2. Cảm Nghiệm Sống Lời Chúa

CẢM NGHIỆM SỐNG - A REFLECTION FIFTH SUNDAY-A

  •  
    Mo Nguyen - Feb 7 at 12:51 AM
     
     

                       FIFTH SUNDAY IN ORDINARY TIME – YEAR A

                                          (09 FEBRUARY 2020)

    muối.jpg

     

                        LET YOUR LIGHT SHINE  

     

    A REFLECTION (Matthew 5: 13-16) LET YOUR LIGHT SHINE! We all have our special gifts, but sometimes we fail to recognise this. We may feel that we have little to offer others. That is never true. As Jesus says: ‘You are the salt of the earth! You are the light of the world!’ Let us ask Jesus to help us recognise our unique gifts and share them with others.

     

    Let Your Light Shine - Hillsong Kids with lyrics:

    https://www.youtube.com/watch?v=55IuqX15Acc

     

    sang.jpg

    Là muối là ánh sáng - Lm Thái Nguyên:

    https://www.youtube.com/watch?v=0OuVdi9OYwc

     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ SÁU CN4TN-A

 

  •  
    Tinh Cao
    Feb 6 at 3:02 PM
     
     

    Thứ Sáu CN4TN-A

     

    THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I: (Năm II): Hc 47, 2-11

    "Ðavít đã thành tâm ca tụng và yêu mến Thiên Chúa".

    Trích sách Huấn Ca.

    Như miếng mỡ lóc ra khỏi thịt con vật tế lễ thế nào, thì Ðavít được chọn giữa con cái Israel như vậy. Người dỡn với sư tử như dỡn với chiên con và đùa với gấu như đùa với những chiên con. Khi còn trẻ, nào người đã chẳng hạ sát tên khổng lồ và rửa nhục cho dân, khi vung dây ném đá đánh ngã tên Goliath kiêu căng đó sao? Vì người đã kêu cầu Thiên Chúa toàn năng, và Chúa đã ban sức mạnh cho người để hạ sát tên chiến sĩ hùng dũng, để nâng cao lòng can đảm của dân người. Nhờ thế, người được tôn vinh như đã giết mười ngàn, được ca tụng vì những lời Chúa chúc lành, và được người ta trao tặng triều thiên vinh quang, vì người đã tiêu diệt quân thù chung quanh, đã thanh toán bọn giặc Philitinh cho đến ngày nay, đã đập tan sức mạnh chúng đến muôn đời. Trong mọi việc, người dùng lời ca khen mà tuyên xưng Ðấng Thánh Tối Cao; người thành tâm ca tụng Chúa, và yêu mến Thiên Chúa đã sáng tạo người, đã cho người quyền năng chống lại quân thù. Người thành lập ca đoàn trước bàn thờ Chúa, để hoà nhịp những bài thánh ca. Người tổ chức những cuộc lễ huy hoàng, quy định đầy đủ chu kỳ thời gian, để họ ca tụng thánh danh Chúa, và từ sáng sớm, họ biểu dương sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chúa đã thứ tha tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của người đến muôn đời. Chúa đã ban cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh quang trong Israel.

    Ðó là lời Chúa. 

    Ðáp Ca: Tv 17, 31. 47 và 50. 51.

    Ðáp: Tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi (c. 47b).

    Xướng: 1) Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời của Chúa được luyện trong lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ Người. - Ðáp.

    2) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi! - Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy Chúa, và con sẽ xướng ca khen ngợi danh Ngài. - Ðáp.

    3) Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời. - Ðáp. 

    Alleluia: Mt 4, 4b

    Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

    Phúc Âm: Mc 6, 14-29

    "Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

    Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại". Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.

    Ðó là lời Chúa. 


     

    TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT  Lời Chúa

     

     

      Đức Kitô Đầu Não   

     

    Ngày Thứ Sáu trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay bài Phúc Âm đã chứng thực chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, với câu đầu tiên như thế này: "Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng".

    Tuy nhiên, đối với chung dân chúng thì sở dĩ "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" trở thành "lừng lẫy danh tiếng" như thế là vì, như Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "kẻ thì nói: 'Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng'; kẻ thì bảo: 'Ðó là Êlia'; kẻ khác lại rằng: 'Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác'". Còn riêng vua Hêrôđê thì khi "nghe vậy (đã) nói: 'Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại'".

    Thật ra, theo nội dung của bài Phúc Âm hôm nay thì "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" không đóng vai chủ động và tự tỏ mình ta như các bài Phúc Âm trước, mà chỉ được nói đến lúc đầu thôi rồi sau đó chỉ liên quan đến những chi tiết về sự kiện vua Hêrôđê sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả vậy thôi. Thế nhưng, chính trọng sự kiện có tính cách tiêu cực như "sự cố" này cũng đã gián tiếp cho thấy Người quả thực là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". 

    Không phải hay sao, chính Hêrôđê đã phải công nhận mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Kitô là nhân vật mà ông ta chưa bao giờ gặp mà lại rất mong muốn được gặp (xem Luca 23:8) với nhân vật đã bị ông bất đắc dĩ phải cắt thủ cấp, chỉ vì đã bị lỡ lời giữa cả một triều thần bá quan văn võ để giữ lấy thể diện của mình, ở chỗ, ông đã đồng hóa hai nhân vật đặc biệt này của ông thành một: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".

