


    NGÔI MỘ TRỐNG




     
    1. Sự kiện ngôi mộ trống

    Đức Giêsu đã đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn Ngài trong mộ đá, nhưng rồi sáng ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài nữa.

    - Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ hỏang hốt kêu lên: người ta đã lấy xác Thầy rồi.

    - Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ, nhưng thấy ngôi mộ đã mở toang. Nhìn vào trong, thấy khăm liệm còn đó, Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan đã thấy và tin.

    Tại sao cả ba, đứng trước cùng một sự kiện, mà kẻ tin, người lại không tin? Đó chính là tâm trạng của mỗi người đối với Chúa Giêsu.

    2.Tâm trạng của Maria Mađalêna và Gioan

    Khi người thân của chúng ta chết, chúng ta thường không muốn chấp nhận sự ra đi của họ. Chúng ta biết rằng họ đã chết, và chúng ta luôn cố gắng tạo ra một mối tương quan nào đó với họ. Một trong những cách thông thường nhất là ra viếng mộ. Ra viếng mộ với hy vọng làm vơi đi nỗi nhớ, nhưng chính việc ra viếng mộ lại càng làm cho chúng ta thương nhớ người chết hơn, bởi vì, chính lúc đứng trước ngôi mộ, lại là lúc, một lần nữa, 
    chúng ta xác nhận rằng: người thân yêu của chúng ta đã chết thật. Nghĩa là giữa chúng ta và họ, không còn mối liên hệ bình thường như những người đang sống. Cũng vậy, ra viếng mộ, Maria cũng muốn cho vơi đi nỗi nhớ, nhớ một người đã chết và Maria chỉ nghĩ đến thi thể của thầy mình, nghĩa là bà đến đó để gặp một xác chết. Với tâm trạng đó, làm sao bà có thể nghĩ đến chuyện Chúa sống lại được.

    Quả thật, đối với Maria Mađalêna, chết là nằm sâu trong lòng đất, chết là khép lại tất cả, 

    chết là chấm dứt tất cả và đàng sau cái chết là một bóng đêm dày đặc. Nhưng đối với Gioan, ngôi mộ đâu có mùi chết chóc, ngôi mộ đâu có hoang vu, ngôi mộ đâu có trống rỗng, nhưng ngôi mộ đã được mở ra và Đức Giêsu đã phục sinh và bước ra khỏi mồ.

    3. Tâm trạng của Phêrô và Gioan

    Còn Phêrô, ông đang sợ hãi. Ông đã chối Thầy mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Giờ đây Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc này là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". 

    Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, làm sao ông có thể nghĩ đến việc Chúa sống lại được.

    Chính vì vậy, Phêrô và Gioan, cả hai vào trong mộ, cả hai đều thấy khăn liệm, nhưng Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan "ông đã thấy và tin". 

    Gioan là người thứ nhất hiểu và tin. Tình yêu đã cho ông đôi mắt để nhìn và hiểu được những dấu chỉ. Quả thực thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu đó đã thể hiện ra bên ngòai, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa trên con đường khổ giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân Thánh Giá đến giây phút cuối cùng. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hòan cảnh có bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ tới Chúa Giêsu, luôn nhớ đến những lời giảng dạy của Thầy và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với tâm tình này Gioan đã nhận ra Chúa sống lại. Ông đã thấy và tin. 

    Chính tâm tình của Gioan nhắc nhở mỗi người chúng ta: nếu muốn thấy Chúa trong cuộc đời, chúng ta phải có một tâm tình yêu mến Chúa thực sự, khi đã yêu mến Chúa thực sự, chúng ta sẽ thấy muôn vàn những dấu chỉ để nhận ra Chúa đã sống lại và đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Amen

    Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
    Kính chuyển:
    Hồng
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ HAI-BA-TƯ TUẦN THÁNH

