CẢM NGHIỆM SỐNG LC - A REFLECTION 7TH SUNDAY-A
- Details
- Category: 2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa
SEVEN SUNDAY IN ORDINARY TIME – YEAR A
23 FEBRUARY 2020
TAKE TIME TO BE HOLY!
A REFLECTION (Matthew 5: 38 – 48): BE HOLY! The word ‘holy’ can conjure up the image of someone who is always praying and, perhaps, cut off from everyday earthly realities. Today’s readings, however, remind us that holiness is not measured by the calluses on our knees but by our love for others. Most essentially, holiness is God’s gift. We are a holy people because God loves us and dwells among us making us the temple of God.
Take Time to be Holy:
https://www.youtube.com/watch?v=Lexo0rUhBNc
SEVENTH SUNDAY IN ORDINARY TIME – YEAR A
23 February 2020
Nonviolence is our Strength:
bringing justice and power
NONVIOLENCE, THE WAY OF JESUS AND THE ONLY WAY
(Matthew 5: 38 – 48)
We live in a world where pay-back, tit for tat, retaliation, seem an automatic response – from the playground to the halls of government. Contrast the teaching of Jesus in his Sermon on the Mount. Living his teaching, though, is not easy. For one thing, what Jesus seems to say and what he means are not exactly the same.
In response to hatred, hostility, aggression and attack, Jesus seems to be saying not to resist, not to take revenge, and to go even further than people force us to go. In fact, he appears to be asking us to be stupid, passive doormats, that others can walk all over.
While it’s true that Jesus does teach nonviolence, he does not require us to be dumb and silent doormats. What he really means can be seen by looking at his own life. He said: ‘If anyone hits you on the right cheek, offer him your left one too.’ But when he himself was struck on the face on the way to Calvary, he did not literally turn the other cheek but said to his attacker: ‘If what I said was wrong, tell me. If I was right, why did you hit me?’ (Jn 18:23). So, Jesus was asking his attacker to justify his behaviour. Indirectly he was challenging his aggressor to change his ways.
For Jesus, tensions between people are to be resolved through open and honest dialogue, so that what may start as a misunderstanding or disagreement doesn’t develop into insults, grudges, hatred, rage, hitting or bashing. If, in fact, we let ourselves become hateful we burn up more energy than with any other emotion. Hate can become so demanding and consuming that it can take us over and leave us bitter and twisted - real train wrecks. Surely, we need to save our strength for better things!
Nelson Mandela spent over twenty-seven years in South African prisons. When he was finally released, he had every reason to feel bitter, and to come out bristling for revenge on those who had unjustly deprived him of his freedom. Instead he came out smiling, and seeking reconciliation with the leaders of the regime that had put him in prison. He thus became the foundation stone of a new South Africa. In his autobiography, Long Walk to Freedom (1994), Mandela tells us:
I knew that people expected me to harbour anger against whites. But I had none. In prison, my anger towards whites decreased, but my hatred for the system grew. I wanted South Africa to see that I loved even my enemies while I hated the system that turned us against one another. I saw my mission as one of preaching reconciliation, of healing the old wounds and building a new South Africa.
Jesus dares to put the challenge to each one of us: ‘love your enemies’. He is talking about someone close – someone in my family, my community, my work-place, my neighbourhood, who is making life difficult for me. Who are the people we try to avoid, the ones we don’t want to talk to, the ones who make us frightened or angry, the ones we find it hard to forgive, and the ones we feel like hating and hitting, for what they have done to us?
But hate poisons the heart and destroys relationships. It does nothing to build a better world. When Jesus says ‘love your enemies’ it is not only for their sake but for ours as well. It stops us stooping to the same base level and preserves our dignity and self-respect.
But returning love for hatred is one of the most difficult things we can do. Only God can help us love like God loves. God is the Father of all, and loves all human beings without any exceptions. Jesus reminds us that God lets his sun shine on bad and good people alike, and lets his rain fall on both those who do good and those who do evil. It’s a matter, then, of ‘like parent, like child’, and a matter of loving with the great and generous heart of Jesus, who returned good for evil.