    Cái "đầu" của Gioan bị vua Hêrôđê chặt mất đây, trước hết, là biểu hiệu cho "chân lý" đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhân vật vốn được vua "kính nể, (vì vua) biết ngài là người chính trực và thánh thiện", hiên ngang bênh vực cho đến cùng, một "chân lý" về luân lý mà nhà vua đã bất chấp vấp phạm: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình", như thể nhà vua đã "chặt" đi "chân lý" ấy bằng đam mê nhục dục của mình, một "chân lý" được biểu hiệu nơi cái "đầu" về thể lý của nhân vật bất khuất Gioan đã bị nhà vua quả thực chặt đi để thỏa mãn ý muốn gian ác hận thù của nàng Hêrôđia là người vợ bất chính của vua, một người vợ bất chính hèn hạ vốn đã "mưu toan muốn giết ngài, nhưng không thể làm gì được", cho tới khi bất ngờ nắm được cơ hội ngàn vàng trong tay là lúc, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: 

    "Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: 'Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho', và vua thề rằng: 'Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho'. Cô ra hỏi mẹ: 'Con nên xin gì?' Mẹ cô đáp: 'Xin đầu Gioan Tẩy Giả'. Cô liền vội vàng trở vào xin vua: 'Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa'. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ".

    Chưa hết, cái "đầu" của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chặt mất đây còn ám chỉ chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:6) mà ngài chỉ được sai đến trước để dọn đường và để "làm chứng" cho Người (xem Gioan 1:15), Đấng là "ánh sáng chiếu trong tăm tối nhưng tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Đấng đến sau ngài nhưng lại vô cùng cao trọng hơn ngài và có trước ngài, như "đầu" của ngài, như vị thủ lãnh tối cao của ngài, đến độ ngài "không đáng cởi giây giầy cho Người" (xem Gioan 1:15,27), một "vị vua mới sinh" (Mathêu 2:2) ngày xưa đã từng bị vương phụ của Hêrôđê đương kim này bấy giờ tìm sát hại khi sau biến cố tam vị chiêm vương gia đến bái thờ Người ở Bêlem Xứ Giuđa mà không trở về trình báo lại cho vua ấy (xem Mathêu 2:1-18).

    Như thế, sự kiện cái "đầu" của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị quyền lực chính trị đầy vô luân của dân Do Thái thời ấy chặt mất đây, đã trở thành một dấu chỉ đầy bí nhiệm ám chỉ đến cuộc tử nạn của một nhân vật sau này sẽ được một quyền lực chính trị khác, uy thế hơn, là tổng trấn Philatô ở Giuđêa tôn vương là "Vua dân Do Thái" (xem Gioan 19:19; Mathêu 27:37), khi vị thẩm quyền của đế quốc Rôma này, một đàng thì muốn biết "chân lý là gì?" khi tra vấn Chúa Giêsu và đối diện với Chúa Giêsu (Gioan 18:38), một đàng, cũng như Hêrôđê đang làm vua nước bị trị Do Thái bấy giờ đã lấy "đầu" Gioan Tẩy Giả chỉ vì danh dự thế giá của mình trước kia, đành phải ra lệnh đóng đanh một con người mà tự ông biệt được là vô tội và tìm cách thả ra (xem Gioan 19:4,6,10-12).

    Vậy thì sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê sát hại quả thực có liên quan đến cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đấng đến sau ngài, như một dấu báo trước về Đấng mà ngài đã hai lần tuyên bố và công khai giới thiệu: ngày hôm trước với chung dân chúng - "Kìa Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), và ngày hôm sau với riêng các môn đệ của ngài - "Hãy nhìn xem kìa, Con Chiên Thiên Chúa đó" (Gioan 1:36). 

    Như thế, câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại" của một nhà vua bất luân gian ác ấy dầu sao cũng có tính cách tiên tri, như trong câu của vị thượng tế Caipha thời ấy quả thực đã chất chứa tính chất tiên tri và đã thực sự hoàn toàn ứng nghiệm về nhân vật Giêsu Nazarét đã gây chấn động cả Thành Giêrusalem là Giáo Đô Do Thái giáo về sự kiện nhân vật tầm thường này, một nhân vật xuất thân từ Galilêa xa xôi là nơi chẳng có vị tiên tri nào xuất thân (xem Gioan 7:52), chẳng phải là luật sĩ hay thành phần trong hội đồng đầu mục Do Thái, nhưng đã làm cho Lazarô, một tử thi hồi sinh sau 4 ngày đã lên mùi (xem Gioan 11:43-44), rằng "các người chẳng hiểu gì hết, các người không thấy rằng thà một người chết thay cho dân chúng còn hơn là toàn dân bị hủy diệt hay sao?" (Gioan 11:50).

    Thật sự câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại" của vua Hêrôđê, tự nó chất chứa tính chất tiên tri, mà chính người nói không hề hay biết là mình muốn nói gì và lời ấy có ý nghĩa ra sao, không phải chỉ ám cuộc tử nạn của Chúa Kitô là "đầu" tự hiến cho Giáo Hội là thân thể của mình (xem Gioan 17:19; Epheso 5:23,25-27), mà còn ám chỉ những gì vị Tiền Hô Gioan này "làm chứng" về Đấng là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian" đến sau ngài đều đúng, đều ứng nghiệm nơi Chúa Kitô, như thể "Gioan ... nay đã sống lại" nơi Chúa Kitô ở cuộc tử nạn của Người vậy, Đấng "đã được sinh ra, đã đến thế gian là để làm chứng cho chân lý" (Gioan 18:37), như chính vị tiền hô của Người cũng đã được sai đến tuy "không phải là ánh sáng" như Người nhưng cũng đã "làm chứng" cho Người "là ánh sáng đã chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5).

