8. Đời Sống Tâm Linh

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - CAC THÁNH NÓI VỀ THÁNH LỄ

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Thu, Dec 10 at 12:51 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


     

    CÁC THÁNH NÓI GÌ VỀ THÁNH LỄ

    Để chứng minh những gì chúng tôi vừa trình bày trên đây. Chúng tôi xin viện dẫn những lời các thánh và các nhà tiến sĩ thánh thiện phát biểu:
     
    Thánh Lawrence Justinian nói: “Không có lời cầu nguyện hoặc một việc lành nào làm vui lòng Chúa hơn là thánh lễ Misa.” Và, “Không miệng lưỡi nào có thể diễn tả được bao đặc ân, bao chúc lành chúng ta nhận được từ thánh lễ. Kẻ tội lỗi được ơn tha thứ. Người sốt sắng được thánh thiện hơn. Những lỗi lầm được chữa lành bởi thánh lễ.”
     
    Thánh Alphonsus: “Ngay cả chính Thiên Chúa cũng không thể làm gì thánh thiện hơn, tốt lành hơn và cao cả hơn thánh lễ Misa.”
     
    Thánh Thomas dạy: “Thánh lễ là sự diễn lại trên bàn thánh việc xảy ra trên đồi Canvê xưa, bởi vậy mỗi thánh lễ đem tới cho người dự những ích lợi ngang với những sự hy sinh của Chúa Kitô trên đồi Canvê.
     
    Thánh John Chrysostom: “Thánh lễ có giá trị ngang với sự hy sinh của Chúa Kitô trên đồi Canvê.”
     
    Thánh Bonaventure: “Thánh lễ là tất cả tình yêu của Chúa được gói trọn trong đó những ích lợi cho con người. Thánh lễ ban bố cho thế giới những lợi ích không ít qua cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
     
    Thánh Hanon Giám Mục thành Cologne: “Có một lần ngài nhìn thấy trái cầu đẹp dị thường và sáng chói chạy quanh chén rượu lễ khi ngài truyền phép, và rồi trái cầu đó đi vào chén rượu. Ngài kinh sợ đến nỗi không dám tiếp tục dâng thánh lễ. Nhưng Thiên Chúa cho ngài biết sự việc thường xảy ra như vậy trong mỗi thánh lễ mặc dù mắt người trần không thấy được. Bánh thánh biểu hiệu dấu trường sinh vì là Máu Thịt Chúa Kitô, Đấng cao cả vô biên làm tràn ngập Thiên Đàng với sự uy linh của Người. Tại sao chúng ta không nhận thức được như vậy?
     
    Thánh Odo nói: Hạnh phúc của thế giới tới từ thánh lễ Misa.”
     
    Thánh Timothy: “Thế giới này có thể bị hủy diệt từ lâu bởi tội lỗi con người nếu không có thánh lễ. Cuộc đời này không có gì có thể cho chúng ta nhiều ơn lành bằng thánh lễ.”
     
    Thánh Fornerius diễn tả: Dự một thánh lễ, chúng ta sẽ làm Chúa rất vui ong; sẽ lãnh nhận biết bao ơn ích, bao đặc sủng từ Thiên Chúa cho cuộc hành trình về quê thật.”
     
    Thánh Marchant ca ngợi: “Nếu chúng ta dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi tất cả những sự đền tội, những lời cầu nguyện, những việc lành của các thánh. Nếu chúng ta dâng những dòng máu thác lũ, những chịu đựng đau đớn của các Tông Đồ, và cả triều thần thánh tử đạo cũng vẫn không bằng một thánh lễ, bởi thánh lễ thật sự là sự hiến tế, sự hy sinh trên đồi Canvê. Trong thánh lễ Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa Cha Hằng Sống tất cả những đớn đau, nhục nhã, khổ hình, những công nghiệp về cuộc tử nạn và cái chết đau thương khủng khiếp của Người năm xưa.”Thánh lễ cho chúng ta những ân huệ lớn lao nhất, những chúc lành, những đặc ân trong tinh thần lẫn vật chất, những ân sủng mà chúng ta không thể nào gặt hái được ở những cái khác. Nhờ thánh lễ chúng ta có thể tránh được bao sự nguy hiểm từ ma quỉ, thế gian đang đe dọa chúng ta.
     
    Thánh Anphongsô, môt vị thánh đáng kính ca ngợi thánh lễ: “Lý do nào khiến Thiên Chúa ban cho chúng ta tất cả những ân huệ? Thánh lễ là một của báu vô giá, bởi vì, tất cả những lời cầu nguyện, những việc lành của các Thiên Thần và các thánh, dù họ đầy những công trạng vinh hiển cho Chúa không tả hết được. Mặc dù việc lành của họ vô bờ bến, vẫn không thể sánh được với sự hy sinh vô bến bờ của thánh lễ. Tất cả những sự tạo dựng trên Thiên Đàng, dưới trái đất, cũng như mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi non, biển cả, mọi kỳ công của tạo vật, mọi người, mọi vật trên trái đất cùng các Thiên Thần, cũng không một người nào, hay bất cứ một sự gì có thể sánh được với Thiên Chúa, bởi vậy không có việc lành nào, sự thánh thiện nào bằng một thánh lễ, vì thánh lễ là Chính Thiên Chúa. Chính con Thiên Chúa làm của lễ hiến tế đền thay cho tội lỗi nhân loại.”
     
     FR. O’SULLIVAN
     

 

 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - HAI NGƯỜI MÙ TIN CHÚA

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Fri, Dec 4 at 12:27 AM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    Chữa lành 2 người mù.

    04/12 – Thứ Sáu đầu tháng, tuần 1 mùa vọng.

    "Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành".

     

    LỜI CHÚA: Mt 9, 27-31

    Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi".

    Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: "Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?" Họ thưa: "Lạy Thầy, có". Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: "Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy". Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: "Coi chừng, đừng cho ai biết". Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.

     

    * Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

     

    Suy Niệm 1: Mắt họ liền mở ra

    Suy niệm:

    Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt,

    và 900 ngàn người mù một mắt.

    Tỉ lệ người mù như thế là cao so với nhiều nước khác.

    Bao cố gắng được đưa ra để giảm số người bị mù,

    trong đó có việc mổ cho 350 ngàn người mắc bệnh đục thủy tinh thể.

    Người ta hy vọng nhờ đóng góp của các ân nhân,

    sẽ có 100 ngàn người nghèo được mổ trong năm 2010.

    Hạnh phúc biết bao cho ai lần đầu tiên thấy khuôn mặt người thân,

    thấy được màu xanh của lá và phân biệt được sáng với chiều.

    Hạnh phúc cho ai lần đầu tiên đi đứng mạnh dạn một mình

    mà không cần bàn tay dắt hay cây gậy khua phía trước.

    Ở nước Palestin thời xưa cũng có nhiều người mù.

    Mù thường bị coi như một hình phạt của Thiên Chúa (Đnl 28, 28-29).

    Người mù hẳn là người bị đứng ngoài lề xã hội.

    Vào thời y khoa còn kém, người mù phải chịu cảnh tăm tối suốt đời.

    Nỗi đau của người mù cũng ảnh hưởng trên cả đất nước.

    Chính vì thế khi nói đến thời đại hạnh phúc của Đấng Mêsia,

    Isaia nhiều lần nhắc đến chuyện người mù được sáng mắt (Is 35, 5; 42, 7).

    Trong bài đọc 1 ta vừa nghe (Is 29, 18), ngôn sứ Isaia viết:

    “Mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm, và sẽ được nhìn thấy.”

    Được nhìn thấy bằng đôi mắt nghĩa là được mở ra với thế giới bên ngoài.

    Tiếp xúc bằng mắt vẫn có cái gì vượt trội hơn tiếp xúc bằng tay hay tai.

    Khi chữa lành những người mù và những tật bệnh khác,

    Đức Giêsu khai mở thời đại thiên sai (x. Mt 11, 2-6).

    Ngài cho thấy Nước Thiên Chúa nay đã đến.

    Khi hai anh mù gọi Đức Giêsu là Con vua Đavít (c. 27),

    họ nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai.

    Bởi thế họ hy vọng Ngài sẽ cho họ quà tặng của thời thiên sai.

    “Xin thương xót chúng tôi” là xin đưa chúng tôi ra khỏi cảnh mù lòa.

    Đức Giêsu đã muốn chữa hai anh một cách kín đáo, tại nhà của Phêrô.

    Ngài không chữa cho họ ngay lập tức, nhưng lại hỏi họ một câu rất lạ:

    “Các anh có tin là tôi có thể làm được điều ấy không?” (c. 28).

    Chỉ khi họ tuyên xưng niềm tin vào quyền năng của Ngài,

    Đức Giêsu mới mở mắt cho họ bằng một lời và một chạm nhẹ (c. 29).

    Niềm vui quá lớn khiến họ không giữ được lặng thinh (c. 31).

    Giáng Sinh là lễ của Ánh sáng, Ánh sáng ngay giữa đêm đen.

    Ơn của Mùa Vọng là ơn thoát ra khỏi cảnh tăm tối mù lòa.

    Mù lòa đâu phải chỉ là chuyện của 37 triệu người mù trên thế giới.

    Mù lòa về chính mình, mù lòa vì không thấy những Ladarô trước cửa,

    mù lòa về chính những người trong gia đình, trong giáo xứ,

    mù lòa vì không thấy Chúa vẫn đang hiện diện gần bên,

    những mù lòa ấy cũng nguy hiểm không kém và cần được chữa lành.

    Xin Giêsu đụng vào mắt tôi để tôi được sáng,

    và để tôi giúp người khác cũng được thấy ánh sáng Giêsu.

     

    Cầu nguyện:

    Như người mù ngồi bên vệ đường

    xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

     thấy bản thân

    với những yếu đuối và khuyết điểm,

    những giả hình và che đậy.

    Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

    cả những khi con không cảm nghiệm được.

    NHỜ ƠN THÁNH THẦN con QUYẾT TÂM để cho ánh sáng Chúa

    chiếu dãi vào bóng tối của con.

    Như người mù ngồi bên vệ đường

    xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.

    Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

     

    -------------------------------------

 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - ĐỂ SỐNG ĐỜI CẦU NGUYỆN

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Sat, Nov 28 at 10:23 PM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    11 GỢI Ý ĐỂ SỐNG ĐỜI CẦU NGUYỆN

    TỪ THÁNH TÊRÊSA AVILA

     

    WHĐ (19.11.2020) – Chúng tôi nghĩ rằng gợi ý thứ 8 có thể khó nhất! Nhưng đó là một gợi ý rất đáng giá để có được bình an trong cuộc sống.

     

     

    Thánh Têrêsa Avila được biết đến như một bậc thầy về cầu nguyện. Dưới đây là 11 gợi ý được trích từ các bài viết của thánh nhân giúp cho cuộc sống của bạn được kết hiệp với Thiên Chúa.

     

    1. Hãy dâng lên Chúa mọi hoạt động của các con, và nguyện xin cho những hoạt động đó cống hiến cho danh dự và vinh quang của Ngài.

     

    2. Cùng với lòng nhiệt thành và khao khát đến với Chúa, các con hãy dâng mình 50 lần mỗi ngày.

     

    3. Hãy nhận biết sự quan phòng và khôn ngoan của Chúa trong mọi điều, và ngợi khen Ngài.

     

    4. Những lúc buồn phiền hay lo âu, đừng buông thả công việc hay từ bỏ việc cầu nguyện, cũng như việc sám hối của các con. Thay vào đó, hãy thực hành những việc đó một cách mãnh liệt và các con sẽ sớm nhận ra Chúa đang nâng đỡ các con.

     

    5. Đừng bao giờ nói xấu ai, cũng đừng nghe người khác nói xấu ai đó, trừ phi những lời đó nói về bản thân các con.

     

    6. Đừng bao giờ nói về sự hiểu biết, các nhân đức, xuất thân... của các con để nhận được sự ngưỡng mộ từ người khác - nếu không phải vì mục đích phục vụ. Mà nếu điều đó hướng đến mục đích phục vụ, thì các con cũng cần thể hiện trong sự khiêm tốn, qua việc nhận ra những ân ban đó xuất phát từ tay Thiên Chúa.

     

    7. Hãy xem bản thân các con chỉ là tôi tớ của mọi người, và trong mọi người, hãy chiêm ngắm Đức Giêsu, Chúa chúng ta. Như vậy, các con sẽ kính trọng và yêu mến Người.

     

    8. Đừng tỏ ra tò mò về những thứ không liên quan đến các con, cũng không bình phẩm hoặc đặt câu hỏi – bất kể chuyện gần hay xa.

     

    9. Chỉ trong những tình huống khẩn thiết mới cho mọi người thấy lòng sùng kính của các con với Thiên Chúa.

     

    10. Hãy làm mọi việc như thể có Chúa Giêsu hiện diện. Linh hồn của các con sẽ đạt được nhiều ích lợi nếu các con làm như vậy.

     

    11. Ước gì khao khát của các con là được nhìn thấy Chúa, và sợ hãi của các con là để mất Ngài. Ước gì nỗi buồn của các con là khi không làm vui lòng Chúa và thỏa mãn của các con là bất cứ những gì dẫn các con đến với Ngài. Và các con sẽ sống trong bình an tuyệt vời.

     

    Biên tập: Felipe Aquino

    Chuyển ngữ: Viết Thanh

     

 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - LINH ĐẠO VÀ NỬA SAU CUỘC ĐỜI

 

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Wed, Dec 2 at 9:48 PM
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng


    LINH ĐẠO VÀ NỬA SAU CỦA CUỘC ĐỜI

     

    Theo các Giáo phụ, linh đạo là việc đi tìm để “thấy khuôn mặt của Chúa” và điều này, như Chúa Giêsu đã nói rõ, đòi hỏi chỉ một điều, thanh tẩy tâm hồn

     

     

    Một kích thước thì sẽ không phù hợp cho tất cả mọi người. Điều này không những chỉ đúng với quần áo mà còn đúng với linh đạo. Các thách thức trong đời sống chúng ta thay đổi theo tuổi đời. Linh đạo không phải lúc nào cũng hoàn toàn tinh tế với vấn đề này. Dĩ nhiên chúng ta luôn có các chỉ dẫn và sinh hoạt thích ứng với trẻ em, với người trẻ, với các cha mẹ nuôi dạy con, với người người đang làm việc, đang trả nợ ngân hàng nhưng chúng ta chưa bao giờ triển khai linh đạo cho những người đã hoàn thành các việc này.

    Vì sao lại cần? Chúa Giêsu dường như không làm. Ngài không có bộ giáo lý nào dành riêng cho người trẻ, cho người trung niên, cho người lớn tuổi. Ngài chỉ giảng dạy. Bài giảng trên núi, các dụ ngôn và lời Ngài kêu gọi mọi người vác thập giá theo Ngài, một mục đích giống nhau cho tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác. Nhưng chúng ta nghe các lời dạy này vào những lúc khác nhau trong cuộc đời; chúng ta nghe Bài giảng trên núi lúc bảy tuổi khác lúc chúng ta nghe khi hai mươi bảy tuổi và khi tám mươi bảy tuổi. Lời Chúa Giêsu dạy không thay đổi, nhưng chúng ta thay đổi, và các lời dạy này đưa ra các thách thức cụ thể ở các thời điểm khác nhau trong cuộc đời chúng ta.

    Chung chung linh đạo kitô ghi nhớ điều này, trừ một ngoại lệ. Ngoại trừ Chúa Giêsu và các nhà thần nghiệm không chuyên (những người không dành trọn đời hay một thời gian dài như một nhà linh đạo, họ chỉ ngẫu nhiên hoặc một giai đoạn rất ngắn sống như nhà thần nghiệm), đã không phát triển một linh đạo rõ ràng cho những năm cuối đời của chúng ta, chúng ta nên sinh sôi như thế nào trong những năm tuổi già và làm sao để có một cái chết đem lại sự sống. Nhưng có một lý do cho sự thiếu sót này. Đơn giản mà nói, nó không cần thiết vì cho đến cuối thế kỷ trước, đa số người dân chưa bao giờ sống đến tuổi già. Ví dụ, ở Palestina vào thời Chúa Giêsu, tuổi thọ trung bình chỉ ba mươi đến ba mươi lăm năm. Cách đây một thế kỷ, tuổi thọ ở Mỹ vẫn chưa đầy năm mươi. Khi hầu hết mọi người trên thế giới qua đời trước khi họ bước vào tuổi năm mươi, thực sự không cần thiết phải có một linh đạo cho người lớn tuổi.

    Nhưng có một linh đạo như thế bên trong Tin Mừng. Mặc dù chết ở tuổi ba mươi ba, nhưng Chúa Giêsu vẫn để lại cho chúng ta khuôn mẫu về cách già đi và cách chết. Nhưng mô hình này, dù thấm đậm và nâng đỡ lành mạnh cho linh đạo kitô chung chung lại chưa hề được phát triển cụ thể thành một linh đạo cho lão hóa (ngoại trừ một số nhà thần nghiệm kitô giáo vĩ đại).

    Sau Chúa Giêsu, các Giáo phụ, Giáo mẫu trong sa mạc đã đặt lại vấn đề về cách già đi và về cái chết, họ đã đưa vào khuôn khổ chung trong linh đạo của họ. Theo các Giáo phụ, linh đạo là việc đi tìm để “thấy khuôn mặt của Chúa” và điều này, như Chúa Giêsu đã nói rõ, đòi hỏi chỉ một điều, thanh tẩy tâm hồn. Vì vậy, theo các Giáo phụ, dù ở tuổi nào thách thức vẫn giống nhau, cố gắng làm sao để có được tâm hồn tinh tuyền. Sau đó, đến thời các cuộc bách hại và các vị tử đạo kitô giáo đầu tiên, một ý tưởng được phát triển, cách lý tưởng để già đi và chết là tử đạo. Sau đó, khi tín hữu kitô không còn tử đạo về thể xác thì có ý tưởng cho rằng, chúng ta có thể tự nguyện hy sinh bằng cách sống theo lời khuyên của Tin Mừng, sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Họ nghĩ rằng sống như vậy, cũng như việc đi tìm để tâm hồn được tinh tuyền, sẽ dạy cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần, ở bất cứ độ tuổi nào. Cuối cùng, điều này được mở rộng, có nghĩa là bất cứ ai trung thành làm bổn phận đời mình, dù ở tuổi nào sẽ học được mọi thứ cần thiết để trở nên thánh thiện nhờ lòng trung thành này. Như câu châm ngôn nổi tiếng đã nói: Hãy ở trong tịnh cốc của bạn, bạn sẽ học được tất cả những gì bạn cần biết. Hiểu một cách chính xác, đây là linh đạo của lão hóa và của cái chết bên trong các khái niệm này, nhưng cho đến gần đây, không cần giải thích nhiều để hiểu một cách rõ ràng hơn.

    May thay, tình trạng này ngày nay đã tiến triển, chúng ta ngày càng phát triển các linh đạo rõ ràng về lão hóa và cái chết. Có lẽ điều này nói lên hiện trạng dân số đã già đi, và bây giờ có phong trào văn học đang phát triển, cả tôn giáo và thế tục, đặt ra câu hỏi về lão hóa và về cái chết. Các tác giả này quá nhiều để không thể nêu hết, nhưng có nhiều tác giả đã quen thuộc với chúng ta: Henri Nouwen, Richard Rohr, Kathleen Dowling Singh, David Brooks, Hồng y Bernardin, Michael Paul Gallagher, Joan Chittister, Parker Palmer, Marilyn Chandler McEntyre, Paul Kalanithi, Erica Jong, Kathie Roiphe, và Wilkie và Noreeen Au. Ở trên nhiều quan điểm khác nhau, mỗi người đều có cái nhìn về Chúa và thiên nhiên, và họ nói với chúng ta trong những năm gần đây.

    Về bản chất, đây là vấn đề: ngày nay, càng ngày chúng ta càng sống thọ và có sức khỏe khi về già. Thường chúng ta nghỉ hưu vào khoảng đầu những năm sáu mươi sau khi đã nuôi dạy con cái, nghỉ việc và trả xong nợ ngân hàng. Vậy giai đoạn tiếp là gì, nếu chúng ta có thể sống hai hoặc ba mươi năm nữa, sức khỏe vẫn còn tốt và còn năng lượng?

    Những năm này để làm gì? Bây giờ chúng ta được gọi để làm gì, ngoài việc yêu thương con cháu mình? Ông Abraham và bà Sarah được mời lên đường đến vùng đất mới và mang thai một đứa trẻ đã từ rất lâu họ không thể có. Đó cũng là lời kêu gọi chúng ta. Chúng ta được kêu gọi sinh ra “Isaac” nào trong những năm cuối đời? Chúng ta cần được hướng dẫn.

    Ronald Rolheiser,

    Marta An Nguyễn dịch

     

 

ĐỜI SỐNG TÂM LINH - THỨ NĂM CN34TN-A

  •  
    nguyenthi leyen
     
    Thu, Nov 26 at 1:25 AM
     
     
     
     
     
     
    Ảnh cùng dòng

    Giờ cứu rỗi đã gần đến.

    26/11 – Thứ Năm tuần 34 thường niên.

    "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt".

     

    Lời Chúa: Lc 21, 20-28

    Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép.

    "Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.

    "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".

     

     

    Suy Niệm 1: Sắp được cứu chuộc

    Suy niệm:

    Theo Josephus, một sử gia người Do Thái đáng tin cậy,

    bốn quân đoàn của vị tướng Rôma là Titus

    đã vây hãm thành phố Giêrusalem vào lễ Vượt Qua năm 70,

    khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng cực.

    Ông kể chuyện một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá đói

    đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn.

    Cũng theo sử gia này, quân Rôma đã dùng gươm

    để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê.

    Những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần một trăm ngàn.

    Ai có thể tưởng được điều khủng khiếp như vậy đã xảy ra

    chỉ bốn mươi năm, sau khi Đức Giêsu nói những lời tiên báo.

    Giêrusalem là thành trì vững chắc, nơi trú ẩn an toàn,

    bây giờ lại là nơi nguy hiểm, cần phải tránh xa (c. 21).

    Tai họa ập xuống trên phụ nữ mang thai và cho con bú (c. 23).

    trên cả tội nhân lẫn trẻ thơ vô tội.

    Thành đô đã bị bao vây, bị thiêu rụi, bị quân Rôma giày xéo.

    Dân thành bị ngã gục, bị đi đày, phải tản mác khắp nơi.

    Sự sụp đổ của thành đô đã là một biến cố trên đất Israel.

    Nhưng trước khi Đức Giêsu ngự đến trên mây trời

    như Con Người đầy quyền năng và vinh hiển (c. 27),

    sẽ có những dấu lạ đáng sợ khác trên bầu trời và ngoài biển cả (c. 25).

    Thánh Máccô nói đến hiện tượng mặt trời, mặt trăng mất sáng,

    và các vì sao sa xuống từ trời (Mc 13, 24-25).

    Thánh Luca nói đến cảnh biển gào, sóng thét.

    Những điều đó làm muôn dân hoang mang, hồn xiêu phách lạc,

    nhưng không làm các môn đệ hoảng hốt, âu lo.

    Ngược lại họ mừng vui vì Đấng họ chờ đợi từ lâu nay đã đến.

    “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (c. 28).

    Đứng thẳng để đón Đấng mà họ đã suốt đời thắp đèn chờ đợi.

    Ngẩng đầu để mừng giây phút ơn cứu chuộc đã đến gần.

    Chỉ khi Đức Giêsu phục sinh trở lại như Đấng xét xử quyền năng,

    Ngài mới trọn vẹn hoàn thành Nước Thiên Chúa trên mặt đất.

    Vào cuối năm phụng vụ, Lời Chúa nói với chúng ta về ngày tận thế.

    Đó là ngày vừa đáng sợ, vừa chan chứa niềm vui,

    ngày được gặp mặt Đấng chúng ta đã tin tưởng, mến yêu và hy vọng.

    Người ta vẫn hay đoán già đoán non về ngày tận thế.

    Nhiều người tưởng là năm 2000, gần đây có người lại nói là 2012.

    Điều quan trọng là làm sao tôi có thể đứng thẳng, ngẩng đầu khi Ngài đến,

    làm sao nhân loại trên trái đất này sẵn sàng ra nghênh đón Ngài

    như đón Đấng Cứu Tinh mà họ nóng lòng chờ đợi.

    Nếu ngày mai Ngài đến với cả thế giới hay đến với riêng mình tôi,

    tôi có sẵn sàng chưa hay còn bị còng lưng, cúi đầu vì bao gánh nặng?

    Mỗi người đều có ngày tận thế của mình.

    Xin cho tôi được bình an khi ngày ấy đến mà không có điềm lạ nào báo trước.

     

    Cầu nguyện:

    Lạy Chúa Giêsu,

    nếu ngày mai Chúa quang lâm,

    chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

    Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,

    còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

    Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,

    Chúa đâu muốn mất một người nào...

    Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa

    xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,

    vui tươi và hạnh phúc,

    để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn

    cho mọi người và cho cả vũ trụ.

    NHỜ ƠN CHÚA nuôi dưỡng nơi chúng con

    niềm tin vững vàng

    và niềm hy vọng nồng cháy,

    để tất cả những gì chúng con làm

    đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

    Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

     

    Suy Niệm 2: ĐỨNG THẲNG VÀ NGẨNG ĐẦU LÊN

    (TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

    Chúa cho biết sẽ đến ngày khốc hại. Dân ngoại nắm quyền sinh sát. Tàn phá thành thánh. Chà đạp đền thờ. Giết hại tín hữu. “Sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này. Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo”.

    *Lại còn thêm những điềm lạ trên trời, sóng biển gào thét. Khiến con người hồn xiêu phách lạc. Nhưng trong những tai ương kinh khiếp ấy, người con Chúa “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. Quả thật những ngày cuối cùng của vũ trụ sẽ là nỗi kinh hoàng của dân ngoại. Nhưng đối với con cái Chúa đó lại là niềm hi vọng. Vì đã đến ngày được ơn cứu độ.

    Điều đó đã từng xảy ra thời vua Đa-ri-ô. Người Do thái bị bắt làm nô lệ. Bị buộc phải thờ lạy tượng vua. Phải ăn thịt heo. Đa-ni-en, vì trung thành với Chúa. Nên ông bị tố cáo. Và bị ném xuống hầm sư tử. Sư tử là nỗi khốn cùng của dân Ba-by-lon. Nhưng lại là dụng cụ Chúa dùng khiến Đa-ni-en được tôn vinh. Đa-ni-en đã đứng thẳng người hiên ngang ngẩng cao đầu. Vì “Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần”. Trái lại, hang sư tử trở thành nỗi kinh hoàng của những kẻ ác độc, tố cáo gian cho Đa-ni-en. Vì thế xác họ còn chưa đến đáy hang thì sư tử đã chồm lên cắn xé họ. Qua đó Chúa được tôn vinh. Vua Đa-ri-ô viết sắc lệnh đi khắp đế quốc truyền phải kính sợ Thiên Chúa của Đa-ni-en (năm lẻ).

    Sách Khải huyền cũng trình bày thời sau hết của thế gian. “Thành Ba-by-lon vĩ đại! Nó đã trở nên sào huyệt của ma quỷ, hang ổ của mọi thứ thần ô uế”. Nhưng rồi đến ngày Chúa ra tay. Ba-by-lon điêu tàn. Mọi người phải chết. “Bởi vì các con buôn của ngươi từng là kẻ quyền thế trên mặt đất, bởi vì ngươi đã dùng phù phép mà làm cho muôn nước mê hoặc”. Còn những người trung tín với Chúa. Đã chịu khổ cực ở trần gian. Đã bị giết chết. Nay được vinh quang. Ca tụng Thiên Cháu: “Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu Độ, Đấng vinh hiển uy quyền… Vì Người đã xét xử Con Điếm khét tiếng …, và Người đã bắt nó phải đền nợ máu các tôi tớ của Người mà chính tay nó đã giết” (năm chẵn).

    *SUY TƯ VÀ QUYẾT TÂM HÀNH ĐỘNG:

    Hãy noi gương Đa-ni-en. Không bị Con Điếm cám dỗ. Không khuất phục trước bả vinh hoa của vua chúa trần gian. Chỉ trung tín với Chúa. Dù bị thiệt thòi. Hãy can đảm làm chứng cho Chúa. Rồi đến lúc mọi người chịu khuất phục. Ta sẽ đứng thẳng và ngẩng cao đầu. Vì Thiên Chúa đến cứu ta.

     

    ----------------------------------