This is the way to become whole and complete persons, persons of maturity and integrity. Isn’t that what Jesus means when he says: ‘You must be perfect – just as your Father in heaven is perfect’?
Fr Brian Gleeson
One Way Jesus By Hillsong:
https://www.youtube.com/watch?v=pWem1xprUMc
NONVIOLENCE, THE WAY OF JESUS AND THE ONLY WAY
Con Đường Chúa Đã Đi Qua - Lệ Hằng:
https://www.youtube.com/watch?v=9SnifsxN0Yc
17/02/20 THỨ HAI TUẦN 6 TN
Bảy thánh lập dòng Tôi Tớ Đức Mẹ
Mc 8,11-13
CÙNG THAM DỰ BỮA TIỆC LỜI CHÚA
MC 8, 11-13
HÃY THÔI ĐÒI DẤU LẠ
Họ đòi Chúa một dấu lạ từ trời để thử Người. Chúa Giê-su thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc 8,11-12)
SỐNG VÀ CHIA SẺ: Chúa Giê-su đã phải “thở dài não nuột” vì đám đông đòi Chúa làm một dấu lạ – mà phải là một “dấu lạ từ trời” – không phải để tin Chúa mà là “để thử Người”.
Họ không đón nhận bản thân Chúa Giê-su cũng như cuộc đời và những việc làm của Ngài để tin. Thư gởi tín hữu Do Thái khẳng định: “Đức tin bảo cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Tin Mừng theo thánh Gio-an thuật lại rằng ngài đi vào ngôi mộ trống, thấy khăn liệm xếp gọn ghẽ một nơi, và cho biết “ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Như vậy, đức tin có nền tảng và đem lại cho chúng ta sự sống nhờ dựa vào Danh của Chúa Giê-su, chứ không phải nhờ vào dấu lạ.
Mời Bạn CHIA SẺ: Nhiều nơi, vì muốn thu hút khách hành hương đến viếng, đã nhấn mạnh nơi này phép lạ đã xảy ra, người kia đã chứng kiến phép lạ.
Nghe nơi nào có phép lạ xảy ra, người ta liền tuôn đến. Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta hãy thôi đòi hỏi dấu lạ, thay vào đó hãy sống đức tin dựa vào Lời Chúa và các bí tích trong Giáo Hội.
Đừng để Chúa phải thở dài vì đức tin èo uột dựa vào phép lạ nơi chúng ta, nhưng hãy làm Chúa vui lòng vì đức tin mạnh mẽ đang dựa vào chính Chúa.
Sống Lời Chúa: Tìm thời giờ dành riêng cho Chúa và chăm chỉ đọc Lời Chúa hằng ngày với tâm tình tín thác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa ở trong con, mà con cứ tìm Chúa nơi những dấu lạ này, dấu lạ khác. NHỜ THÁNH THẦN NHẮC BẢO con biết tín thác vào Chúa và nương tựa vào Chúa.
Thứ Năm CN6TN-A
BỮA TIỆC Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 2, 1-9
"Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo đó sao? Thế mà anh em khinh chê người nghèo khó".
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, Anh em là những người tin vào Ðức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn; nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: "Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này". Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: "Còn anh, anh đứng đó", hoặc: "Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi". Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?
Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được thừa hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao? Thế mà anh em khinh chê người nghèo khó. Không phải những người giàu có dùng quyền hành áp bức anh em, và lôi anh em ra toà án đó sao? Không phải chính họ thoá mạ thánh danh tốt đẹp đã được kêu cầu trên anh em sao?
Ðã hẳn, nếu anh em giữ trọn vương đạo như Thánh Kinh dạy, là "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình", thì anh em làm phải. Nhưng nếu anh em thiên vị, là anh em phạm tội, bị lề luật lên án như những kẻ lỗi luật.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 27-33
"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".
Ðó là lời Chúa.
SỐNG VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA
"Thày là Đức Kitô" - "dấu chỉ giao ước ký kết giữa Ta với các ngươi"
Vấn đề chính yếu của Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Năm tuần VI Thường Niên hôm nay là vấn đề nhận biết căn tính của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, một nhận thức vô cùng quan trọng đối với nền tảng đức tin Kitô giáo. Vì nếu nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét không phải "là Đức Kitô", nghĩa là không phải là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái thì Người cũng không phải là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, mà chỉ là một vị giáo tổ thuần nhân như Đức Phật Thích Ca sáng lập Phật giáo hay Nhà Tiên Tri Muhammed sáng lập Hồi giáo, hoặc như Khổng Tử với Khổng giáo hay Lão Tử với Lão giáo thôi.