    Nếu vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã được sai đến để dọn đường cho Chúa Kitô bằng cách "làm chứng" về Người và cho Người, thậm chí trước khi được thực sự và trực tiếp gặp Người, chẳng những bằng lời rao giảng thống hối kèm theo việc làm phép rửa thống hối, mà còn bằng chính cái "đầu" bất khuất của mình thế nào, thì vua Đavít trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay, được trích từ Sách Huấn Ca, cũng đã được chọn làm vương tổ của nhân vật Giêsu Nazarét "vua dân Do Thái" (Mathêu 2:2; 27:37) sau này, bằng một cuộc đời vua đã sống bao gồm cả công lênh sự nghiệp lẫn lỗi lầm của vua, nhưng ngài, như Bài Đọc 1 hôm nay nhận định, vẫn được "Chúa đã thứ tha tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của người đến muôn đời. Chúa đã ban cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh quang trong Israel".

    Bài Đáp Ca hôm nay chẳng những nói về vua Đavít mà còn nói về vị thừa kế của vua cũng như về triều đại vô cùng bất tận của vua nơi giòng dõi của vua là Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô:

    1) Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời của Chúa được luyện trong lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ Người. 

    2) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi! - Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy Chúa, và con sẽ xướng ca khen ngợi danh Ngài. 

    3) Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời. 

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    TN.IV-6.mp3  

     

     

     

 

CẢM NGHIỆM SỐNG - THỨ BA CN4TN-A

  •  
    Tinh Cao - Feb 3 at 5:26 PM
     
     

    Thứ Ba CN4TN-A

     

    CÙNG THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

     

     

    Bài Ðọc I (Năm II): 2 Sm 18, 9-10. 14b. 24-25a. 30 - 19, 3

    "Absalon con cha ơi, sao cha không chết thay cho con?"

    Trích sách Samuel quyển thứ hai.

    Trong những ngày ấy, Absalon đang cỡi lừa, tình cờ gặp các cận vệ của Ðavít, và khi con lừa đi qua dưới cây sồi to lớn rậm rạp, thì đầu ông vướng vào cây sồi, và ông bị treo lơ lửng, và con lừa ông đang cỡi cứ chạy. Có người thấy vậy, liền đi báo cho Gioáp rằng: "Tôi đã thấy Absalon bị treo trên cây sồi". Gioáp cầm ba chiếc lao phóng thẳng vào tim Absalon.

    Bấy giờ Ðavít đang ngồi giữa hai cửa, còn người lính gác lúc đó đi trên thành phía trên cửa, ngước mắt lên trông thấy một người chạy về. Tên lính gác hô to báo tin cho vua. Vua liền nói: "Nếu chỉ có một đứa, tức là nó mang tin mừng". Vua nói với anh ta: "Ngươi hãy qua bên này". Khi anh ta đi qua và đứng đó, thì tên Kusi xuất hiện và tâu vua rằng: "Tâu đức vua, tôi mang đến cho vua một tin mừng, vì hôm nay, Chúa đã xét xử bênh vực đức vua, Người đã giải thoát đức vua khỏi tay tất cả những kẻ dấy lên chống lại đức vua". Vua hỏi Kusi: "Absalon con ta có bình an không?" Kusi thưa lại: "Ước gì các thù địch của đức vua và toàn thể những kẻ dấy lên chống đức vua, đều bị tai hoạ như chàng thanh niên đó".

    Bấy giờ vua buồn sầu và đi lên lầu nơi cổng thành mà khóc lóc. Ngài vừa đi vừa nói: "Con ơi, hỡi Absalon! Absalon con ơi! Sao cha không chết thay cho con! Absalon con ơi! Absalon con ơi! Chớ gì ai để cha chết thay cho con. Absalon con ơi! Con ơi, hỡi Absalon!"

    Người ta đi báo tin cho Gioáp hay rằng đức vua khóc lóc và than tiếc con, nên hôm đó cuộc chiến thắng trở nên tang chế cho toàn dân, vì hôm đó, dân chúng nghe nói rằng: "Ðức vua thương tiếc con mình".

    Ðó là lời Chúa.

     

    Ðáp Ca: Tv 85, 1-2. 3-4. 5-6

    Ðáp: Lạy Chúa, xin ghé tai nghe, xin nhậm lời con (c. 1a).

    Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ghé tai nghe, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con, vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

    2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì, lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. - Ðáp.

    3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. - Ðáp.

      

    Alleluia: Tv 144, 13cd

    Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

     

    Phúc Âm: Mc 5, 21-43

    "Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".

    Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

    Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.

    Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi "Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".

    Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha, Koumi!", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.

     

    Ðó là lời Chúa.

     



     

    TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT Lời Chúa

     

      

    Đức Kitô cứu chữa   

     

    Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinhchủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng.

    Thật thế, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đã tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay ở chỗ chữa lành cho một người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm và đã hồi sinh một bé gái 12 tuổi.