  • Tinh Cao
  • Ba Ngày Đầu Tuần Thánh
    Từ Thứ Hai đến Thứ Tư 



    Về Người Tôi Tớ Chúa


    Về Người Môn Đệ 
    Phản Thày

    Về Người Môn Đệ 
    Phản Thày --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHrZMpdtL%2BBrZujVHnRwVLAuUb3HdViDZ0t4v3mEmeY26g%40mail.gmail.com.
  • Nhận định riêng: Theo thứ tự của bài đọc 1, từ Thứ Hai tới Thứ Tư Tuần Thánh, thì Người Tôi Tớ Chúa được cho thấy như sau:  Sau nữa là sứ vụ cứu độ của Người Tôi Tớ Chúa: "Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc, để con trở thành ơn cứu độ Ta ban cho đến tận bờ cõi trái đất". Về Người Môn Đệ Phản ThàyTrước hết khởi đầu là lòng tham lam tiền bạc: "Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó". Sau hết là từ tình trạng mù quáng đến hành động gian ác một cách cố chấp hay đến độ bất chấp: "Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: 'Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?' Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người... Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, có phải con chăng?' Chúa đáp: 'Ðúng như con nói'". Nhận định chung:Cho dù sự gian ác, được biểu hiện nơi Người Môn Đệ Phản Thày, có âm mưu bí mật đến đâu chăng nữa và có xấu xa tội ác đến thế nào chăng nữa, vẫn không thể nào phá hủy hay làm lũng đoạn được tất cả những gì vô cùng tốt lành thiện hảo theo dự án thần linh cứu độ của Thiên Chúa, trái lại, Ngài vẫn có thể sử dụng chính những mưu đồ và hành động gian ác của con người để thực hiện dự án cứu độ của Ngài, đúng như Ngài muốn: vào thời điểm Ngài muốn và theo cách thức Ngài muốn.  Đó là lý do, bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan cho Thứ Ba Tuần Thánh đã ghi lại sự kiện liên kết giữa Người Tôi Tớ Chúa và Người Môn Đệ Phản Thày như sau: "khi Giuđa đi rồi" thì "Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: 'Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được', nay Thầy cũng nói với các con như vậy". Như thế, chính Người Môn Đệ Phản Thày cũng không ngoại lệ, cũng không biết việc mình làm, cũng tác hành một cách mù quáng theo lòng tham lam tự nhiên của mình đến độ bất chấp tất cả, nhưng không ngờ trong khi Người Môn Đệ Phản Thày này cứ làm theo ý đồ gian ác của mình thì Người Tôi Tớ Chúa lại càng được dịp để hoàn thành sứ vụ cứu độ của mình: "Khi Giuđa đi rồi... Bây giờ Con Người được vinh hiển". Con người được tự do làm theo những gì mình muốn, dù là gian ác xấu xa nhất, nhưng vẫn chẳng những không thế nào tác hại đến dự án thần linh vô cùng huyền diệu và toàn năng của Ngài mà còn làm cho dự án thần linh ấy được nên trọn nữa, một dự án thần linh cứu tất cả nhân loại, bao gồm cả thành phần theo khách quan như thể phá hoại dự án thần linh của Ngài.Hình ảnh về môn đệ Giuđa phản nộp Thày mình trong ba bài Phúc Âm đầu Tuần Thánh, từ Thứ Hai đến Thứ Tư, chưa kể ở cả bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần Thánh, ngay đầu bài, vẫn còn nhắc đến người môn đệ đáng thương này: "Sau nữa ăn tối, ma quỉ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người", đã chứng thực những gì Người khẳng định với chung dân chúng, bao gồm cả thành phần lãnh đạo Do Thái giáo bấy giờ, lời Người nhắc lại với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly ở cuối bài Phúc Âm Thứ Tư Tuần Thánh: "Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: 'Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được', nay Thầy cũng nói với các con như vậy".Trong 3 bài Phúc Âm đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội lại cố ý chọn đọc những bài Phúc Âm liên quan đến chính nội bộ môn đệ Chúa Kitô, một nội bộ cũng bị khủng hoảng kinh hoàng trước mầu nhiệm của Người, từ chân lên đầu. Từ chân đây là từ môn đệ Giuđa Íchca (có tên được liệt kê cuối cùng trong danh sách tông đồ) và lên tới đầu đây là môn đệ Phêrô (bao giờ cũng đứng đầu trong danh sách 12 tông đồ ở bộ Phúc Âm Nhất Lãm).Còn cái "đầu" Phêrô cho dù có không bỏ Thày mà đi, trái lại, còn cố gắng bám sát theo Thày "xa xa" (Bài Phúc Âm Chúa Nhật trong Lễ Lá), cuối cùng cũng vẫn "chối bỏ" Thày, một tác động hoàn toàn ngược lại với chính ý thức đức tin trong đầu não của ngài: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), một vấp phạm vô cùng nặng nề đúng như Chúa Giêsu đã cảnh báo ngài trong Bài Phúc Âm Thứ Tư Tuần Thánh: "Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần".Vậy sự kiện Chúa Giêsu rửa chân vào Chiều Tối Thứ Năm Tuần Thánh cho các tông đồ nói chung, nhất là cho riêng Giuđa Íchca là cái chân của tông đồ đoàn (bởi tên Giuđa bao giờ cũng ở cuối danh sách 12 tông đồ), là một cử chỉ cho thấy "Người yêu thương những kẻ thuộc về mình (yêu đến cả người môn đệ Giuđa ở cuối danh sách 12 tông đồ, dù người môn đệ này có giơ gót chân đạp lại Người) thì yêu thương họ đến cùng (đến con chiên lạc duy nhất trong đàn chiên Người cần phải tìm kiếm cho bằng được mới thôi)" (Gioan 13:1; Luca 15:4).Nguyên hành vi Người rửa chân chung cho các tông đồ chứ không phải chỉ rửa cho riêng môn đệ Giuda Íchca đã chứng tỏ Người muốn cho toàn thể Nhiệm Thể Giáo Hội của Người, từ chân đến đầu, đều phải thanh sạch, để nhờ đó Giáo Hội Nhiệm Thể của Người mới xứng đáng "dự phần với Thày" (Gioan 13:8), và vì thế, việc Người rửa chân trong Bữa Tiệc Ly Chiều Tối Thứ Năm Tuần Thánh đây ám chỉ việc "Con tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19), bằng cuộc khổ nạn và tử giá của Người trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, "để làm cho Giáo Hội nên thánh hảo" (Epheso 5:26).Thánh thi (Giờ Kinh Phụng Vụ sáng và tối trong suốt Tuần Thánh - bản dịch theo Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)Cờ Vua Cả tung bay phất phớiAi ngờ chính Ðấng Hóa CôngNgười chịu đóng đinh vào khổ giáMáu đào cùng nước chảy tuônCây tô điểm đôi cành rực rỡLựa từ gốc rễ thanh caoPhúc thay giá chuộc đời treo sẵnThân hình Chúa Tể quyền oaiÔi tế phẩm tế đàn cao sángChúa Trời hằng sống dâng mìnhLạy thánh giá, người người hy vọngTôi trung, phúc đức tăng phầnXin tán tụng Ba Ngôi một ChúaNhờ ơn thập giá đỡ nâng 
    TuanThanh-3.mp3
  • TuanThanh-2.mp3
  • TuanThanh-4.mp3
  • Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên
  • Ðoàn con khải thắng hát mừng thiên thu. 
  • Chính là nguồn cứu độ trào dâng,