Chính nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đã sống cả cuộc đời trần gian của mình để chứng thực mình, bằng lời nói, việc làm, nhất là bằng chính biến cố Vượt Qua tột đỉnh của mình, "là Đức Kitô" (Marco 8:29), "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), "đã đến trong thế gian" (Gioan 11:27). Đó là "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) về một con người mang tên Giêsu ở Nazarét, con ông Giuse và bà Maria, một chân lý vô cùng quan trọng liên quan đến thực tại thần linh về nhân vật lịch sử thần linh này: Ngài là ai? Đó là lý do: "Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: 'Người ta bảo Thầy là ai?'"
Đây là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất Chúa Giêsu tự động hỏi, đúng hơn trắc nghiệm thành phần môn đệ được Người tuyển chọn làm tông đổ để trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người xem các vị ý thức về Người ra sao hay tới đâu. Thật vậy, sau một thời gian được sống gần gũi với Người, được tận mắt xem thấy Người cùng các việc Người làm cùng thái độ Người sống, tận tai nghe Người giảng dạy và tận tay được chạm đến Người (xem 1Gioan 1:1-2), chính các tông đồ (chứ không phải "người ta bảo Thày là ai?") đã được Người trắc nghiệm và được các vị trả lời qua vị đại diện tông đồ đoàn là Thánh Phêrô rằng: "Thày là Đức Kitô".
Hình như câu tuyên xưng này của tông đồ Phêrô rất chính xác rồi, nên "Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả", như các tông đồ đã quả thực nhận thức không sai. Đúng thế, việc Chúa Giêsu trắc nghiệm các tông đồ về căn tính chân thực vô cùng quan trọng của Người không phải là để các vị loan báo thực tại thần linh này, loan truyền chân lý cứu độ về Người này, mà là để cho Người tiếp tục tỏ mình ra cho các vị hơn nữa, tỏ cho các vị thấy một mầu nhiệm về Người, một mầu nhiệm vô cùng kinh hoàng mà Người không thể tiết lộ cho các vị biết cho đến sau khi trắc nghiệm các vị, một mầu nhiệm liên quan đến chính căn tính "là Đức Kitô" của Người, những gì vừa được các vị xác tín và chí lý tuyên xưng.
Mầu nhiệm kinh hoàng khủng khiếp đối với thành phần tông đồ theo Người đó là: "Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó". Chính vì là một mầu nhiệm hết sức kinh hoàng khủng khiếp đối với các tông đồ như thế mà các vị chẳng hiểu gì hết, tá hỏa tam tinh lên khi vừa nghe xong, nhất là người tông đồ phải nói là hăng máu nhất là Phêrô, vị đã tỏ ra hoảng hốt tới độ "kéo Người lui ra mà can trách Người".
Không ngờ, vị tông đồ đầy thành tâm thiện chí này và cả các tông đồ khác lại càng bàng hoảng sửng sốt hơn khi chính hành động đầy kính mến của các ngài, qua tông đồ Phêrô, tỏ ra muốn bảo vệ Người, muốn điều tốt nhất cho Người, lại bị Người thậm tệ quở trách như chưa bao giờ thấy: "Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: 'Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người'". Như thể các vị vừa vấp phạm một điều gì dữ dằn quá sức tưởng tượng, đến độ đã trở thành "Satan" trước nhan Người. Nghĩa là các vị đã cám dỗ Người (vì "Satan là tên cám dỗ cả và thế gian" - Khải Huyền 12:9) làm những gì trái ngược với Cha Người là Đấng đã sai Người, một điều quá cấm kỵ đối với Người, Đấng từ trời xuống thế gian không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (xem Gioan 6:38).
