4. Bánh Sự Sống

BÁNH SỰ SỐNG - THỨ BA CN19TN-C

Thứ Ba CN19TN-C
 
 
                                                 CẦN HẠ MÌNH XUỐNG NHƯ TRẺ NHỎ

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 2, 8 - 3, 4

"Người ban cho tôi cuốn sách ấy làm lương thực: nó trở nên ngọt ngào như mật trong miệng tôi".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Chúa phán như thế này: "Phần ngươi, hỡi con người, hãy nghe các lời Ta sẽ phán cùng ngươi; ngươi chớ phản nghịch như loài phản nghịch kia. Hãy mở miệng mà ăn những sự Ta sẽ ban cho ngươi". Tôi nhìn, thì có một bàn tay đưa về phía tôi, trong tay có cuốn sách cuộn lại. Người mở cuốn sách ra trước mặt tôi: sách viết cả mặt trong, mặt ngoài. Trong sách viết những lời than van, rên rỉ và kêu trách.

Người phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, ngươi hãy ăn sự ngươi tìm được. Hãy ăn cuốn sách này và đi nói với con cái Israel". Tôi mở miệng và Người cho tôi ăn cuốn sách ấy và bảo tôi rằng: "Hỡi con người, hãy lấy cuốn sách Ta ban cho ngươi làm lương thực mà ăn cho no". Tôi ăn và nó trở nên ngọt ngào như mật trong miệng tôi. Và Người phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, hãy đi đến nhà Israel và nói cho chúng nghe những lời của Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 14. 24. 72. 103. 111. 131

Ðáp: Các lời sấm của Chúa ngọt ngào trong cổ họng con là dường nào (c. 103a).

Xướng: 1) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường bằng được mọi thứ giàu sang. - Ðáp.

2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ của Ngài là những bậc cố vấn của con. - Ðáp.

3) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.

4) Các lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật ong đổ miệng con. - Ðáp.

5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời: vì những điều đó khiến cho lòng con hoan hỉ. - Ðáp.

6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 18, 1-5. 10. 12-14

"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: "Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.

"Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Ðấng ngự trên trời.

"Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất".

Ðó là lời Chúa.

 

Cảm Nghiệm /Suy Niệm/ SỐNG VÀ CHIA SẺ

 

Như Trẻ Nhỏ: vừa Thánh Nhân vừa Tội Nhân


Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XIX hôm nay chất chứa câu trả lời của Chúa Giêsu được các môn đệ đặt ra về vấn đề "ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời" 
 
Câu trả lời của Người như thế này: "Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: 'Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời'".
 
Hành động "gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông" của Chúa Giêsu cho thấy Người rất quí yêu con trẻ, và con trẻ là mô phạm cho cả thành phần môn đệ của Người, thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo Hội được Người thiết lập. Tuy nhiên, trẻ nhỏ là mô phạm cho các vị về tinh thần mà thôi, chứ không phải về thể lý. Bởi thế, Người không bảo các vị rằng "nếu các con không hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ này...", mà là bảo các vị: "ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này...", nghĩa là việc "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" chính là việc "hạ mình xuống". 
 
Đúng thế, nếu "Nước Trời" đây là chính bản thân Người, mà Người đã "hóa ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi v.v." (Philiphê 2:6), thì chỉ có "ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này..." mới có thể nhận ra Người, chấp nhận Người và đáp ứng Người mà thôi, nghĩa là mới có thể "vào Nước Trời". Ý nghĩa sâu xa của cụm từ "vào Nước Trời" là như vậy, là đến được với Chúa Giêsu, bằng không, không thể nào, như trường hợp của thành phần luật sĩ và biệt phái vừa kiêu kỳ vừa giả hình không đơn sơ chân thật như trẻ nhỏ trong dân Do Thái. 
 
Chưa hết, việc "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" là "hạ mình xuống" này chẳng những giúp cho con người "vào Nước Trời" là nhận biết Chúa Kitô, mà còn trở thành "kẻ lớn nhất trong Nước Trời" nữa. Ở chỗ được Chúa Kitô yêu thích nhất, được hiệp nhất nên một với Người nhất, như một Con Trẻ Maria "đầy ân phúc" (Luca 1:28), vì Con Trẻ Maria này liên lỉ sống "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự - quả thực Con Trẻ Maria "có phúc vì đã tin" (Luca 1:45). 
 