  • Khoan hồng tha thứ tội nhân quy hồi. 
  • Trong mùa này, mở rộng thiên ân:
  • Chết đi để phúc trường sinh cho đời. 
  • Ðã chung phần khổ nạn quang vinh,
  • Cứu người dương thế khỏi tay tử thần. 
  • Trên cành ngươi trĩu nặng giờ đây,
  • Xứng cho Thánh Thể tựa vào thân ngươi! 
  • Thấm máu Vua thắm đỏ cẩm bào,
  • Rửa ta sạch hết ngàn muôn tội tình. 
  • Mũi giáo đâm thấu cả cạnh sườn,
  • Thân treo thập giá lạ lùng xiết bao! 
  • Thánh giá Người chói lọi oai phong,
  •  
  •  
  • Cho dù chỉ có cái chân của tông đồ đoàn là tông đồ Giuđa Íchca là bẩn mới cần rửa, như Thánh ký Gioan đã chú thích trong Bài Phúc Âm Rửa Chân chiều Thứ Năm Tuần Thánh: "Người nào đã tắm thì không cần rửa nữa (trừ cái chân của họ); họ đã hoàn toàn sạch sẽ như các con đây, nhưng không phải là tất cả các con. (Lý do Người nói rằng 'Không phải tất cả cần rửa sạch' vì Người biết kẻ phản bội Người)" (Gioan 13:10-11).
  • Cái "chân" Giuđa đã "đi" phản nộp Thày mình, và kể cả cái đầu Phêrô cũng chối bỏ Người, mà vì thế đã ứng nghiệm lời Thánh Vịnh (41:9): "Ngay cả bạn hữu thân tình của tôi, người tôi tín cẩn, cùng ăn bánh của tôi đã giơ gót đạp tôi" , một lời Thánh Vịnh đã được chính Chúa Giêsu lập lại sau khi rửa chân cho các môn đệ của Người (Gioan 13:18)!
  • Cái chân "Giuđa" thì bỏ Thày mà "đi" theo đối phương để điều đình phản nộp Thày, như bài Phúc Âm Thứ Ba và Thứ Tư cho thấy: "sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..."  (Thứ Ba); "Trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: 'Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?' Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người" (Thứ Tư).
  • Trong các bài Phúc Âm suốt hai tuần lễ liền trước Tuần Thánh, Tuần IV và V Mùa Chay, của Thánh ký Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho các ngày thường trong tuần, Chúa Giêsu càng chứng thực về mình, đầu tiên bằng chứng từ bởi Cha, bởi Tiền Hô Gioan và bởi Mạc Khải Thánh Kinh (Tuần IV), sau đó bằng chính bản thân Người (Tuần V), như ánh sáng càng trở nên rạng ngời thì càng khiến dân chúng và thành phần lãnh đạo tôn giáo của họ càng bị chói mắt đến mù quáng, tới độ họ đã bảo Người bị quỉ ám và ném đá Người (Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay) và sau cùng tìm cách bắt Người (Phúc Âm Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay).
  • Chi tiết "Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn... Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..." , cũng trong Bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần Thánh, cho chúng ta thấy một khi chúng ta đã phạm tội trọng, như Giuđa có ý định bán Thày mình (dù mới ở trong tư tưởng), mà còn rước lễ thì chỉ thêm tẩu hỏa nhập ma: "Satan nhập vào hắn", và bị Satan chiếm đoạt và sai khiến làm tất cả những gì xấu xa, đen tối và gian ác nhất theo ý của hắn: "Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..."
  • Nếu "Con Người được vinh hiển" trong Bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần Thánh đây là Người chịu khổ nạn và tử giá để tỏ tất cả sự thật về Cha là Đấng đã sai Người ra, nhờ đó con người nhận biết bản tính là tình yêu vô cùng bất tận của Cha, thì giây phút khổ nạn và tử giá của Con Người Giêsu Kitô được bắt đầu từ ngay giây phút "khi Giuđa đi rồi", tức giây phút được Thánh ký Gioan liên kết với "đêm tối": "Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối". Có nghĩa là chính lúc đêm tối và trong đêm tối mà Thiên Chúa "ánh sáng thực" (Gioan 1:9) của Ngài ra là Con của Ngài để xua tan bóng tối tội lỗi và chết chóc của con người và cho con người.
  • Đúng vậy, "nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được" đây nghĩa là gì, nếu không phải họ không thể nào hiểu được, không chấp nhận được. Vì nơi đó chính là Thánh Giá. Nếu các người Do Thái nói chung và thành phần Đầu Mục Do Thái nói riêng chẳng những không đến được, không hiểu được, không chấp nhận được mà còn vì thế mà chết trong tội lỗi của họ nữa, còn vì Người mà vấp phạm nữa (xem Gioan 8:21), thì chính các môn đệ của Người cũng vậy, cũng chẳng những không đến được, không hiểu được, không chấp nhận được, mà còn vì Người mà vấp phạm nữa, điển hình nhất là vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô, như Người đã báo trước cho người môn đệ này ở cuối bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần Thánh. 
  • Trong việc cứu chuộc nhân loại, không phải bóng tối sự dữ thắng thế mà là "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12): "Ánh sáng chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5). Ở chỗ, như Chúa Kitô đã khẳng định: "Cha Tôi yêu tôi vì điều này, đó là Tôi bỏ mạng sống mình để rồi lấy nó lại. Không ai lấy được mạng sống của Tôi. Tôi tự nguyện bỏ nó đi. Tôi có quyền bỏ nó đi và có quyền lấy nó lại. Tôi được lệnh này từ Cha Tôi" (Gioan 10:17-18). 
  • Căn cứ vào Phụng vụ Lời Chúa của 3 Ngày đầu Tuần Thánh, từ Thứ Hai đến Thứ Tư, chúng ta thấy Giáo Hội cố ý nêu lên hai hình ảnh hoàn toàn tương phản nhau giữa Người Tôi Tớ Chúa và Người Môn Đệ Phản Thày, để chẳng những từ từ, nhất là qua các bài Phúc Âm, dẫn đến cuộc khổ giá và phục sinh của Chúa Kitô vào Tam Nhật Vượt Qua từ chiều Thứ Năm đến nửa đêm Thứ Bảy, mà còn cho thấy tất cả những gì về Người Tôi Tớ Chúa trong sách Tiên Tri Isaia đều được hoàn toàn ứng nghiệm, nhất là liên quan đến cuộc khổ giá của Người, một ứng nghiệm lại có liên quan đến Người Môn Đệ Phản Thày: "Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!
  •  
  • Sau nữa là từ lòng tham lam đến độ trở nên mù quáng: "Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: 'Con tính làm gì thì làm mau đi'... Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..." 
  • Theo thứ tự của bài Phúc Âm, từ Thứ Hai tới Thứ Tư Tuần Thánh, thì Người Môn Đệ Phản Thày được cho thấy như sau:  
  • Sau hết là số phận thảm thương để hoàn thành sứ vụ cứu độ của Người Tôi Tớ Chúa: "Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi" 
  • Trước hết là thái độ vô cùng nhân hậu của Người Tôi Tớ Chúa: "Người sẽ không lớn tiếng, không thiên vị ai, không ai nghe tiếng người ở công trường. Người không bẻ gy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói".  
  • Về Người Tôi Tớ Chúa

