2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ TƯ CN5TN-A

 

  •  
    Tinh Cao

    Feb 11 at 3:09 PM
     
     

    Thứ Tư CN5TN-A

     

     

    THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

     

     

    Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 10, 1-10

    "Nữ hoàng Saba đã nhìn thấy mọi sự khôn ngoan của vua Salomon".

    Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

    Trong những ngày ấy, nữ hoàng Saba nghe biết Salomon nổi tiếng vì danh Chúa, bà đến hỏi thử ông nhiều câu đố. Bà đến Giêrusalem với đoàn tuỳ tùng đông đảo và nhiều của cải, gồm có lạc đà chở thuốc thơm, vô số vàng và đá ngọc quý báu. Bà yết kiến Salomon và bày tỏ cùng vua mọi nỗi niềm tâm sự. Salomon giải đáp mọi vấn nạn bà nêu ra, và không một lời bí ẩn nào mà không được vua giải đáp.

    Nữ hoàng Saba nhìn thấy sự khôn ngoan của Salomon, thấy nhà ngài xây cất, món ăn ngài dùng, nhà của quần thần, trật tự của các công thần và y phục của họ, các quan chước tửu, và các của lễ toàn thiêu mà ngài hiến dâng trong đền thờ Chúa, thì bà hết hồn. Bà thưa cùng vua rằng: "Thật đúng như lời tôi nghe đồn trong xứ tôi về các công trình và sự khôn ngoan của ngài. Và lúc đó tôi không tin những điều người ta kể cho tôi, cho tới khi tôi đến đây, chính mắt tôi đã trông thấy, và tôi quả quyết rằng những điều đồn đại tôi nghe chưa bằng một phân nửa. Sự khôn ngoan và các công trình của ngài còn vĩ đại hơn tiếng đồn tôi đã nghe. Phúc cho thần dân của ngài, và phúc cho các cận vệ của ngài, luôn luôn được ở trước mặt ngài và nghe lời khôn ngoan của ngài. Chúc tụng Thiên Chúa của ngài là Ðấng yêu thương ngài, và đặt ngài lên ngôi báu Israel. Vì Chúa yêu quý Israel muôn đời, nên đã đặt ngài làm vua, để ngài cai trị công minh chính trực". Vậy bà tặng vua một trăm hai mươi nén vàng, một số rất lớn thuốc thơm và đá ngọc quý giá. Người ta không khi nào thấy một số thuốc thơm nhiều hơn thuốc thơm mà nữ hoàng Saba tặng cho vua Salomon. Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 36, 5-6. 30-31. 39-40

    Ðáp: Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan (c. 30a).

    Xướng: 1) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động. Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ. - Ðáp.

    2) Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan, và lưỡi người nói điều đoan chánh. Luật Thiên Chúa ở trong lòng người, và bước chân người không xiêu té. - Ðáp.

    3) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. - Ðáp.

     

    Alleluia: Ga. 15, 15b

    Alleluia, alleluia - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.- Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mc 7,14-23

    "Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế"

    Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

    Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".

    Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.

    Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra".

    Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.

    Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.

    Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".

    Ðó là Lời Chúa.

     

     

     

    CẢM NGHIỆM SỐNG VÀ CHIA SẺ Lời Chúa

      

    Bài Phúc Âm cho Thứ Tư tuần 5 Thường Niên Hậu Giáng Sinh hôm nay liên quan đến bản thân của con người ta và những gì làm cho con người ra nhơ bẩn. Theo Lời Chúa Giêsu phán dạy cho các tông đồ ở bài Phúc Âm hôm nay thì "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế". 

    Nếu những gì xuất phát từ nội tâm của con người mới làm cho họ ra ô uế xấu xa thì ngược lại những gì từ ngoài vào không thể nào làm cho họ ra ô uế, như chính Chúa Kitô đã khẳng định trong cùng bài Phúc Âm hôm nay: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế". Vì, như Người dẫn giải thêm cho các môn đệ khi ở riêng với các vị: "tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra". Căn cứ vào đó, Thánh ký Marcô đã thêm chi tiết kết luận như sau: "Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch"

    Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những cái ở ngoài vào trong con người không phải chỉ có đồ ăn thức uống, là những gì qua cửa miệng của con người, mà còn bao gồm cả những thứ khác nữa, như hình ảnh qua mắt của con người, hay lời nói qua tai của con người, hoặc xúc giác kích thích qua làn da của con người, 3 giác quan có thể thu thập những cái xấu xa hay gương mù gương xấu từ bên ngoài xã hội vào trong tâm trí bên trong: chẳng hạn những hình ảnh xấu, những lời nói xấu hay những sờ mó xấu. Thế nhưng, vấn đề ở đây là nếu con người chấp nhận những cái xấu từ bên ngoài bất khả tránh trên thế gian này ấy thì chúng mới có tác dụng xấu đến nội tâm của họ. 

    Vấn đề tiếp theo vấn đề trên là con người khó đề phòng và ngăn cản nổi những hình ảnh xấu, những lời nói xấu và những đụng chạm xấu bất ngờ xẩy ra cho mình, dù mình không muốn, để rồi sau đó những chất liệu xấu từ ngoài đó một khi đã lọt qua mắt, qua tai và qua xúc giác của họ, họ bị chúng ám ảnh, bị chúng quấy nhiễu, trở thành như những chước cám dỗ khiến họ khó lòng mà chống trả, thậm chí chúng đã làm cho nội tâm của họ ra xấu bằng những ý nghĩ xấu kèm theo ước muốn xấu, chẳng hạn như ngoại tình trong lòng (xem Mathêu 5:28). 