    Trước hết là phép lạ chữa lành người đàn bà loạn huyết 12 năm:

    "Có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: 'Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành'. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: 'Ai đã chạm đến áo Ta?' Các môn đệ thưa Người rằng: 'Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi Ai chạm đến Ta?' Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: 'Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh'".

    Sau nữa là phép lạ hồi sinh một bé gái 12 tuổi: 

    "Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: 'Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?' Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: 'Ông đừng sợ, hãy cứ tin'. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: 'Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó'. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: 'Talitha, Koumi!', nghĩa là: 'Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!' Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn".

    Theo bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm thì 2 phép lạ này bao giờ cũng đi liền với nhau, nhưng có cái lạ là con số 12 trùng hợp ở giữa hai nạn nhân nhận được phép lạ của Chúa Giêsu, rồi một điều nữa là phép lạ chữa lành cho nữ nạn nhân loạn huyết 12 năm đã kéo dài thời giờ khiến bé gái 12 tuổi "đang hấp hối" không kịp chữa lành khi còn sống như người đàn bà loạn huyết 12 năm. Ngoài ra, sự kiện "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía" khiến Người không thể đi nhanh hơn cũng là nguyên nhân chậm trễ khiến Chúa Giêsu không đến kịp lúc trước khi bé gái chết. 

    Tuy nhiên, vì là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Chúa Giêsu vẫn có thể tỏ mình ra một cách hữu hiệu nhất và sáng tỏ nhất vào bất cứ lúc nào, tùy từng trường hợp của mỗi người cũng như của những ai liên hệ, miễn là làm sao để mang lại lợi ích thiêng liêng tối đa chẳng những cho chính nạn nhân đương sự mà còn cho chung cả cộng đồng của họ nữa. Phải chăng đó là lý do có con số trùng hợp 12 với 12: 12 x 12 = 144, hình ảnh vuông trọn của con số đông được tuyển chọn, bao gồm cả cựu ước (12 chi tộc dân Do Thái) lẫn tân ước (12 tông đồ của Giáo Hội), như được Sách Khải Huyền đề cập tới (21:17) về một Tân Thánh Đô Giêrusalem?

    Về trường hợp của người đàn bà loạn huyết 12 năm, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra ở một "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía", nhờ đó, riêng người đàn bà bị bệnh loạn huyết có thể lợi dụng dịp may hiếm quí ấy mà tự động chạm đến gấu áo của Người hầu được chữa lành, bằng không, như những lần khác, Người thường xuống thuyền để tránh đám đông thì bà ấy chẳng bao giờ có thể chạm đến Người

    Và mục đích Người cố ý lên tiếng hỏi "ai đã đụng đến Tôi" một cách công khai giữa đám đông trong Bài Phúc Âm hôm nay, không phải là vì Người không biết kẻ nào đã động đến Người, hay Người muốn kẻ đụng đến Người tự thú; thực sự Người đã biết được rằng chính những gì từ Người xuất ra, (như tác dụng thần linh và ân sủng vẫn từ các Bí Tích Thánh hiện nay), và quyền lực chữa lành từ Người thông ra đó đã chữa lành con người chạm đến Người là ai; vì thế, mục đích Người lên tiếng là để cho mọi người hiện diện bấy giờ hãy lưu ý đến nạn nhân được Người chữa lành, đúng hơn đến yếu tố bà đã được chữa lành là chính "đức tin con đã chữa con" của bà, một đức tin có tác dụng chữa lành dù bề ngoài Người như thể không biết và hoàn toàn do đương sự tự động làm thôi.

    Về trường hợp của bé gái 12 tuổi hấp hối và lìa đời, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra vào chính lúc em chết rồi mới rạng ngời hơn lúc em đang hấp hối, và mới đúng lúc hơn, bởi vì, lúc ấy mới là lúc có đông người thương cảm về cái chết mệnh yểu của một "lá xanh rụng xuống lá vàng trên cây" như em đến chia buồn với tang gia, đông hơn là lúc em mới hấp hối. 

    Đối với Người, cái chết tự nhiên về phần xác của con người trên trần gian này, như trường hợp của bé gái 12 tuổi này, hay của Lazarô bạn thân của Người (xem Gioan 11:11), chỉ là một giấc ngủ mà thôi: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó", còn có thể thức dậy được, đúng hơn, còn có thể đánh thức dậy bằng quyền năng của Người, vì thân xác chết chóc của con người sau nguyên tội và bởi nguyên tội, nhờ quyền năng Vượt Qua của Người sau này, hay nhờ Thánh Thần của Người (xem Roma 8:11), "sẽ được sống lại vào ngày sau hết" (Gioan 11:24).

    Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cho thấy một con người bao gồm cả hai hiện tượng loạn huyết và chết chóc của hai nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay. Đó là Absalon, một trong những người con trai của Vua Đavít, một người con "loạn huyết" ở chỗ có máu phản loạn, dám ngang nhiên chống lại vương phụ Đavít của mình, và chính vì tội của mình, người con bị "loạn huyết" này đã bị chết một cách thảm thương, bởi chính vị lãnh tướng của vua cha:

    "Trong những ngày ấy, Absalon đang cỡi lừa, tình cờ gặp các cận vệ của Ðavít, và khi con lừa đi qua dưới cây sồi to lớn rậm rạp, thì đầu ông vướng vào cây sồi, và ông bị treo lơ lửng, và con lừa ông đang cỡi cứ chạy. Có người thấy vậy, liền đi báo cho Gioáp rằng: 'Tôi đã thấy Absalon bị treo trên cây sồi'. Gioáp cầm ba chiếc lao phóng thẳng vào tim Absalon".