  • (Mathêu 26, 14-25): "Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: 'Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?' Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người... Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: 'Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy'. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: 'Thưa Thầy, có phải con không?' Người trả lời: 'Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!' Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, có phải con chăng?' Chúa đáp: 'Ðúng như con nói'".
  • (Gioan 12:1-11): "Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: 'Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?' Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó". Về Người Tôi Tớ Chúa Về Người Môn Đệ Phản Thày Thứ Tư (Isaia 50:4-9a): "Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che mặt giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Ðấng xét tôi vô tội ở gần tôi, ai còn tranh tụng với tôi được, chúng ta hầu toà. Ai là kẻ thù địch của tôi, hãy đến đây! Này đây Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?"
  • Về Người Tôi Tớ Chúa 
  • (Gioan 13, 21-33. 36-38): "Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: 'Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy'. Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: 'Hỏi xem Thầy nói về ai đó'. Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: 'Thưa Thầy, ai vậy?' Chúa Giêsu trả lời: 'Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó'. Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: 'Con tính làm gì thì làm mau đi'. Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối..." 
  • (Isaia 49:1-6): "Chúa phán: 'Người là Ðấng đã tác tạo tôi thành tôi tớ Người, khi tôi còn trong lòng mẹ, để đem Giacóp về cho Người, và quy tụ Israel chung quanh Người. Tôi được vinh hiển trước mặt Chúa, và Thiên Chúa là sức mạnh tôi. Người đã phán: 'Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc, để con trở thành ơn cứu độ Ta ban cho đến tận bờ cõi trái đất'". 
  • Thứ Ba 
  • (Isaia 42:1-7): "Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người. Người sẽ xét xử chư dân. Người sẽ không lớn tiếng, không thiên vị ai, không ai nghe tiếng người ở công trường. Người không bẻ gãy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. ... Ta là Chúa, Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân, để con mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm".
  • Thứ Hai 