    Bởi thế, vấn đề khổ chế mới được đặt ra để giải quyết hai vấn đề then chốt trên đây. Nếu chúng ta biết chúng ta không thoát khỏi, dụ chẳng có ý tìm kiếm, hoàn toàn bất ngờ, bị ảnh hưởng và chi phối bởi những thứ xấu xa từ bên ngoài vào, qua thị giác của chúng ta, hay quá thính giác của chúng ta, hoặc qua xúc giác của chúng ta, đến độ làm cho chúng ta bối rối, bất an, thậm chí sa ngã phạm tội... thì buộc chúng ta phải thực hành phương cách bất khả thiếu vô cùng cần thiết đó là khổ chế giác quan. Một khi đã khổ chế giác quan rồi mà vẫn thỉnh thoảng còn bị cái xấu bên ngoài lọt vào bên trong chúng ta vào một lúc nào đó thì nó cũng khó lòng chi phối chúng ta dễ dàng và mạnh mẽ như trước, bởi chúng ta đã cố ý tránh né nó rồi. 

    Chỉ có những tâm hồn Kitô hữu nào thực sự nhận biết mình vô cùng yếu đuối mới chịu khó và cẩn thận thực hành việc khổ chế khó khăn này có vẻ cổ hủ này. Nhờ đó họ có thể giữ tâm hồn trong trắng và mới dễ dàng sống cuộc đời "vô tội", hay cùng lắm chỉ "vô tình" tác hành xấu xa một chút nào đó hay vào một lúc nào đó thôi. Nếu nhờ khổ chế, không tò mò nhìn những gì không thực sự cần thiết, không đọc hay xem những cái chẳng giúp ích mấy cho đời sống thiêng liêng, không nghe những gì khiến bản thân bị phân tâm, không đụng chạm hay để mình bị đụng chạm gây xúc cảm không tốt, cho dù bất lịch sự v.v. mà Kitô hữu có được một đời sống nội tâm và bình an thì phải công nhận họ là một con người khôn ngoan. 

    Sự khôn ngoan của Vua Salomon trong Bài Đọc I hôm nay được nữ hoàng Saba hết lời khen tặng"Thật đúng như lời tôi nghe đồn trong xứ tôi về các công trình và sự khôn ngoan của ngài. Và lúc đó tôi không tin những điều người ta kể cho tôi, cho tới khi tôi đến đây, chính mắt tôi đã trông thấy, và tôi quả quyết rằng những điều đồn đại tôi nghe chưa bằng một phân nửa. Sự khôn ngoan và các công trình của ngài còn vĩ đại hơn tiếng đồn tôi đã nghe. Phúc cho thần dân của ngài, và phúc cho các cận vệ của ngài, luôn luôn được ở trước mặt ngài và nghe lời khôn ngoan của ngài. Chúc tụng Thiên Chúa của ngài là Ðấng yêu thương ngài, và đặt ngài lên ngôi báu Israel. Vì Chúa yêu quý Israel muôn đời, nên đã đặt ngài làm vua, để ngài cai trị công minh chính trực". 

    Tuy nhiên, sự khôn ngoan của vua dầu sao cũng vẫn ở lãnh vực tự nhiên hơn siêu nhiên. Bởi thế mà sau này, cho dù có khôn ngoan trước mặt trần gian đến như thế, có thể nói vô tiền khoáng hậu như vậy, vua vẫn không khôn ngoan trước nhan Thiên Chúa, vẫn không tỏ ra khôn ngoan về đời sống đức tin và thiêng liêng, đến độ, như Bài Đọc I ngày mai cho thấy, vua đã trắng trợn ruồng bỏ chính Đấng đã ban cho vua sự khôn ngoan mà theo các thứ tà thần ngẫu tượng của thành phần thê thiết của vua. Đó là lý do, Bài Đáp Ca hôm nay mới nhấn mạnh đến khía cạnh đạo lý nơi tất cả những gì xuất phát từ "miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan":  

    1) Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, hãy trông cậy vào Người và để chính Người hành động. Người sẽ làm cho chính nghĩa bạn sáng như bình minh, và quyền lợi bạn tỏ như giờ ngọ.

    2) Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan, và lưỡi người nói điều đoan chánh. Luật Thiên Chúa ở trong lòng người, và bước chân người không xiêu té.

    3) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân. Chúa bang trợ và giải thoát họ, Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     

    TN.V-4.mp3  

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHpHGZne3Ew_0PioARL3XR0CSsRpQe9L6pYyj%2B8VgS5E1A%40mail.gmail.com.
     

 

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - CN5TN-A

 

  •  
    Tinh Cao
    Feb 8 at 6:47 AM
     
     

    Chúa Nhật 5TN-A

     

    BỮA TIỆC Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: Is 58, 7-10

    "Sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông".

    Trích sách Tiên tri Isaia.

    Này đây Chúa phán: "Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý của ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang của Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, ngươi gọi, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: "Này Ta đây". Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 111, 4-5. 6-7. 8a và 9

    Ðáp: Trong u tối người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay (c. 4a).

    Hoặc đọc: Alleluia.

    Xướng: 1) Trong u tối, người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phước đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. - Ðáp.

    2) Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

    3) Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

     

    Bài Ðọc II: 1 Cr 2, 1-5

    "Tôi đã công bố cho anh em bằng chứng của Chúa Kitô chịu đóng đinh".

    Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

    Anh em thân mến, phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan; tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa. Thật vậy, tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em, ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Phần tôi, chính trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy mà tôi đã đến với anh em; lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng, để đức tin của anh em không dựa vào sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.

    Ðó là lời Chúa.

     

    Alleluia: Ga 8, 12

    Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là ánh sáng thế gian; ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mt 5, 13-16

    "Các con là sự Sáng thế gian".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn sử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.

    "Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Related image

    TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT LỜI CHÚA

     

     

      

    Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật V Thường Niên Năm A hôm nay tiếp tục ngay sau bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Thường Niên Năm A, một bài Phúc Âm về Các Phúc Đức Trọn Lành được Chúa Giêsu chỉ dạy riêng cho các môn đệ thân tín của Người, để các vị có thể "giảng dạy cho họ tất cả những gì Thày đã truyền dạy các con" (Mathêu 28:20), trước hết bằng đời sống chứng nhân của các vị, như "ánh sáng" chiếu tỏa trên "thế gian" này.  