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dường như nói đến "trẻ nhỏ" ở hai ý nghĩa trái nghịch nhau. Ý nghĩa thứ nhất là tính cách bé nhỏ "khiêm nhượng" của "trẻ nhỏ" để có thể chẳng những "vào Nước Trời" là gặp gỡ Chúa Kitô mà còn trở nên cao trọng nhất trong Nước Trời là được hiệp nhất nên một với Người. Ý nghĩa thứ hai về "trẻ nhỏ" đó là tính chất "dại dột" vụng về của chúng.
 
Phải chăng đó là lý do ở phần sau của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã cảnh giác các môn đệ là đừng khinh dể "trẻ nhỏ" ở tính chất dại khờ vụng dại của chúng: "Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này"? Bởi vì, ngay sau đó Người nói đến tình trạng con chiên lạc: "Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao?"
 
Sở dĩ các môn đệ không được khinh dể thành phần "trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu này là vì 2 lý do: Lý do thứ nhất đó là 
"kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy", và lý do thứ hai đó là: "vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời".  
 
Thật vậy, trước nhan Thiên Chúa hằng được các thiên thần chiêm ngưỡng trên trời, biết đâu những kẻ tầm thường trên thế gian này, thậm chí những con người tội lỗi đáng khinh bỉ lại được Thiên Chúa tuyển chọn để làm những việc cả thể cho Ngài, như đã từng xẩy ra trong giòng lịch sử loài người nói chung và Giáo Hội nói riêng. Biết đâu thành phần bé mọn yếu hèn này lại biết nhận lỗi và hối lỗi trước nhan Chúa, như người thu thuế trong đền thờ mà lại nên công chính hơn người Pharisiêu cũng cầu nguyện với họ bấy giờ (xem Luca 18:13-14).
 
Nếu thành phần "trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu chẳng khác gì như "một con chiên lạc" (chứ không phải con dê), được Thiên Chúa chú ý và tìm kiếm cho đến cùng và cho bằng được như thế thì quả thực từng "con chiên lạc" là những gì rất quí báu trước nhan Thiên Chúa, đến độ "kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy" - Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật, chúng ta không thể nào lại khinh thường những gì được Thiên Chúa yêu thương quí chuộng, nhất là thành phần tội nhân vô cùng đáng thương của Ngài.  
 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên 
 
--------------------------------------

BÁNH SỰ SỐNG - REFLECTION 19TH SUNDAY -C

  •  
    Mo Nguyen
     
    Aug 10 at 6:49 AM
     
     


    The vigilant slave is said to be “blessed”
      

    Sunday 11 August 2019

    Reflection on the Gospel-19th Sunday in Ordinary Time C

    (Luke 12:32-48; shorter form 12:35-40)

    -Veronica Lawson RSM

     

    The longer form of today’s gospel brings together a number of loosely connected sayings of Jesus about trust and vigilance. Jesus addresses his disciples affectionately as a “little flock”. He tells them that there is no need for fear. God, their “father”, has delighted in giving them “the kin-dom” and they are to be generous in their turn. They are to sell their material possessions and give “alms” or, in a more accurate translation of the Greek original, they are to use their resources to engage in “works of mercy” (eleēmosunē). Their security resides in Jesus’ assurance: “Where your treasure (or treasury) is, there your heart will be also.” The parental and affectionate language of the opening verses is in sharp contrast with the violent imagery of the latter part of the gospel reading. Contrary to what some have argued in the past, the murderous slave master who cuts recalcitrant slaves into pieces can never be understood as a gospel image of God. In this problematic passage, the Lukan Jesus is engaging his hearers’ experience of slavery in order to make a point about the need for attentiveness to the demands of the gospel. The vigilant slave is said to be “blessed” or “happy” or “privileged”. From a contemporary perspective, it seems strange indeed to speak of a slave as fortunate. As the story unfolds, we realise that the slave enjoys a relative happiness in comparison with the fate of the other slaves.

     

    The shorter form of the gospel in 12:35-40 presents a very strange teaching that would surely have been met with scepticism by its earliest hearers. The word picture that Luke paints is just not credible in a first century setting where slavery was taken for granted and where the respective roles of masters and slaves were characterised more by extreme violence than by mutuality of any sort. The disciples are told to be like slaves who keep vigil all night as they await the return of their master from a wedding banquet. Their function is to open the door when he knocks and, if they are awake enough to perform this function, there will be an extraordinary reversal of roles: the slaves will sit down at table while the master assumes the role of slave and serves their meal.

     

    The disciples are being prepared for Jesus’ announcement later in the narrative that he is among them as one who serves. They need to understand that something extraordinary is happening, even more extraordinary than the slave-master banquet scenario might suggest. God’s way of being in the world is full of healing experiences and life-enhancing surprises. The final verses of the shorter reading shift to the image of the thief in the night. These verses are also about vigilance, being watchful and alert so as not to be taken by surprise in the final reckoning.

     

    Will I Be Ready When He Comes?

    https://www.youtube.com/watch?v=CN3QzV8XaAQ

       Will I Be Ready When He Comes?

     
    hat.jpg
     

BÁNH SỰ SỐNG - THỨ BA CN18TN-C

Ngày 6 tháng 8

Lễ Chúa Giêsu Hiển Dung Năm C

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: Ðn 7, 9-10. 13-14

"Áo Người trắng như tuyết".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Tôi ngắm nhìn cho đến khi đặt ngai toà xong, và một vị Bô Lão ngự trên ngai: áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người như những ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy. Một con sông lửa chảy lan tràn trước mặt Người. Hằng ngàn kẻ phụng sự Người, và muôn vàn kẻ chầu chực Người. Người ngự toà xét xử, và các quyển sách đều mở ra.

Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời. Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất: vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 96, 1-2. 5-6. 9

Ðáp: Chúa hiển trị, Chúa là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).

Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.

2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi trái đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, vì Ngài là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất, Ngài rất đỗi siêu phàm giữa muôn chúa tể. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Pr 1, 16-19

"Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống".

Trích thư thứ hai của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, chúng tôi không theo những truyện bày đặt khôn khéo, để tỏ ra cho anh em biết quyền năng và sự hiện diện của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; nhưng chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của Người. Người đã được Chúa Cha ban cho vinh dự và vinh quang, khi có lời từ sự vinh quang cao cả xuống phán về Người rằng: "Này là Con Ta yêu dấu, Người đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống, lúc chúng tôi ở với Người trên núi thánh. Và chúng tôi có lời nói chắc chắn hơn nữa là lời nói tiên tri: anh em nên nghe theo lời đó, nó như ngọn đèn sáng soi trong nơi u tối, cho đến khi rạng đông và sao mai mọc lên trong lòng anh em.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mt 17, 5c

Alleluia, alleluia! - Này là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 9, 28b-36

"Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.

Ðó là lời Chúa.

 

Vinh Quang Ba Ngôi nơi Việc Chúa Kitô Biến Hình 

Xin đọc 1 trong loạt bài giáo lý Năm Thánh 2000, ngày 26/4/2000, về biến cố biến hình của ĐTC GPII, do cao tấn tĩnh chuyển dịch

 

Và nếu được mời nghe chia sẻ ở cái link mp3 sau đây:  

LeChuaGiesuBienHinh.mp3 

----------------------

BÁNH SỰ SỐNG - THƯ TƯ 07-8-2019

  •  
    Hong Nguyen - Aug 6 at 7:42 PM
     

    THỨ TƯ TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN C

    NGÀY 07/08/2019

     


    Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Mátthêu (Mt 15: 21-28)

    Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con vua Đavid, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm". Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel". Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống". Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.

    Suy niệm


    Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện về sự thử thách niềm tin, sự kiên trì cầu xin của người đàn bà xứ Canaan đến xin Chúa Giêsu chữa con của bà bị quỷ ám. Với thái độ khiêm nhường và sự khôn khéo của bà, Chúa Giêsu đã khen bà và cho bà được như ý nguyện.

    Người đàn bà xứ Canaan này là người rất kiên trì. Khi bà tin Chúa Giêsu có thể chữa cho con bà, bà đã theo và xin cho bằng được, với mọi cách để đạt được mục đích là cho con của bà khỏi bị quỷ ám. Suốt một chặng đường, bà cứ kêu xin, kêu xin mãi. Còn Chúa Giêsu vẫn lặng thinh, không nói một lời nào. Tuy nhiên bà vẫn không nản chí, vẫn theo để cầu xin. Ánh sáng hy vọng bắt đầu hé mở: từ thinh lặng của Chúa Giêsu, giờ đây bà đã được đối thoại với Người.
     
    Nhưng ngay sau đó, bà đã bị từ chối. Nhưng bà không thất vọng, bà vẫn tiếp tục cầu xin. Với chút hy vọng hé sáng cộng với lòng thương con, làm cho bà trở nên khôn ngoan hơn, thông minh sắc bén. Bà đã chộp lấy câu nói của Chúa Giêsu: “thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn rớt xuống”. Chúa Giêsu đã khen bà có đức tin mạnh mẽ.

    Trong cuộc đời, chắc chắn không ít lần chúng ta nguyện xin với  Chúa, với Mẹ, thế nhưng không thấy nhận lời. Những lúc như thế, chúng ta cảm thấy chán nản, than trách Chúa, thậm chí đôi khi chúng ta muốn bỏ Chúa. Tuy nhiên chúng ta xem: liệu điều chúng ta xin có chính đáng không? Chúng ta xin theo ý Chúa hay theo ý riêng?
     
    Chúng ta cầu xin Chúa chưa nhận lời là vì Chúa muốn điều tốt đẹp cho chúng ta. Đôi khi Chúa muốn thử thách đức tin của chúng ta có thực sự tin vào Chúa hay chỉ là những lời tuyên xưng ngoài môi miệng!

     Chỉ có Chúa mới biết điều gì tốt cho chúng ta. Cũng như người đàn bà xứ Canaan được nói đến trong đoạn Tin Mừng trên, qua việc bị thử thách như thế, bà sẽ tin vào Chúa, sẽ hiểu Chúa và cảm nhận về tình thương của Chúa nhiều hơn. 

    Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con luôn xác tín và luôn tin tưởng vào Chúa để khi gặp thử thách gian nan, chúng con kiên trì trong lời cầu nguyện và trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Amen.


    GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
    Kính chuyển:
    Hồng
     

BÁNH SỰ SỐNG - 18TH SUNDAY -C

  •  
    Mo Nguyen
    Aug 3 at 6:51 AM
     
     
    hinh.jpg

     

                PARABLE OF THE RICH FOOL

     

                       EIGHTEENTH SUNDAY IN ORDINARY TIME / C     

                                               04 AUGUST 2019

                            REFLECTIONS ON THE GOSPEL (Luke 12: 13-21)

                                           TRUE AND FALSE SECURITY

    We human beings are very insecure creatures. We are afraid for the future and, in that fear, desperately clutch at what would seem to offer protection and security against all manner of threats.

    Wealth seems to offer the most obvious of security: with wealth we shall not go hungry, we shall have a roof over our heads; we shall gain influence and power, the likelihood of good health, and the enjoyment of life’s better things.

    But the deep fear that feeds our insecurity also feeds the desire for wealth, so that the desire itself can become insatiable and eventually take over our lives, making us increasingly insensitive and to other, deeper values.

    The parable in today’s Gospel addresses this issue. The rich landowner, whose chief problem was finding space for his harvest, thought he could look forward to many years of the good life because of all the ‘security’ he thought he had stored up.

    But, ‘this very the demand is made for his ‘soul’ – that is, for his worth as a human being, a prequisite for eternal life. It is exactly this deeper question that the man’s preoccupation with his wealth has caused him to neglect.

    The only security that is really lasting consists in being ‘rich’ in one’s relationship with God, because this is the only relationship that transcends death.

    But a preoccupation with wealth also poisons human relationships, and erodes the concern for others that is the basis of community. Attachment to wealth in this sense is incompatible with living, sharing and celebrating the hospitality of God.

    Brendan Byrne, SJ

    #1431- Parable Of The Rich Fool - (Luke 12:13-21):

    https://www.youtube.com/watch?v=J6MHNRNZfzk

     

              Be thankful for what you have

     

    song.jpg