Thật ra, xét theo lý lẽ trần gian thì tông đồ Phêrô cũng chẳng sai gì, bởi theo ngài, cũng như bất cứ một người bình thường nào, đã là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai từ Thiên Chúa mà đến thì phải là Đấng có quyền năng vô địch, có thể giải thoát dân của Người khỏi lầm than khốn khó, khỏi cảnh làm nô lệ ngoại bang, như thời các Quan Án xưa sau khi dân vào Đất Hứa và trước thời kỳ quân chủ của dân Do Thái. Đằng này, Đấng Thiên Sai như được ngài tuyên xưng và được Thày công nhận như thế mà lại được chính Thày tiết lộ cho biết rằng chính bản thân Người "sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi" nghĩa là gì, không thể nào chấp nhận được.
Đúng thế, tông đồ Phêrô bị Thày nặng lời khiển trách chỉ "vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người", mà "việc loài người" thì bao giờ cũng tầm thường, thậm chí hầu như lúc nào cũng phản ngược lại với ý muốn tuyệt đối tối cao, khôn ngoan thượng trí và toàn thiện toàn ái của Thiên Chúa, một ý muốn chỉ nhắm đến chỗ cứu độ loài người, tìm hết cách làm sao để loài người có thể được hiệp thông thần linh với Ngài theo đúng dự án thần linh tạo dựng của Ngài.
Thực tế cho thấy Kitô hữu chúng ta, qua Phép Rửa, đã tin vào Chúa Kitô. Thế nhưng, trong đời sống đạo, lại hoàn toàn phản kitô, ngôn hành phản lại chính đức tin của mình, điển hình là trường hợp của Thánh Phêrô trong bài Phúc Âm hôm nay. Bởi thế, để trắc nghiệm xem chúng ta có thực sự tin vào Người hay chưa, hãy coi đức bác ái của chúng ta với tha nhân thì biết, vì đức ái là hoa trái của đức tin, là tột đỉnh của đức tin. Trong ngày chung thẩm, chúng ta sẽ bị Chúa phán xét bề ngoài về đức ái, nhưng bề trong về đức tin, và dê và chiên chỉ khác nhau ở chỗ tỏ lòng bác ái hay không thôi, trong khi cả hai đều nói "chúng tôi có thấy Chúa đâu?" Thánh Giacôbê trong Bài Đọc 1 hôm nay chủ trương đúng như vậy, theo công thức "nếu tin thì đừng" như sau:
"Anh em thân mến, Anh em là những người tin vào Ðức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn; nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: 'Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này'. Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: 'Còn anh, anh đứng đó', hoặc: 'Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi'. Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?... Nếu anh em thiên vị, là anh em phạm tội, bị lề luật lên án như những kẻ lỗi luật".
Tâm tình của những ai tin vào Chúa và sống đức bác ái yêu thương được phản ảnh qua Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên
Chúa Giêsu và người điếc.
14/02 – Thứ Sáu tuần 5 thường niên. – Thánh Syrilô, đan sĩ và thánh Mêtôđiô, giám mục. Lễ nhớ.
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
* Hai anh em Contantinô và Mêtôđiô được thượng phụ giáo chủ Contantinôpôli phái sang Mô-ra-vi-a để loan báo Tin Mừng. Năm 868, hai vị đi Rôma để trình bày với đức giáo hoàng những việc các vị làm, Contantinô qua đời tại đó dưới tên trong đan viện là Syrilô (năm 869).
Còn Mêtôđiô được phong làm tổng giám mục Xiamium, đi loan báo Tin Mừng cho người Xi-la-vô-ni-a (+ năm 885). --------- Ngày 31 tháng 12 năm 1980, đức giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố hai thánh Syrilô và Mêtôđiô là bổn mạng châu Âu cùng với thánh Biển Đức.
THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa: Mc 7, 31-37
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.
Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng. Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.
Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
SỐNG VÀ CHIA SẺ: Nói được rõ ràng
Suy niệm :1
Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật,
ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù,
hơn các em bị câm điếc.
Thật khó làm cho các em câm điếc hiểu được chúng ta,
và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả.
Ðôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Ðức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.
Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày,
khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu.
Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc.
Ðức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh,
và sợi dây đó được tháo cởi.
Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.
Nói sao để người khác hiểu được mình,
đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta.
Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình
khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh...
Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm
vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn:
kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ...
Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại.
Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Epphatha, xin hãy mở miệng con
để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình,
hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ.
Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi,
thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai.
Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình
mà máy đột nhiên mất tiếng.
Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai,
nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này,
nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác.
Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe,
hay lắm khi nghe điều người khác nói
nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.
Nghe bằng tai, không đủ.
Cần lắng nghe bằng cả trái tim.
Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ,
hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Epphatha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi,
ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc,
để nghe được cái tôi của anh em.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại,
vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần.
Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo,
chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận,
để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.
Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em,
đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
để đem cơm cho người đói đang chờ,
và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng,
thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
đem tự do cho những kiếp đọa đày.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm,
đem an hòa cho những ai bất thuận,
đem thanh bình cho kẻ sống âu lo,
đem ủi an cho người đang sầu khổ,
đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
đem vận may cho người gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ,
đem may mắn cho những ai gặp được,
giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ,
cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ:
giữa biển đời mang con tim núi lửa
với đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả
cho mọi người được hạnh phúc yên vui ;
còn phần con xin gởi hết nơi Ngài
là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng
để tin yêu và vui sống trọn đời. Amen. (NCĐ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Hãy mở ra
Michel-Angelo là một trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ vào và thốt lên: "Hãy nói đi".
Quả thật, lời nói là một trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời, là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống cùng và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong thế giới này cần phải được xác nhận bằng tiếng nói của chúng ta. Những người câm điếc một phần nào bị hạn chế trong sự liên lạc với thế giới xung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Nhưng đáng thương hơn, có lẽ là những người thấp cổ bé miệng, những người mà tiếng nói không được nhìn nhận, những người bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền sống của họ gần như bị khước từ.
Sống xứng với phẩm giá con người, đó là phải được có tiếng nói. Có lẽ đó cũng là điều mà Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể cũng muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống và cái chết của Ngài. Phép lạ chữa người câm điếc như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không chỉ là một chữa lành bệnh tật thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi nó biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Ephrata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa; để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Hằng Sống của Chúa, chính Ngài là lương thực mang lại sự sống đích thực cho chúng ta. Xin cho sự sống ấy tràn ngập tâm hồn chúng ta để chúng ta lớn lên trong tình yêu Chúa và không ngừng yêu thương, liên đới, chia sẻ với mọi người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Với một chút nước miếng
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh ta. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. (Mc. 7, 32-33)
Các thánh sử thích những phép lạ chữa lành những người câm và điếc; ta đếm được ít nhất sáu câu chuyện được kể lại tỉ mỉ và Chúa Giêsu thì coi những phép lạ ấy như những dấu chỉ về Đấng Thiên sai đã được các ngôn sứ loan báo. Dầu sao đó cũng là những phép lạ nhỏ khi so sánh với những phép lạ về phục sinh và hóa bánh ra nhiều.
Maccô dùng lại chủ đề của Cựu ước vốn coi tật câm, điếc và sự thiếu lòng tin như có liên hệ với nhau. Ta thấy nhiều lần Chúa Giêsu than phiền về điều người ta có tai mà không nghe. Việc mở tai và tháo cởi cho lưỡi như thế không chỉ đơn thuần là việc chữa khỏi, mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn, nếu không các thánh sử đã chẳng gán cho một tầm quan trọng như thế trong các sách Phúc âm.
Trình thuật của Maccô hình như bắt nguồn từ nghi thức đầu tiên trong nghi lễ thọ giáo trong đó có việc đặt tay lên mặt, mũi, tai. Theo quan niệm của Kinh thánh, nước miếng được coi như hơi thở đã đông đặc lại nên có đặc tính ám chỉ ơn ban của Thần Khí thực hiện ơn tái tạo trong con người. Tác giả còn giữ tiếng “Eppheta” vì trong phụng vụ phép rửa lúc buổi đầu người ta đã giữ lại lời này.