    Đúng thế, nội dung của những lời Chúa Giêsu tiếp tục dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (5:13-16) đã cho thấy rõ ý hướng của Người, như câu mở đầu của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, tỏ lộ, ở chỗ Người dạy riêng cho các môn đệ nhưng nhắm đến lợi ích chung dân chúng và riêng đoàn chiên của các vị sau này: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...". 

    Đó là lý do Người đã khẳng định với các môn đệ của Người rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời". 

    Chúa Giêsu đã ví các môn đệ của Người như "muối đất" và như "ánh sáng thế gian". Tại sao Người không đề cập đến "ánh sáng thế gian" trước mà là "muối đất" trước. Phải chăng Người có ý nói đến 2 phương diện tối yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly của thành phần môn đệ được Người tuyển chọn, đó là phương diện nội tâm (cần phải có trước) và phương diện làm chứng (thành quả tất yếu đến sau)?  

    Đúng vậy, nếu một người tông đồ mà không có đời sống nội tâm sâu xa mặn mà như "muối đất", trái lại, nội tâm của họ hết sức nông cạn, hời hợt, sống theo tình cảm, đầy ắp kiến thức suông, mang tâm tình tự phụ tự mãn v.v., chẳng kết hợp với Chúa Kitô và theo tác động thần linh của Chúa Thánh Thần, thì làm sao họ có thể có cùng một tâm tưởng của Chúa Kitô, có những lời nói sưởi ấm lòng người như Chúa Kitô, có những tác hành và phản ứng nhân ái yêu thương với Chúa Kitô, và vì thế họ không thể nào làm chứng cho Người theo đúng như ơn gọi và sứ vụ chuyên biệt trổi vượt cao cả của họ như "một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được nữa". 

    Chính vì ý thức được thâm sâu những gì Chúa Giêsu truyền dạy như thế mà Giáo Hội, qua Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), đã khẳng định về căn tính và sứ vụ chính yếu bất khả thiếu của mình là "Ánh Sáng Chư Dân - Lumen Gentium", nhan đề của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, một căn tính và sứ vụ chiếu soi muôn dân, sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô: "Tự bản chất, Giáo Hội lữ hành là truyền giáo" (Công Đồng Chung Vaticanô II - Sắc Lệnh 'Ad Gentes - Cho Chư Dân' về Việc Truyền Giáo của Giáo Hội - đoạn 2).

    "Các con là ánh sáng" trở thành căn tính chính yếu và sứ vụ bất khả thiếu của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay chỉ có thể trở thành hiện thực nơi từng vị tông đồ nói riêng và nơi thành phần môn đệ của Người nói chung nếu trước hết và trên hết họ không trở thành "muối đất". Đó là lý do Chúa Giêsu đã, theo thứ tự giáo huấn của Người, bảo các vị "là muối đất" trước khi "là ánh sáng thế gian". Nghĩa là, nếu "ánh sáng thế gian" ám chỉ sứ vụ làm chứng và truyền giáo của các vị, của Giáo Hội trước thế giới, thì "muối đất" ám chỉ đời sống nội tâm và bỏ mình khổ chế của các vị, nhất là việc các vị cần phải hy sinh đến bồi cho thế gian. Bởi vậy, nếu các vị không có một đời sống nội tâm như "muối đất" như thế làm sao các vị có thể trở thành "ánh sáng thế gian", hay ngược lại, làm cho thế gian càng ung thối hơn bởi gương mù gương xấu của các vị, như thành phần "phản kitô".

    Chính vì chiều hướng "muối đất" và "ánh sáng thế gian" liên quan đến phần rỗi của nhân gian, đến đức ái trọn hảo như thế mà Bài Đọc 1 hôm nay cũng đã cho thấy ý nghĩa sâu xa của "ánh sáng" cần phải chiếu tỏa nhờ đức bác ái của những ai sống công chính như sau:

    "Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý của ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang của Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi.... Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".

    Bài Đáp Ca hôm nay cũng theo chiều hướng "ánh sáng" yêu thương của Bài Đọc 1 như sau: "Trong u tối, người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phước đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình" (câu 1), và "Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang" (câu 2).

    "Các con là ánh sáng thế gian", như Chúa Kitô khẳng định về căn tính của thành phần môn đệ tông đồ của Người, đã được thực sự thể hiện rạng ngời nơi một vị tông đồ được chính Người sai đi như "Ta sẽ làm cho con trở thành ánh sáng chư dân để mang ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất"  (Tông Vụ 13:47), đó là vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một vị tông đồ đã sống ơn gọi và sứ vụ là "ánh sáng chư dân" của mình như chính ngài tỏ lộ ở Bài Đọc 2 hôm nay như sau:

    "Anh em thân mến, phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan; tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa. Thật vậy, tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em, ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Phần tôi, chính trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy mà tôi đã đến với anh em; lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng, để đức tin của anh em không dựa vào sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa".

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     

    TN.CNV-A.mp3  

     

 

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ SÁU CN4TN-A

 

  •  
    Tinh Cao
    Feb 6 at 3:02 PM
     
     

    Thứ Sáu CN4TN-A

     

    THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: (Năm II): Hc 47, 2-11

    "Ðavít đã thành tâm ca tụng và yêu mến Thiên Chúa".

    Trích sách Huấn Ca.

    Như miếng mỡ lóc ra khỏi thịt con vật tế lễ thế nào, thì Ðavít được chọn giữa con cái Israel như vậy. Người dỡn với sư tử như dỡn với chiên con và đùa với gấu như đùa với những chiên con. Khi còn trẻ, nào người đã chẳng hạ sát tên khổng lồ và rửa nhục cho dân, khi vung dây ném đá đánh ngã tên Goliath kiêu căng đó sao? Vì người đã kêu cầu Thiên Chúa toàn năng, và Chúa đã ban sức mạnh cho người để hạ sát tên chiến sĩ hùng dũng, để nâng cao lòng can đảm của dân người. Nhờ thế, người được tôn vinh như đã giết mười ngàn, được ca tụng vì những lời Chúa chúc lành, và được người ta trao tặng triều thiên vinh quang, vì người đã tiêu diệt quân thù chung quanh, đã thanh toán bọn giặc Philitinh cho đến ngày nay, đã đập tan sức mạnh chúng đến muôn đời. Trong mọi việc, người dùng lời ca khen mà tuyên xưng Ðấng Thánh Tối Cao; người thành tâm ca tụng Chúa, và yêu mến Thiên Chúa đã sáng tạo người, đã cho người quyền năng chống lại quân thù. Người thành lập ca đoàn trước bàn thờ Chúa, để hoà nhịp những bài thánh ca. Người tổ chức những cuộc lễ huy hoàng, quy định đầy đủ chu kỳ thời gian, để họ ca tụng thánh danh Chúa, và từ sáng sớm, họ biểu dương sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chúa đã thứ tha tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của người đến muôn đời. Chúa đã ban cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh quang trong Israel.

    Ðó là lời Chúa. 

    Ðáp Ca: Tv 17, 31. 47 và 50. 51.

    Ðáp: Tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi (c. 47b).

    Xướng: 1) Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời của Chúa được luyện trong lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ Người. - Ðáp.

    2) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi! - Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy Chúa, và con sẽ xướng ca khen ngợi danh Ngài. - Ðáp.

    3) Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời. - Ðáp. 

    Alleluia: Mt 4, 4b

    Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

    Phúc Âm: Mc 6, 14-29

    "Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

    Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại". Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.

    Ðó là lời Chúa. 


     

    TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT  Lời Chúa

     

     

      Đức Kitô Đầu Não   

     

    Ngày Thứ Sáu trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay bài Phúc Âm đã chứng thực chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, với câu đầu tiên như thế này: "Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng".

    Tuy nhiên, đối với chung dân chúng thì sở dĩ "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" trở thành "lừng lẫy danh tiếng" như thế là vì, như Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "kẻ thì nói: 'Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng'; kẻ thì bảo: 'Ðó là Êlia'; kẻ khác lại rằng: 'Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác'". Còn riêng vua Hêrôđê thì khi "nghe vậy (đã) nói: 'Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại'".

    Thật ra, theo nội dung của bài Phúc Âm hôm nay thì "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" không đóng vai chủ động và tự tỏ mình ta như các bài Phúc Âm trước, mà chỉ được nói đến lúc đầu thôi rồi sau đó chỉ liên quan đến những chi tiết về sự kiện vua Hêrôđê sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả vậy thôi. Thế nhưng, chính trọng sự kiện có tính cách tiêu cực như "sự cố" này cũng đã gián tiếp cho thấy Người quả thực là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". 

    Không phải hay sao, chính Hêrôđê đã phải công nhận mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Kitô là nhân vật mà ông ta chưa bao giờ gặp mà lại rất mong muốn được gặp (xem Luca 23:8) với nhân vật đã bị ông bất đắc dĩ phải cắt thủ cấp, chỉ vì đã bị lỡ lời giữa cả một triều thần bá quan văn võ để giữ lấy thể diện của mình, ở chỗ, ông đã đồng hóa hai nhân vật đặc biệt này của ông thành một: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".

    Cái "đầu" của Gioan bị vua Hêrôđê chặt mất đây, trước hết, là biểu hiệu cho "chân lý" đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhân vật vốn được vua "kính nể, (vì vua) biết ngài là người chính trực và thánh thiện", hiên ngang bênh vực cho đến cùng, một "chân lý" về luân lý mà nhà vua đã bất chấp vấp phạm: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình", như thể nhà vua đã "chặt" đi "chân lý" ấy bằng đam mê nhục dục của mình, một "chân lý" được biểu hiệu nơi cái "đầu" về thể lý của nhân vật bất khuất Gioan đã bị nhà vua quả thực chặt đi để thỏa mãn ý muốn gian ác hận thù của nàng Hêrôđia là người vợ bất chính của vua, một người vợ bất chính hèn hạ vốn đã "mưu toan muốn giết ngài, nhưng không thể làm gì được", cho tới khi bất ngờ nắm được cơ hội ngàn vàng trong tay là lúc, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: 

    "Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: 'Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho', và vua thề rằng: 'Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho'. Cô ra hỏi mẹ: 'Con nên xin gì?' Mẹ cô đáp: 'Xin đầu Gioan Tẩy Giả'. Cô liền vội vàng trở vào xin vua: 'Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa'. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ".

    Chưa hết, cái "đầu" của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chặt mất đây còn ám chỉ chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:6) mà ngài chỉ được sai đến trước để dọn đường và để "làm chứng" cho Người (xem Gioan 1:15), Đấng là "ánh sáng chiếu trong tăm tối nhưng tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Đấng đến sau ngài nhưng lại vô cùng cao trọng hơn ngài và có trước ngài, như "đầu" của ngài, như vị thủ lãnh tối cao của ngài, đến độ ngài "không đáng cởi giây giầy cho Người" (xem Gioan 1:15,27), một "vị vua mới sinh" (Mathêu 2:2) ngày xưa đã từng bị vương phụ của Hêrôđê đương kim này bấy giờ tìm sát hại khi sau biến cố tam vị chiêm vương gia đến bái thờ Người ở Bêlem Xứ Giuđa mà không trở về trình báo lại cho vua ấy (xem Mathêu 2:1-18).

    Như thế, sự kiện cái "đầu" của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị quyền lực chính trị đầy vô luân của dân Do Thái thời ấy chặt mất đây, đã trở thành một dấu chỉ đầy bí nhiệm ám chỉ đến cuộc tử nạn của một nhân vật sau này sẽ được một quyền lực chính trị khác, uy thế hơn, là tổng trấn Philatô ở Giuđêa tôn vương là "Vua dân Do Thái" (xem Gioan 19:19; Mathêu 27:37), khi vị thẩm quyền của đế quốc Rôma này, một đàng thì muốn biết "chân lý là gì?" khi tra vấn Chúa Giêsu và đối diện với Chúa Giêsu (Gioan 18:38), một đàng, cũng như Hêrôđê đang làm vua nước bị trị Do Thái bấy giờ đã lấy "đầu" Gioan Tẩy Giả chỉ vì danh dự thế giá của mình trước kia, đành phải ra lệnh đóng đanh một con người mà tự ông biệt được là vô tội và tìm cách thả ra (xem Gioan 19:4,6,10-12).

    Vậy thì sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê sát hại quả thực có liên quan đến cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đấng đến sau ngài, như một dấu báo trước về Đấng mà ngài đã hai lần tuyên bố và công khai giới thiệu: ngày hôm trước với chung dân chúng - "Kìa Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), và ngày hôm sau với riêng các môn đệ của ngài - "Hãy nhìn xem kìa, Con Chiên Thiên Chúa đó" (Gioan 1:36). 

    Như thế, câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại" của một nhà vua bất luân gian ác ấy dầu sao cũng có tính cách tiên tri, như trong câu của vị thượng tế Caipha thời ấy quả thực đã chất chứa tính chất tiên tri và đã thực sự hoàn toàn ứng nghiệm về nhân vật Giêsu Nazarét đã gây chấn động cả Thành Giêrusalem là Giáo Đô Do Thái giáo về sự kiện nhân vật tầm thường này, một nhân vật xuất thân từ Galilêa xa xôi là nơi chẳng có vị tiên tri nào xuất thân (xem Gioan 7:52), chẳng phải là luật sĩ hay thành phần trong hội đồng đầu mục Do Thái, nhưng đã làm cho Lazarô, một tử thi hồi sinh sau 4 ngày đã lên mùi (xem Gioan 11:43-44), rằng "các người chẳng hiểu gì hết, các người không thấy rằng thà một người chết thay cho dân chúng còn hơn là toàn dân bị hủy diệt hay sao?" (Gioan 11:50).

    Thật sự câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại" của vua Hêrôđê, tự nó chất chứa tính chất tiên tri, mà chính người nói không hề hay biết là mình muốn nói gì và lời ấy có ý nghĩa ra sao, không phải chỉ ám cuộc tử nạn của Chúa Kitô là "đầu" tự hiến cho Giáo Hội là thân thể của mình (xem Gioan 17:19; Epheso 5:23,25-27), mà còn ám chỉ những gì vị Tiền Hô Gioan này "làm chứng" về Đấng là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian" đến sau ngài đều đúng, đều ứng nghiệm nơi Chúa Kitô, như thể "Gioan ... nay đã sống lại" nơi Chúa Kitô ở cuộc tử nạn của Người vậy, Đấng "đã được sinh ra, đã đến thế gian là để làm chứng cho chân lý" (Gioan 18:37), như chính vị tiền hô của Người cũng đã được sai đến tuy "không phải là ánh sáng" như Người nhưng cũng đã "làm chứng" cho Người "là ánh sáng đã chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5).

    Nếu vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã được sai đến để dọn đường cho Chúa Kitô bằng cách "làm chứng" về Người và cho Người, thậm chí trước khi được thực sự và trực tiếp gặp Người, chẳng những bằng lời rao giảng thống hối kèm theo việc làm phép rửa thống hối, mà còn bằng chính cái "đầu" bất khuất của mình thế nào, thì vua Đavít trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay, được trích từ Sách Huấn Ca, cũng đã được chọn làm vương tổ của nhân vật Giêsu Nazarét "vua dân Do Thái" (Mathêu 2:2; 27:37) sau này, bằng một cuộc đời vua đã sống bao gồm cả công lênh sự nghiệp lẫn lỗi lầm của vua, nhưng ngài, như Bài Đọc 1 hôm nay nhận định, vẫn được "Chúa đã thứ tha tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của người đến muôn đời. Chúa đã ban cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh quang trong Israel".

    Bài Đáp Ca hôm nay chẳng những nói về vua Đavít mà còn nói về vị thừa kế của vua cũng như về triều đại vô cùng bất tận của vua nơi giòng dõi của vua là Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô:

    1) Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời của Chúa được luyện trong lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ Người. 

    2) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi! - Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy Chúa, và con sẽ xướng ca khen ngợi danh Ngài. 

    3) Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời. 

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    TN.IV-6.mp3  

     

     

     

 

CẢM NGHIỆM SỐNG - A REFLECTION FIFTH SUNDAY-A

  •  
    Mo Nguyen - Feb 7 at 12:51 AM
     
     

                       FIFTH SUNDAY IN ORDINARY TIME – YEAR A

                                          (09 FEBRUARY 2020)

    muối.jpg

     

                        LET YOUR LIGHT SHINE  

     

    A REFLECTION (Matthew 5: 13-16) LET YOUR LIGHT SHINE! We all have our special gifts, but sometimes we fail to recognise this. We may feel that we have little to offer others. That is never true. As Jesus says: ‘You are the salt of the earth! You are the light of the world!’ Let us ask Jesus to help us recognise our unique gifts and share them with others.

     

    Let Your Light Shine - Hillsong Kids with lyrics:

    https://www.youtube.com/watch?v=55IuqX15Acc

     

    sang.jpg

    Là muối là ánh sáng - Lm Thái Nguyên:

    https://www.youtube.com/watch?v=0OuVdi9OYwc

     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ NĂM CN4TN-A

  •  
    Tinh Cao - Feb 4 at 3:19 PM
     
     

    Thứ Tư CN4TN-A

     

    CÙNG THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I (Năm II): 2 Sm 24, 2. 9-17

    "Chính con đã phạm tội, nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì đâu?"

    Trích sách Samuel quyển thứ hai.

    Trong những ngày ấy, vua Ðavít nói với Gioáp tư lệnh quân đội rằng: "Ngươi hãy đi kinh lý khắp các chi tộc Israel, từ Ðan đến Bersabê, và kiểm tra dân chúng, để ta biết dân số".

    Gioáp nạp sổ kiểm tra dân chúng cho vua. Trong dân Israel có tám trăm ngàn dũng sĩ biết xử dụng gươm, còn phía Giuđa có năm trăm ngàn người thiện chiến.

    Sau khi kiểm tra dân số, Ðavít hồi hộp và thưa cùng Chúa rằng: "Con đã phạm tội nặng nề trong việc con đã làm. Nhưng, lạy Chúa, xin xoá tội ác cho tôi tớ Chúa, vì con đã hành động quá dại dột". Sáng hôm sau, khi Ðavít thức dậy, có lời Chúa phán cùng ông Gad, vị tiên tri và thị kiến của Ðavít rằng: "Ngươi hãy đi nói với Ðavít: Ðây Chúa phán: Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy chọn điều nào ngươi muốn, rồi Ta sẽ thi hành". Gad đến cùng Ðavít và tâu rằng: "Hoặc ngài phải chịu bảy năm đói kém trong nước ngài, hoặc trong ba tháng, ngài phải lẩn trốn quân thù tìm bắt bớ ngài, hoặc là trong nước ngài phải chịu dịch tả suốt ba ngày, giờ đây ngài hãy suy nghĩ đắn đo và chịu điều nào đi để tôi thưa lại cùng Ðấng đã sai tôi". Ðavít trả lời cho Gad rằng: "Tôi khổ quá! Nhưng thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất nhân từ".

    Chúa đã giáng cơn dịch tả xuống Israel từ sáng hôm ấy cho đến thời gian đã định. Từ Ðan tới Bersabê, có đến bảy mươi ngàn người đàn ông trong dân phải chết. Ðang lúc thiên thần Chúa giơ tay để tàn phá Giêrusalem, thì Chúa hối tiếc trước sự đau khổ, nên phán bảo thiên thần đang giết phạt dân chúng rằng: "Thôi đủ rồi! Giờ đây hãy dừng tay lại". Bấy giờ thiên thần Chúa đang ở gần sân lúa của Aruna người Giêbusa. Khi thấy thiên thần sát phạt dân chúng, Ðavít thưa cùng Chúa rằng: "Chính con là kẻ đã phạm tội, chính con đã làm điều gian ác; nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì đâu? Vậy xin tay Chúa đè nặng trên con và trên nhà cha con".

    Ðó là lời Chúa. 

    Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 6. 7

    Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c. 5c).

    Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.

    2) Con xưng ra cùng Chúa tội phạm của con, và lỗi lầm của con, con đã không che giấu. Con nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con". - Ðáp.

    3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người này. - Ðáp.

    4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp. 

    Alleluia: Ga 8,12

    Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống. - Alleluia. 

    Phúc Âm: Mc 6,1-6

    "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".

    Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

    Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người.

    Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"

    Và họ vấp phạm vì Người.

    Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình".

    Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin.

    Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

     

    Ðó là Lời Chúa. 


     

    BẠN VÀ TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT Lời Chúa

     

     

       Đức Kitô Nazarét   

     

    Phụng vụ lời Chúa, nhất là Bài Phúc Âm, cho Thứ Tư trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.

    Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại, có nội dung phần nào giống phần đầu của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại và được Giáo Hội sử dụng cho Chúa Nhật IV đầu tuần này. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy ở cùng một địa điểm và cùng một thành phần thính giả: "Chúa Giêsu trở về quê nhà" như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nhưng khác với bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này ở chỗ không có đoạn Chúa Giêsu bị dân làng dẫn ra sườn núi để xô Người xuống cho chết như ở phần cuối của Bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa rồi.

    Tuy nhiên, cả hai bài Phúc Âm cho Chúa Nhật đầu tuần của Thánh ký Luca cũng như cho Thứ Tư hôm nay của Thánh ký Marco đều giống nhau ở phản ứng của dân chúng về Chúa Giêsu Kitô, ở chỗ, một đàng thì họ tỏ ra "sng sốt về giáo lý của Người", đàng khác, trái lại, chính vì họ cảm thấy lạ lùng "sửng sốt" như vậy về Người "nên nói rằng: 'Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?'

    Thái độ ba phải của họ đã được Thánh ký Marco trong Bài Phúc Âm hôm nay kết luận là: "Và họ vấp phạm vì Người". "Vấp phạm" ở chỗ nào? Phải chăng ở chỗ họ đã phạm tội, ở chỗ họ đã tỏ ra uất hận với Người đến độ muốn sát hại Người như trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật đầu tuần?

    Thế nhưng, phản ứng và hành động sát hại Chúa Giêsu Kitô đây chỉ xẩy ra sau khi Người thẳng thắn cho họ biết về tình trạng mù quáng và cứng lòng tin của họ mà thôi, như Bài Phúc Âm Chúa Nhật cho biết, còn ở trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước khi Người cảnh giác họ rằng: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình", thì Thánh ký Marcô đã khẳng định rằng "họ vấp phạm vì Người" rồi.

    Vậy thì phải chăng không tin vào Chúa Kitô là một thái độ hay hành động hoặc trạng thái "vấp phạm". Theo nguyên tắc có thể hiểu như thế. Bởi vì, nếu Chúa Kitô là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người..." (Gioan 1:9) thì một khi Người chưa xuất hiện thì tất cả nhân loại vẫn còn tiếp tục "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), tức là vẫn còn ở trong tình trạng "vấp phạm", cần phải được cứu độ, cần phải được giải cứu cho khỏi tình trạng bất hạnh vô phúc ấy.

    Con người lại càng "vấp phạm" hơn nữa, khi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), nghĩa là khi Thiên Chúa đã "hóa thành nhục thể" nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) cho họ mà họ vẫn "không nhận biết Người" (Gioan 1:10) và vẫn "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11), như trường hợp điển hình là dân làng Nazarét của Người được Thánh ký Marco ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm nay.

    Thật vậy, cho dù con người không phạm một thứ tội nào đó thật sự được liệt kê trong 10 điều răn, nhưng một khi con người không chấp nhận sự thật được tỏ ra cho họ, qua tiếng lương tâm của họ, qua những chứng từ của Giáo Hội, qua những nguyên tắc luân lý bất dịch, qua Giáo Huấn chân thật của Giáo Hội v.v., thì ở một nghĩa nào đó, tự mình, họ đã ở trong tình trạng "vấp phạm" rồi vậy, như chính Chúa Kitô đã khẳng định về họ dưới đây

    "Phán quyết luận phạt là thế này: ánh sáng đã đến trong thế gian nhưng con người lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Hết mọi kẻ làm điều gian ác xấu xa đều ghét ánh sáng, không muốn đến gần ánh sáng bởi sợ các việc làm của mình bị bại lộ" (Gioan 3:19-20).

    Thành phần không chấp nhận sự thật hay từ chối sự thật này sở dĩ là thành phần "vấp phạm" vì họ không muốn hoán cải đời sống, trái lại họ muốn tiếp tục sống trong tội lỗi, cho dù họ thực sự biết mình đang tội lỗi, đang sống một cách giả dối và gian ác, hoàn toàn bất khả chấp. Thậm chí chính bản thân đương sự phạm nhân cũng không thể chịu được, khi họ bị lương tâm cắn rứt hay khi họ bị đau khổ bởi tội lỗi do chính họ gây ra.

    Nếu họ chấp nhận sự thật thì họ phải hoán cải. Mà hoán cải thì mất tự do phạm tội. Bởi thế, họ không ngừng trốn tránh sự thật, không nương tay đàn áp sự thật và sát hại sự thật là chính những gì giải phóng họ (xem Gioan 8:32). Điển hình và thực tế nhất là trường hợp của những con người luôn trấn an lương tâm để cố tình lao đầu theo đam mê nhục dục và tham vọng lợi lộc điên cuồng của mình, bằng mọi giá, bất chấp mọi thiệt hại gây ra cho tha nhân. 

    Với những con người cố tình sống trong tình trạng băng hoại thối nát ấy, như Thiên Chúa không hiện hữu, hay như Thiên Chúa đã chết, như không có đời sau, như chỉ có thiên đường trần thế, như tử thi chết 4 ngày như vậy, cho dù Chúa Giêsu vẫn có thể hồi sinh như Lazarô, nhưng có những trường hợp "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này chỉ còn biết "khóc" (xem Gioan 11:39,35; Luca 19:41) mà thôi. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã kết lại ở chỗ: 

    "Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy". 

    Đúng thế, đa số thành phần dân làng ở Nazarét có "vấp phạm vì Người" chăng nữa, Người đã chẳng những không chán nản hay thất vọng, trái lại, càng vì thế Người càng phải nỗ lực rao giảng hơn nữa, ở chỗ: "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy", chẳng những để ngăn chặn tình trạng băng hoại như ở Nazarét mà còn để cứu độ những con người đáng thương khác, thật sự lầm lạc khác. 

    Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay trong Sách Samuel quyển thứ 2 cho biết về một Đavít lầm lạc trầm trọng một lần nữa, sau lần ngoại tình và giết người trước kia. Cái lầm lạc một lần nữa này của vị vua đệ nhị cai trị dân Do Thái này là ở chỗ: "Vua Ðavít nói với Gioáp tư lệnh quân đội rằng: 'Ngươi hãy đi kinh lý khắp các chi tộc Israel, từ Ðan đến Bersabê, và kiểm tra dân chúng, để ta biết dân số'".

    Thế nhưng, nhà vua đã tỏ ra hối hận về lệnh kiểm tra dân số của mình: "Sau khi kiểm tra dân số, Ðavít hồi hộp và thưa cùng Chúa rằng: 'Con đã phạm tội nặng nề trong việc con đã làm. Nhưng, lạy Chúa, xin xoá tội ác cho tôi tớ Chúa, vì con đã hành động quá dại dột'". 

    Tại sao thế? Tự bản chất của việc kiểm tra dân số này đâu có gì là xấu! Thế nhưng, sở dĩ vua Đavít muốn thực hiện việc kiểm tra dân số là vì vua muốn tỏ ra cái hùng hậu của vương quốc trong thời hiển trị của mình, một vương quốc mà, căn cứ vào bản tổng kết được "Gioáp nạp sổ kiểm tra dân chúng cho vua" thì "trong dân Israel có tám trăm ngàn dũng sĩ biết sử dụng gươm, còn phía Giuđa có năm trăm ngàn người thiện chiến". 

    Nếu quả thật như vậy thì vua đã phạm tội đối với Thiên Chúa là Đấng đã ở với vua ngay từ khi vua còn là một cậu thanh thiếu niên được Tiên tri Samuel kín đáo xức dầu phong vương cho, ở chỗ vua đã tỏ ra kiêu hãnh, tự phụ và tự mãn v.v. không  sống chân thật với mình và với Chúa. 

    Thế rồi, như trong trường hợp đã ngoại tình còn giết người của vua trước kia, lần này, vua cũng phạm hai tội liền nhau, chẳng những mù quáng kiêu hãnh lại còn gian ác ích kỷ nữa. Ở chỗ, khi được chọn một trong ba hình phạt để đền tội lỗi của mình, vua lại chọn hình phạt giáng xuống trên dân lành vô tội hơn là lên chính bản thân đáng phạt của vua là kẻ đã phạm tội:

    "Ðây Chúa phán: 'Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy chọn điều nào ngươi muốn, rồi Ta sẽ thi hành'. Gad đến cùng Ðavít và tâu rằng: 'Hoặc ngài phải chịu bảy năm đói kém trong nước ngài, hoặc trong ba tháng, ngài phải lẩn trốn quân thù tìm bắt bớ ngài, hoặc là trong nước ngài phải chịu dịch tả suốt ba ngày, giờ đây ngài hãy suy nghĩ đắn đo và chịu điều nào đi để tôi thưa lại cùng Ðấng đã sai tôi'. Ðavít trả lời cho Gad rằng: 'Tôi khổ quá! Nhưng thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất nhân từ'".

    Lý do "thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất nhân từ'được vua Đavít nêu lên và chọn lựa đây bề ngoài có vẻ là những gì chính đáng nhất đối với vua trong lúc vua đang mù quáng, nhưng thật ra là một mánh khóe để trốn tránh khổ đau xẩy ra cho bản thân vua, thà để cho dân lành vô tội chịu còn hơn vua. 

    Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân từ lại có thể làm theo ý muốn đầy vị kỷ và tác hại dân chúng vô tội như của vua Đavít bấy giờ chứ? Thế nhưng, thật ra, chính trong việc này Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho vua thấy rằng tội của vua quá ư là trầm trọng đến độ chỉ có thành phần vô tội như dân lành của vua mới có thể đền thay được cho vua mà thôi, chứ chính vua mà chịu cũng chưa xứng với tội tầy đình của vua nữa: 

    "Chúa đã giáng cơn dịch tả xuống Israel từ sáng hôm ấy cho đến thời gian đã định. Từ Ðan tới Bersabê, có đến bảy mươi ngàn người đàn ông trong dân phải chết". 

    Tuy nhiên, Thiên Chúa chẳng những công bằng giáng phạt nhưng vẫn nhân hậu như thường. Truớc hết là nhân hậu với thành phần nạn nhân vô tội bị chết trong vụ này, ở chỗ họ chắc chắn được Ngài cứu độ, chắc chắn được Ngài ban thưởng xứng đáng cho giá làm tế vật của họ, như trường hợp làm vật hy tế của Uria là chồng của người vợ mà vua ngoại tình với trước đó cũng vậy. Sau nữa, Ngài nhân hậu với phạm nhân ở chỗ dùng chính hình phạt kẻ vô tội của Ngài vừa đủ để thức tỉnh nạn nhân phạm đến Ngài. Đó là lý do Bài Đọc 1 đã kết luận như thế này:

    "Ðang lúc thiên thần Chúa giơ tay để tàn phá Giêrusalem, thì Chúa hối tiếc trước sự đau khổ, nên phán bảo thiên thần đang giết phạt dân chúng rằng: 'Thôi đủ rồi! Giờ đây hãy dừng tay lại'. Bấy giờ thiên thần Chúa đang ở gần sân lúa của Aruna người Giêbusa. Khi thấy thiên thần sát phạt dân chúng, Ðavít thưa cùng Chúa rằng: 'Chính con là kẻ đã phạm tội, chính con đã làm điều gian ác; nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì đâu? Vậy xin tay Chúa đè nặng trên con và trên nhà cha con'".

    Không như dân làng Nazarét "cứng lòng tin" trong Bài Phúc Âm hôm nay, vua Đavít đã tỏ ra biết mình và hối hận về những gì mình làm trước tác động thần linh của Thiên Chúa. Bởi thế, vị vua này đã có thể xướng lên Bài Đáp Ca hôm nay rất thích hợp với vua:

    1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. 

    2) Con xưng ra cùng Chúa tội phạm của con, và lỗi lầm của con, con đã không che giấu. Con nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con".

    3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người này. 

    4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.  

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    Thu.4.IV-TN.mp3  

     

    Ngày 05: Thánh Agata, đồng trinh tử đạo

    Thánh Agata sinh tại Sicilia trong một gia đình danh giá. Các chị em của người là Anê, Lucia và Cêcilia đã đổ máu ra minh chứng Chúa Kitô dưới thời bạo vương Ðêciô, năm 251.

    Tương truyền rằng từ thuở bé, Agata đã hứa giữ mình đồng trinh. Nhưng quan trấn ở Sicilia là Quintianô ngỏ ý xin cưới thánh nữ. Bị từ khước, ông tức giận bắt giam thánh nữ, lấy cớ ngài là người Công Giáo. Người ta đã hành hạ, khinh khi làm nhục ngài. Ðể trả thù, bạo quan hạ lệnh nướng ngài trên giường sắt. Sau đó, người ta lại tống giam thánh nữ. Lạ thay, trong đêm đó, thánh Phêrô đã hiện ra và chữa lành cho ngài. Dù bị quan trấn Quintianô nhiều lần dụ dỗ, ngài vẫn một lòng trung kiên với đạo Chúa. Dù đau đớn lăn lộn trên than hồng và mảnh chai nhọn, ngài vẫn tin cậy vào Chúa, Ðấng sẽ cứu linh hồn ngài. Chính cử chỉ của thánh nữ khiến cả thành phố náo động, Quintianô sợ dân nổi loạn nên truyền giam thánh nữ trong ngục. Ngài đã chết rũ tù ngày 05/12/251. Thánh nữ đã làm nhiều phép lạ như che chở thành Catana khỏi hiểm họa núi lửa Etna. Ngay từ thời đó, người ta đã cầu khẩn và cậy trông vào sự cầu bầu của thánh nữ. Giáo Hội mừng kính ngài vào ngày 05/02 mỗi năm.

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHqhP_6oK1O4%2BF4DhgWKxg5xcVo7YFvDFjikKx-oMXcyiA%40mail.gmail.com.