  • Phụng vụ Lời Chúa cho 3 ngày trước Tam Nhật Thánh dường như có một liên hệ với nhau một cách liên tục bất khả phân ly. Thật vậy, ở bài đọc một, được trích từ Sách Tiên Tri Isaia, cả 3 ngày, đều nói về Người Tôi Tớ Chúa, và ở bài Phúc Âm, cả 3 ngày, luôn nhắc đến người môn đệ phản nộp Thày là Giuđa Íchca.

  • To:tinh cao

CẢM NGHIỆM SỐNG - CHA BRIAN THỨ NĂM TUẦN THÁNH

  •  
    Mo Nguyen
    Wed, Apr 8 at 3:35 PM
     
     

                                    

     

    anh.jpg

                                          SELF-GIVING ON HOLY THURSDAY

    In a nursing home not long ago, the residents were gathered in the chapel to celebrate Holy Thursday. One old lady, wheel-chair bound, was wearing two hats. A carer from the home tried to take one off, but the woman clung on tightly to her two hats. The carer saw that in her efforts to tidy up the situation she was now defeated. So she backed off, and let the old lady be herself.

    Perhaps, like the old-time prophets, that old lady was acting out a message to the gathered group. Perhaps she was saying: ‘You all should wear two hats, that of your own unique self with your own particular personality – as Kevin, Karen, Mark, Maria, Brian, Margaret, Luke, Jenny, Linda, Brendan, Diane, Luke, Laurelle, George, Damian, Zoena, Reg, Liz, Danny, whoever - but also who you are as your Christian self, which is to say, as another Christ.'

    Holy Thursday is the start of our grateful remembrance of the Passover of Jesus Christ, our Leader, which is to say his passing through suffering and death to joy and glory with God. On this special day we remember three important events for our lives as followers of Jesus: - the origin of the Eucharist; the beginnings of the priesthood; and the commandment of Jesus our Leader, ‘love one another as I have loved you’.

    In the 400s in North Africa, St Augustine, speaking of Holy Communion, said many wise and wonderful things about who we are as members, cells, and limbs of the body of Christ. Among them he said: ‘You are what you have received.’  In fact, the signs in which we receive Christ are those of eating and drinking.  In the course of digestion, the bread and wine become one with us. They are assimilated into our bodies. So much so that a billboard in Sydney once carried this message: ‘What we eat and drink today walks and talks tomorrow.’ But since the bread and wine of the Eucharist become more than just bread and wine, actually Jesus Christ himself within them, and giving himself as food and drink for our journey of life, in Holy Communion we become more and more one with him.

    But with this gift of Jesus Christ to us, there’s a big difference. He is not changed into us, into our bodies. No, we are changed into him! We are assimilated into his body, and into that extension of his body, the body of Christians in the world today, the body which is his Church. This makes Holy Communion a package deal. We cannot have him alone, all to ourselves. He comes to us with all others who belong to him.

    Profound implications follow for living our communion, our being joined and bonded to both Christ and one another. These could hardly be better put than in these striking words attributed to St Teresa of Avila:

    ‘Christ has no body now but yours,

    no hands, no feet on earth but yours.

    Yours are the eyes through which he looks with compassion on this world.

    Yours are the feet with which he walks to do good.

    Christ has no body now on earth but yours.

    Yours are the hands, with which he blesses all the world.

    Yours are the hands. Yours are the feet. Yours are the eyes.

    You are his body.

    Yes, Christ has no body now on earth but yours.’

    At the Last Supper, in a stunning way, Jesus acted out his care and concern for, his bonding and union with his first followers. He got down on his knees like a slave, went round the group, and washed the feet of each of the Twelve, the traitor Judas Iscariot included.

    It's interesting that in his gospel of the Last Supper John the evangelist does not mention the action of Jesus with the bread and wine. Instead he tells us of that other action of Jesus with a basin of water and a towel. In this way John is telling us the meaning of both actions of Jesus. It’s about belonging to one another in the same community of Christ, the community we know and experience as Church. It’s about bonding and union with one another. It’s about receiving one another as we receive Jesus himself. It’s about humbly and lovingly serving one another. It’s about reaching out, reaching out with warmth, welcome and hospitality to our neighbour.

    And isn’t our neighbour, in the teaching of Jesus, any person who at any time needs me, and needs me now? Isn’t that the message of his powerful parable of the Good Samaritan? And isn’t it truer than it ever was, that our neighbour in particular need right now, is any person in the current corona virus lock-down, who is not only isolated at home, but  is all alone as well?

    Fr Brian Gleeson

     

    “Tantum Ergo Sacramentum” - Therefore so great a Sacrament - In Latin and English:

    https://www.youtube.com/watch?v=INljg1sHyhg   

    hat.jpg

     

    ĐÂY NHIỆM TÍCH:

     

    https://www.youtube.com/watch?v=u8TlE7YzrWk

     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - NHIỆT THÀNH CỦA THẬP GIÁ

  •  
    Kristie Phan
    Sat, Apr 4 at 9:55 AM
     
     
     
     
     NHIỆT THÀNH CỦA THẬP GIÁ
     
          Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản.  Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui.  Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt.  Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này?  Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá?  Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển.  Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
     
    Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17).  Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ.  Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12).  Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
     
    Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê.  Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22).  Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ.  Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”.  Sau đó sách Macab�� kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26).  Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
     
    Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc.  Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị.  Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
     
    Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu?  Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không.  Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa.  Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác.”
     
    Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ!  Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò!  Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi.  Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9).  Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo.  Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác.  Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
    Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó.  Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình.  Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
       sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh.  Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa.  Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực.  Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa.  “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo.  Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính.  Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo.  Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
     
    “Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu.”  Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình.  Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.
     
    ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
    Palm Sunday.jpg
     


    --Certified Virus Free by 4SecureMail.com ICSA-Certified Scanner--
    •  
      NHIỆT THÀNH CỦA THẬP GIÁ.docx
      228.2kB