    Thế nhưng nếu hai nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay được "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" chữa lành và hồi sinh thế nào, Absalon "loạn huyết" và bị "ba chiếc lao phóng thẳng vào tim" trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng được bù đắp bằng sự lành thắng sự dữ, như thể lỗi lầm của người con này được chữa lành và hồi sinh bởi chính vua cha của nó, bằng quyền lực yêu thương thứ tha vô bờ bến của vua cha, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy:

    "'Tâu đức vua, tôi mang đến cho vua một tin mừng, vì hôm nay, Chúa đã xét xử bênh vực đức vua, Người đã giải thoát đức vua khỏi tay tất cả những kẻ dấy lên chống lại đức vua'. Vua hỏi Kusi: 'Absalon con ta có bình an không?' Kusi thưa lại: 'Ước gì các thù địch của đức vua và toàn thể những kẻ dấy lên chống đức vua, đều bị tai hoạ như chàng thanh niên đó'. Bấy giờ vua buồn sầu và đi lên lầu nơi cổng thành mà khóc lóc. Ngài vừa đi vừa nói: 'Con ơi, hỡi Absalon! Absalon con ơi! Sao cha không chết thay cho con! Absalon con ơi! Absalon con ơi! Chớ gì ai để cha chết thay cho con. Absalon con ơi! Con ơi, hỡi Absalon!'"

    Bài Đáp Ca hôm nay có thể áp dụng vào thân phận và tâm tình của chính Vua Đavít là nạn nhân bị con mình phản loạn mà lại thương mất con, nhưng cũng có thể áp dụng cho cả trường hợp của người đàn bà loạn huyết 12 năm và bé gái 12 tuổi qua đời trong Bài Phúc Âm hôm nay, và cho trường hợp của cả Absalon trong Bài Đọc 1 hôm nay nữa:

    1) Lạy Chúa, xin ghé tai nghe, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con, vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. 

    2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì, lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. 

    3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.

     Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 

     Thu.3.IV-TN.mp3

     

    --

     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - THỨ NĂM CN4TN-A

  •  
    Tinh Cao - Feb 4 at 3:19 PM
     
     

    Thứ Tư CN4TN-A

     

    CÙNG THAM DỰ BỮA TIỆC Lời Chúa

     

    Bài Ðọc I (Năm II): 2 Sm 24, 2. 9-17

    "Chính con đã phạm tội, nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì đâu?"

    Trích sách Samuel quyển thứ hai.

    Trong những ngày ấy, vua Ðavít nói với Gioáp tư lệnh quân đội rằng: "Ngươi hãy đi kinh lý khắp các chi tộc Israel, từ Ðan đến Bersabê, và kiểm tra dân chúng, để ta biết dân số".

    Gioáp nạp sổ kiểm tra dân chúng cho vua. Trong dân Israel có tám trăm ngàn dũng sĩ biết xử dụng gươm, còn phía Giuđa có năm trăm ngàn người thiện chiến.

    Sau khi kiểm tra dân số, Ðavít hồi hộp và thưa cùng Chúa rằng: "Con đã phạm tội nặng nề trong việc con đã làm. Nhưng, lạy Chúa, xin xoá tội ác cho tôi tớ Chúa, vì con đã hành động quá dại dột". Sáng hôm sau, khi Ðavít thức dậy, có lời Chúa phán cùng ông Gad, vị tiên tri và thị kiến của Ðavít rằng: "Ngươi hãy đi nói với Ðavít: Ðây Chúa phán: Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy chọn điều nào ngươi muốn, rồi Ta sẽ thi hành". Gad đến cùng Ðavít và tâu rằng: "Hoặc ngài phải chịu bảy năm đói kém trong nước ngài, hoặc trong ba tháng, ngài phải lẩn trốn quân thù tìm bắt bớ ngài, hoặc là trong nước ngài phải chịu dịch tả suốt ba ngày, giờ đây ngài hãy suy nghĩ đắn đo và chịu điều nào đi để tôi thưa lại cùng Ðấng đã sai tôi". Ðavít trả lời cho Gad rằng: "Tôi khổ quá! Nhưng thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất nhân từ".

    Chúa đã giáng cơn dịch tả xuống Israel từ sáng hôm ấy cho đến thời gian đã định. Từ Ðan tới Bersabê, có đến bảy mươi ngàn người đàn ông trong dân phải chết. Ðang lúc thiên thần Chúa giơ tay để tàn phá Giêrusalem, thì Chúa hối tiếc trước sự đau khổ, nên phán bảo thiên thần đang giết phạt dân chúng rằng: "Thôi đủ rồi! Giờ đây hãy dừng tay lại". Bấy giờ thiên thần Chúa đang ở gần sân lúa của Aruna người Giêbusa. Khi thấy thiên thần sát phạt dân chúng, Ðavít thưa cùng Chúa rằng: "Chính con là kẻ đã phạm tội, chính con đã làm điều gian ác; nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì đâu? Vậy xin tay Chúa đè nặng trên con và trên nhà cha con".

    Ðó là lời Chúa. 

    Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 6. 7

    Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c. 5c).

    Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.

    2) Con xưng ra cùng Chúa tội phạm của con, và lỗi lầm của con, con đã không che giấu. Con nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con". - Ðáp.

    3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người này. - Ðáp.

    4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp. 

    Alleluia: Ga 8,12

    Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống. - Alleluia. 

    Phúc Âm: Mc 6,1-6

    "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".

    Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

    Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người.

    Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"

    Và họ vấp phạm vì Người.

    Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình".

    Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin.

    Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

     

    Ðó là Lời Chúa. 


     

    BẠN VÀ TÔI ĂN - NHAI VÀ NUỐT Lời Chúa

     

     

       Đức Kitô Nazarét   

     

    Phụng vụ lời Chúa, nhất là Bài Phúc Âm, cho Thứ Tư trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.

    Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại, có nội dung phần nào giống phần đầu của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại và được Giáo Hội sử dụng cho Chúa Nhật IV đầu tuần này. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy ở cùng một địa điểm và cùng một thành phần thính giả: "Chúa Giêsu trở về quê nhà" như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nhưng khác với bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này ở chỗ không có đoạn Chúa Giêsu bị dân làng dẫn ra sườn núi để xô Người xuống cho chết như ở phần cuối của Bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa rồi.

    Tuy nhiên, cả hai bài Phúc Âm cho Chúa Nhật đầu tuần của Thánh ký Luca cũng như cho Thứ Tư hôm nay của Thánh ký Marco đều giống nhau ở phản ứng của dân chúng về Chúa Giêsu Kitô, ở chỗ, một đàng thì họ tỏ ra "sng sốt về giáo lý của Người", đàng khác, trái lại, chính vì họ cảm thấy lạ lùng "sửng sốt" như vậy về Người "nên nói rằng: 'Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?'

    Thái độ ba phải của họ đã được Thánh ký Marco trong Bài Phúc Âm hôm nay kết luận là: "Và họ vấp phạm vì Người". "Vấp phạm" ở chỗ nào? Phải chăng ở chỗ họ đã phạm tội, ở chỗ họ đã tỏ ra uất hận với Người đến độ muốn sát hại Người như trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật đầu tuần?

    Thế nhưng, phản ứng và hành động sát hại Chúa Giêsu Kitô đây chỉ xẩy ra sau khi Người thẳng thắn cho họ biết về tình trạng mù quáng và cứng lòng tin của họ mà thôi, như Bài Phúc Âm Chúa Nhật cho biết, còn ở trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước khi Người cảnh giác họ rằng: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình", thì Thánh ký Marcô đã khẳng định rằng "họ vấp phạm vì Người" rồi.

    Vậy thì phải chăng không tin vào Chúa Kitô là một thái độ hay hành động hoặc trạng thái "vấp phạm". Theo nguyên tắc có thể hiểu như thế. Bởi vì, nếu Chúa Kitô là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người..." (Gioan 1:9) thì một khi Người chưa xuất hiện thì tất cả nhân loại vẫn còn tiếp tục "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), tức là vẫn còn ở trong tình trạng "vấp phạm", cần phải được cứu độ, cần phải được giải cứu cho khỏi tình trạng bất hạnh vô phúc ấy.

    Con người lại càng "vấp phạm" hơn nữa, khi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), nghĩa là khi Thiên Chúa đã "hóa thành nhục thể" nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) cho họ mà họ vẫn "không nhận biết Người" (Gioan 1:10) và vẫn "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11), như trường hợp điển hình là dân làng Nazarét của Người được Thánh ký Marco ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm nay.

    Thật vậy, cho dù con người không phạm một thứ tội nào đó thật sự được liệt kê trong 10 điều răn, nhưng một khi con người không chấp nhận sự thật được tỏ ra cho họ, qua tiếng lương tâm của họ, qua những chứng từ của Giáo Hội, qua những nguyên tắc luân lý bất dịch, qua Giáo Huấn chân thật của Giáo Hội v.v., thì ở một nghĩa nào đó, tự mình, họ đã ở trong tình trạng "vấp phạm" rồi vậy, như chính Chúa Kitô đã khẳng định về họ dưới đây

    "Phán quyết luận phạt là thế này: ánh sáng đã đến trong thế gian nhưng con người lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Hết mọi kẻ làm điều gian ác xấu xa đều ghét ánh sáng, không muốn đến gần ánh sáng bởi sợ các việc làm của mình bị bại lộ" (Gioan 3:19-20).

    Thành phần không chấp nhận sự thật hay từ chối sự thật này sở dĩ là thành phần "vấp phạm" vì họ không muốn hoán cải đời sống, trái lại họ muốn tiếp tục sống trong tội lỗi, cho dù họ thực sự biết mình đang tội lỗi, đang sống một cách giả dối và gian ác, hoàn toàn bất khả chấp. Thậm chí chính bản thân đương sự phạm nhân cũng không thể chịu được, khi họ bị lương tâm cắn rứt hay khi họ bị đau khổ bởi tội lỗi do chính họ gây ra.

    Nếu họ chấp nhận sự thật thì họ phải hoán cải. Mà hoán cải thì mất tự do phạm tội. Bởi thế, họ không ngừng trốn tránh sự thật, không nương tay đàn áp sự thật và sát hại sự thật là chính những gì giải phóng họ (xem Gioan 8:32). Điển hình và thực tế nhất là trường hợp của những con người luôn trấn an lương tâm để cố tình lao đầu theo đam mê nhục dục và tham vọng lợi lộc điên cuồng của mình, bằng mọi giá, bất chấp mọi thiệt hại gây ra cho tha nhân. 

    Với những con người cố tình sống trong tình trạng băng hoại thối nát ấy, như Thiên Chúa không hiện hữu, hay như Thiên Chúa đã chết, như không có đời sau, như chỉ có thiên đường trần thế, như tử thi chết 4 ngày như vậy, cho dù Chúa Giêsu vẫn có thể hồi sinh như Lazarô, nhưng có những trường hợp "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này chỉ còn biết "khóc" (xem Gioan 11:39,35; Luca 19:41) mà thôi. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã kết lại ở chỗ: 

    "Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy". 

    Đúng thế, đa số thành phần dân làng ở Nazarét có "vấp phạm vì Người" chăng nữa, Người đã chẳng những không chán nản hay thất vọng, trái lại, càng vì thế Người càng phải nỗ lực rao giảng hơn nữa, ở chỗ: "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy", chẳng những để ngăn chặn tình trạng băng hoại như ở Nazarét mà còn để cứu độ những con người đáng thương khác, thật sự lầm lạc khác. 

    Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay trong Sách Samuel quyển thứ 2 cho biết về một Đavít lầm lạc trầm trọng một lần nữa, sau lần ngoại tình và giết người trước kia. Cái lầm lạc một lần nữa này của vị vua đệ nhị cai trị dân Do Thái này là ở chỗ: "Vua Ðavít nói với Gioáp tư lệnh quân đội rằng: 'Ngươi hãy đi kinh lý khắp các chi tộc Israel, từ Ðan đến Bersabê, và kiểm tra dân chúng, để ta biết dân số'".

    Thế nhưng, nhà vua đã tỏ ra hối hận về lệnh kiểm tra dân số của mình: "Sau khi kiểm tra dân số, Ðavít hồi hộp và thưa cùng Chúa rằng: 'Con đã phạm tội nặng nề trong việc con đã làm. Nhưng, lạy Chúa, xin xoá tội ác cho tôi tớ Chúa, vì con đã hành động quá dại dột'". 

    Tại sao thế? Tự bản chất của việc kiểm tra dân số này đâu có gì là xấu! Thế nhưng, sở dĩ vua Đavít muốn thực hiện việc kiểm tra dân số là vì vua muốn tỏ ra cái hùng hậu của vương quốc trong thời hiển trị của mình, một vương quốc mà, căn cứ vào bản tổng kết được "Gioáp nạp sổ kiểm tra dân chúng cho vua" thì "trong dân Israel có tám trăm ngàn dũng sĩ biết sử dụng gươm, còn phía Giuđa có năm trăm ngàn người thiện chiến". 

    Nếu quả thật như vậy thì vua đã phạm tội đối với Thiên Chúa là Đấng đã ở với vua ngay từ khi vua còn là một cậu thanh thiếu niên được Tiên tri Samuel kín đáo xức dầu phong vương cho, ở chỗ vua đã tỏ ra kiêu hãnh, tự phụ và tự mãn v.v. không  sống chân thật với mình và với Chúa. 

    Thế rồi, như trong trường hợp đã ngoại tình còn giết người của vua trước kia, lần này, vua cũng phạm hai tội liền nhau, chẳng những mù quáng kiêu hãnh lại còn gian ác ích kỷ nữa. Ở chỗ, khi được chọn một trong ba hình phạt để đền tội lỗi của mình, vua lại chọn hình phạt giáng xuống trên dân lành vô tội hơn là lên chính bản thân đáng phạt của vua là kẻ đã phạm tội:

    "Ðây Chúa phán: 'Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy chọn điều nào ngươi muốn, rồi Ta sẽ thi hành'. Gad đến cùng Ðavít và tâu rằng: 'Hoặc ngài phải chịu bảy năm đói kém trong nước ngài, hoặc trong ba tháng, ngài phải lẩn trốn quân thù tìm bắt bớ ngài, hoặc là trong nước ngài phải chịu dịch tả suốt ba ngày, giờ đây ngài hãy suy nghĩ đắn đo và chịu điều nào đi để tôi thưa lại cùng Ðấng đã sai tôi'. Ðavít trả lời cho Gad rằng: 'Tôi khổ quá! Nhưng thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất nhân từ'".

    Lý do "thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất nhân từ'được vua Đavít nêu lên và chọn lựa đây bề ngoài có vẻ là những gì chính đáng nhất đối với vua trong lúc vua đang mù quáng, nhưng thật ra là một mánh khóe để trốn tránh khổ đau xẩy ra cho bản thân vua, thà để cho dân lành vô tội chịu còn hơn vua. 

    Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân từ lại có thể làm theo ý muốn đầy vị kỷ và tác hại dân chúng vô tội như của vua Đavít bấy giờ chứ? Thế nhưng, thật ra, chính trong việc này Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho vua thấy rằng tội của vua quá ư là trầm trọng đến độ chỉ có thành phần vô tội như dân lành của vua mới có thể đền thay được cho vua mà thôi, chứ chính vua mà chịu cũng chưa xứng với tội tầy đình của vua nữa: 

    "Chúa đã giáng cơn dịch tả xuống Israel từ sáng hôm ấy cho đến thời gian đã định. Từ Ðan tới Bersabê, có đến bảy mươi ngàn người đàn ông trong dân phải chết". 

    Tuy nhiên, Thiên Chúa chẳng những công bằng giáng phạt nhưng vẫn nhân hậu như thường. Truớc hết là nhân hậu với thành phần nạn nhân vô tội bị chết trong vụ này, ở chỗ họ chắc chắn được Ngài cứu độ, chắc chắn được Ngài ban thưởng xứng đáng cho giá làm tế vật của họ, như trường hợp làm vật hy tế của Uria là chồng của người vợ mà vua ngoại tình với trước đó cũng vậy. Sau nữa, Ngài nhân hậu với phạm nhân ở chỗ dùng chính hình phạt kẻ vô tội của Ngài vừa đủ để thức tỉnh nạn nhân phạm đến Ngài. Đó là lý do Bài Đọc 1 đã kết luận như thế này:

    "Ðang lúc thiên thần Chúa giơ tay để tàn phá Giêrusalem, thì Chúa hối tiếc trước sự đau khổ, nên phán bảo thiên thần đang giết phạt dân chúng rằng: 'Thôi đủ rồi! Giờ đây hãy dừng tay lại'. Bấy giờ thiên thần Chúa đang ở gần sân lúa của Aruna người Giêbusa. Khi thấy thiên thần sát phạt dân chúng, Ðavít thưa cùng Chúa rằng: 'Chính con là kẻ đã phạm tội, chính con đã làm điều gian ác; nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì đâu? Vậy xin tay Chúa đè nặng trên con và trên nhà cha con'".

    Không như dân làng Nazarét "cứng lòng tin" trong Bài Phúc Âm hôm nay, vua Đavít đã tỏ ra biết mình và hối hận về những gì mình làm trước tác động thần linh của Thiên Chúa. Bởi thế, vị vua này đã có thể xướng lên Bài Đáp Ca hôm nay rất thích hợp với vua:

    1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. 

    2) Con xưng ra cùng Chúa tội phạm của con, và lỗi lầm của con, con đã không che giấu. Con nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con".

    3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người này. 

    4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.  

     

    Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên

     

    Thu.4.IV-TN.mp3  

     

    Ngày 05: Thánh Agata, đồng trinh tử đạo

    Thánh Agata sinh tại Sicilia trong một gia đình danh giá. Các chị em của người là Anê, Lucia và Cêcilia đã đổ máu ra minh chứng Chúa Kitô dưới thời bạo vương Ðêciô, năm 251.

    Tương truyền rằng từ thuở bé, Agata đã hứa giữ mình đồng trinh. Nhưng quan trấn ở Sicilia là Quintianô ngỏ ý xin cưới thánh nữ. Bị từ khước, ông tức giận bắt giam thánh nữ, lấy cớ ngài là người Công Giáo. Người ta đã hành hạ, khinh khi làm nhục ngài. Ðể trả thù, bạo quan hạ lệnh nướng ngài trên giường sắt. Sau đó, người ta lại tống giam thánh nữ. Lạ thay, trong đêm đó, thánh Phêrô đã hiện ra và chữa lành cho ngài. Dù bị quan trấn Quintianô nhiều lần dụ dỗ, ngài vẫn một lòng trung kiên với đạo Chúa. Dù đau đớn lăn lộn trên than hồng và mảnh chai nhọn, ngài vẫn tin cậy vào Chúa, Ðấng sẽ cứu linh hồn ngài. Chính cử chỉ của thánh nữ khiến cả thành phố náo động, Quintianô sợ dân nổi loạn nên truyền giam thánh nữ trong ngục. Ngài đã chết rũ tù ngày 05/12/251. Thánh nữ đã làm nhiều phép lạ như che chở thành Catana khỏi hiểm họa núi lửa Etna. Ngay từ thời đó, người ta đã cầu khẩn và cậy trông vào sự cầu bầu của thánh nữ. Giáo Hội mừng kính ngài vào ngày 05/02 mỗi năm.

     

    --
    You received this message because you are subscribed to the Google Groups "LTXC-TD5" group.
    To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it..
    To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/ltxc-td5/CAKivYHqhP_6oK1O4%2BF4DhgWKxg5xcVo7YFvDFjikKx-oMXcyiA%40mail.gmail.com.
     

CẢM NGHIỆM SỐNG LC - A REFLECTION 02-2-2020

  •  
    Mo Nguyen
     
     
    Jan 31 at 1:50 AM
     
     

                                THE PRESENTATION OF THE LORD

                                                02 February 2020

    ca.jpg

     

      THE LIGHT TO ENLIGHTEN THE NATIONS

     

    A REFLECTION

    THE LIGHT TO ENLIGHTEN THE NATIONS (Luke 2: 22- 40). Forty days have passed since the feast of Christmas. We have long since taken down our Christmas decorations with their multi-coloured lights. But hopefully the light of Christ continues to shine brightly among us. The candles we use in liturgy remind us that Christ is our light and that we, in turn, are called to reflect this light to others.

    Praise Song "All Nations Come to Your Light" | The Church of Almighty God:

    https://www.youtube.com/watch?v=uqrtPmJBgsw

     

    anh.jpg

     

     NGÀI LÀ ÁNH SÁNG ĐỜI CON:

    https://www.youtube.com/watch?v=EEdTXmYVaL8