Nên nhớ rằng ông Mô-sê có tật nói ngọng và Thiên Chúa đã chữa ông khỏi tật và nói: “Giờ đây, ngươi hãy ra đi, Ta ở với môi miệng ngươi và sẽ dạy cho ngươi biết phải nói gì” (Xh. 4, 10-12). Ngôn sứ I-sai-a kể lại việc Chúa kêu gọi ông như sau: “Một trong những thiên thần Xê-ra-phim bay đến với tôi, tay cầm một cục than hồng… cham vào miệng tôi và nói: khi cục than hồng này đã chạm tới môi ngươi, thì lỗi của ngươi được cất khỏi” (Is. 6,6). Giê-rê-mi-a trỏ thành ngôn sứ khi “Thiên Chúa giơ tay ra chạm vào miệng tôi và nói: đây Ta đặt lời Ta trong miệng ngươi.”
Người ta dùng những lối nói như trên để ám chỉ rằng người ngôn sứ không thể tự mình nói Lời-Cứu-độ được, rằng ông phải loan truyền điều ông nhận được từ AI đó.
Nếu Chúa không mở tai tôi, không tháo cởi cho lưỡi tôi, tôi sẽ không biết nghe, lại càng không biết loan báo Lời Chúa. Khi tôi trưởng thành, người ta đưa tôi đi chịu phép rửa tội, lúc ấy vú bõ tôi như đưa đến một người điếc và không có thể nói được; người ta đã xin linh mục nhân danh Chúa đặt tay trên người ấy.Phép lạ chữa người điếc và câm đã được lặp lại và một ngôn sứ khác đã gia nhập Giáo hội vậy.
Suy Niệm 4: HÃY BIẾT NHẠY BÉN VỚI NHỮNG DẤU CHỈ (Mc 7, 31- 37)
Ngày nay, người ta nói nhiều về sự vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của con người. Họ đưa ra rất nhiều lý do để giải thích cho sự dửng dưng và vô cảm đang trở thành phổ quát trong xã hội hôm nay.
Nguyên nhân mấu chốt, căn bản có lẽ chính là thiếu sự nhạy bén!
Thật vậy, nếu người ta có một chút nhạy bén thì hẳn họ đã không hờ hững khi thấy một người phải đói lả trong khi mình lại quá dư thừa; hay thiếu trách nhiệm khi xả rác cách bừa bãi trong khi hằng đêm vẫn có những người phải thức trắng để dọn dẹp đường phố; hoặc vô tâm đến mất nhân tính khi cướp đi từng gói mỳ tôm, từng nắm gạo của những người vô gia cư, nghèo khổ, đói khát đang thoi thóp mong chờ chút lương thực cho ấm lòng...! Tệ hơn nữa, đó là nhiều khi chúng ta lại phủi tay đến lạnh lùng trước tấm lòng của những người làm việc tốt, để rồi tung ra những lời nói không thật gây nên một sự hoang mang làm cho người ta bị khổ tâm!
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu ra tay cứu chữa cho một người điếc và nói ngọng được nghe và nói rõ ràng. Đây là niềm vui mừng của người bị bệnh và cũng là niềm vui của những người đã dẫn anh ta đến gặp Đức Giêsu.
Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc lui lại các chương trước thì chúng ta sẽ thấy rõ giữa Đức Giêsu và những người Pharisêu luôn có sự đối kháng, và họ luôn cho rằng: Đức Giêsu lấy quyền của tướng Quỷ mà trừ Quỷ. Như vậy, họ không hề có chút nhạy bén với điều thiện, mà ngược lại, họ luôn lạnh lùng, vô cảm và vô tâm trước những nghĩa cử tốt lành của Đức Giêsu.
Lối sống và cái nhìn của những người Pharisêu khi xưa có thể cũng chính là quan điểm và lựa chọn của chúng ta! Nhiều khi vì thành kiến cá nhân, mà chúng ta không thể thấy được điều tốt nơi anh chị em mình. Lòng ích kỷ nơi bản thân nó đã làm cho lương tâm bị che khuất, sự thật bị bóp méo, vì thế, hậu quả chính là sự chia rẽ, bất công và không thể nhận ra chân lý.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tâm tình như đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là luôn biết ca ngợi và chúc tụng những điều tốt đẹp Chúa đã làm chung quanh và cho bản thân chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP